Thanh Niên Online
08:00 AM - 20/06/2016
.
Nước sông Hậu xanh
như nước biển vì không còn phù sa. ẢNH: ĐÌNH TUYỂN
Lượng
phù sa đổ về mất dần đẩy Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đối mặt với nguy cơ tan rã.
- ĐBSCL thiệt hại hơn 4.700 tỉ đồng vì hạn, mặn
- Nước sông Hậu bỗng xanh... như nước biển: Hiểm họa tan rã ĐBSCL
- ĐBSCL - Đối mặt và thích ứng
------------
PGS-TS Lê Anh Tuấn, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu
biến đổi khí hậu (Trường ĐH Cần Thơ), cho biết nghiên cứu của ĐH Quốc gia
Singapore (National University of Singapore) về tác động của đập thủy điện Mạn
Loan (Manwan, Trung Quốc) lên lượng phù sa đổ về ĐBSCL cho thấy trước khi có
con đập này, lượng phù sa về ĐBSCL khoảng 160 triệu tấn/năm.
Sau khi con đập được đưa vào hoạt động, con số này
chỉ còn 75 triệu tấn. Như vậy, chỉ với một con đập Trung Quốc tạo ra, lượng phù
sa đã giảm đi một nửa. Theo tính toán, con số này sẽ tiếp tục giảm thêm 1/2 nữa,
chỉ còn khoảng 42 triệu tấn, nếu các đập trên dòng chính sông Mê Kông ở Lào và
Campuchia đi vào hoạt động.
Đồng sen ở Tháp Mười,
nơi theo quy luật ngập sâu từ 1,2 - 1,5 m vào mùa nước nổi, nay phải bơm nước
vào để canh tác. ẢNH: CHÍ NHÂN
Phù
sa mất, nước biển dâng
Gắn bó cả đời với vùng đất An Giang - thượng nguồn
sông Cửu Long, ở cả góc độ một người nông dân và lãnh đạo tỉnh An Giang, ông
Nguyễn Minh Nhị, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh, tâm sự: “Người ta nói đập Trung Quốc
không ảnh hưởng gì đến ĐBSCL. Nhưng rồi thực tế chứng minh ngược lại. Cứ coi sự
thay đổi của con nước là thấy rõ ngay. Theo quy luật, trước đây cứ đến mùng 5.5
âm lịch nước bắt đầu chuyển màu, đục ngầu, gọi là con nước quay. Đây là hiện tượng
nước ngoài biển dâng lên do triều cường ở Biển Đông kết hợp với nước từ thượng
nguồn đổ về. Nay đã là mùng 10.5 âm lịch, lẽ ra nước phải xuống tới An Giang cả
tuần rồi. Nhưng giờ đây phù sa bị chặn lại hết nên nước sông vẫn còn trong vắt.
Độ đục trong nước so với trước chỉ còn con số 0. Không biết tới mùa nước nổi về,
nước còn đục được hay không nữa. Sự bất thường của dòng Mê Kông hiện nay nằm ở
chỗ đó”.
Còn ông Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia về sinh thái
ĐBSCL, nói quá trình kiến tạo ĐBSCL diễn ra từ 6.000 năm trước nhưng sự mất cân
bằng phù sa hiện nay sẽ làm đảo ngược quá trình kiến tạo đó và dẫn đến nguy cơ
tan rã đồng bằng.
Không chỉ các chuyên gia, những người dân các tỉnh
ven Biển Đông ở vùng châu thổ cũng cảm nhận một cách hết sức rõ ràng rằng mực
nước biển càng ngày càng cao. Anh Trần Mạnh Tính, ở ấp 15, xã Vĩnh Hậu A (Hòa
Bình, Bạc Liêu), cho biết năm rồi con nước cao nhất vào ngày 30.10 âm lịch cao
hơn trung bình các năm trước khoảng 10 cm. Còn tính trung bình 10 năm qua, nước
dâng lên chừng 40 cm. Cán bộ địa phương và lực lượng kiểm lâm tỉnh Bạc Liêu
cũng có cùng nhận xét này. Ở nơi tận cùng Tổ quốc, chị Lê Kim Nhân (ấp Bà
Hương, xã Đất Mũi, H.Ngọc Hiển, Cà Mau) nói: “Tôi nhớ rất rõ vào đêm giao thừa
dịp tết vừa rồi nước đã tràn lên tận sân trước nhà. Đó là con nước cao nhất từ
trước tới nay. Trước đây, lúc nước cao nhất nó cũng thấp hơn cái sân này hơn 10
cm”.
Theo ông Thiện, số liệu đo đạc thực tế từ nhiều nguồn
khác nhau cho thấy mực nước biển dâng bình quân mỗi năm khoảng 3 mm. TS Lê Xuân
Thuyên, Trường ĐH Khoa học tự nhiên (ĐH Quốc gia TP.HCM), bổ sung: So với cảnh
báo toàn cầu thì biển phía đông của Philippines và Biển Đông của VN đang là nơi
có tốc độ nước biển dâng nhanh nhất, gây nguy cơ ngập tăng. Đây là hậu quả biến
đổi khí hậu lâu dài do tự nhiên và hoạt động nhân sinh.
“Đối chiếu lại với lịch sử kiến tạo nên ĐBSCL thì những
gì đang diễn ra có hướng bất lợi hơn cho sự tồn tại và phát triển của châu thổ”,
TS Thuyên nhận định.
Sự khác biệt giữa số liệu đo đạc của các nhà khoa học
và cảm nhận từ thực tế của người dân được các chuyên gia giải thích: Mặt đất thấp
đi có nguyên nhân do phù sa bồi đắp ngày càng ít và sụt lún không đều nhau trên
toàn khu vực. Sự sụt lún ở các khu vực khác nhau do các hoạt động nhân sinh
như: khai thác nước ngầm quá mức, đô thị hóa, các công trình lớn tập trung ở
vùng ven sông biển ngày càng nhiều...
Biểu đồ về sự sụt
giảm lượng phù sa trong nước sông Mê Kông. NGUỒN: TS LÊ ANH TUẤN
Tan
rã trong vài trăm năm
Theo ông Nguyễn Hữu Thiện, hiện nay Lào đã xây đập
thủy điện Xayaburi được 70%, còn đập Don Sahong đang chuẩn bị ráo riết để khởi
công. Khi các con đập này đi vào hoạt động, tình trạng mất cân bằng phù sa ngày
càng tăng, nguy cơ tan rã ĐBSCL ngày càng lớn và quá trình này có thể chỉ mất
vài trăm năm so với quá trình kiến tạo hàng ngàn năm. Nhưng đó vẫn là câu chuyện
của tương lai. Còn thực tế, phù sa giảm sẽ làm ảnh hưởng đến lượng dinh dưỡng tự
nhiên cung cấp cho đất.
Ở ĐBSCL, cây lúa là cây trồng chính. Các nghiên cứu
cho thấy, cây lúa cần đến 16 loại dinh dưỡng khác nhau trong khi phân bón chỉ
có vài ba loại, nên không thể nào thay thế được vai trò của phù sa. Thực tế sản
xuất lúa ở trong và ngoài đê bao đã chứng minh điều này.
TS Dương Văn Ni, Trường ĐH Cần Thơ, khẳng định: “Khi
nói đến thủy điện người ta thường nói nhiều về số lượng nước mà ít nhấn mạnh đến
yếu tố chất lượng nước. Chất lượng nước thể hiện qua lượng phù sa có trong đó.
Lượng phù sa này sẽ bị các đập thủy điện ngăn lại gần như vĩnh viễn. Không có
phù sa, đồng bằng chết chắc”.
TS Lê Xuân Thuyên cũng lo lắng: “Với những gì đang
diễn ra, xu hướng tan rã vùng châu thổ Mê Kông về lâu dài là chắc chắn và không
thể tránh khỏi. Nhưng vấn đề đáng quan tâm là hành động của chúng ta có làm
thúc đẩy ngày đó đến sớm hay muộn hơn hay không hoặc có thể cố giữ được một phần
đất nào đó? Đây không chỉ là mối lo chung của VN chúng ta, mà còn là vấn đề
chung trên các châu thổ khác”.
Ông Thuyên dẫn chứng châu thổ Mississippi (khu vực Bắc
Mỹ) đã gặp phải vấn đề này từ 40 năm trước. Từ đó đến nay, họ đổ nhiều tỉ USD để
xây dựng đê, đập, mở đê cho nước vào lấy bùn cát, phù sa nhằm duy trì quá trình
bồi đắp tự nhiên.
*
*
Tác
động xấu từ con người
Theo TS Lê Xuân Thuyên, không chỉ thiếu phù sa khiến
vùng châu thổ ĐBSCL không được tiếp tục bồi đắp mà ngay chính chúng ta cũng làm
thay đổi sự phân bố phù sa lên đồng ruộng theo tiến trình tự nhiên vốn có trước
đây, qua việc tập trung kiểm soát ngập vào mùa nước nổi. Đó là chưa kể các tác
động nạo vét, bồi đắp công trình ven biển làm thay đổi cục bộ chế độ hải văn. Hậu
quả là môi trường biển bất ổn hơn khi mà sự kết hợp các tác động như thủy triều,
sóng, gió... trở nên thường xuyên hơn.
No comments:
Post a Comment