Phạm Trần
Đăng ngày 23.06.2016 -
4:40pm
GNsP (23.06.2016) – Nền Báo chí mệnh danh Cách mạng ở tuổi
91 của Nhà nước Cộng sản Việt Nam (21/6/1925 – 21/6/2016) nên được đánh gía như
thế nào trong lịch sử Báo chí Việt Nam ?
Trước hết, loại báo này không phải là báo của quần
chúng mà là của các Tổ chức của đảng và nhà nước. Chúng ra đời với mục đích duy
nhất để phục vụ và tuyên truyền cho đảng.
Nhiệm vụ của báo chí đảng được quy định rành mạch
trong Luật Báo Chí (sửa đổi), ban hành ngày 05/04/2016 (Luật số:
103/2016/QH13): “Là cơ quan ngôn luận của cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội – nghề nghiệp; là diễn đàn của Nhân dân.” (Điều 4)
Nhưng “diễn đàn của Nhân dân” không có nghĩa người
dân được quyền phê bình hay chỉ trích giới Lãnh đạo, nhất là đối với 4 chức vụ
chủ chốt gồm Tổng Bí thư đảng, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội và Thủ tướng.
Ý kiến nhân dân, đa phần có nội dung thuận lợi cho đảng
và những việc làm của cán bộ, chỉ được đăng tải sau khi được chắt lọc bởi Tổng
biên tập, một cán bộ của Nhà nước làm việc trực tiếp với Ban Tuyên giáo đảng.
Những phản biện không đáp ứng nhu cầu của đảng như
những bài góp ý kêu gọi bỏ Điều 4 Hiến pháp dành quyền lãnh đạo độc tôn đương
nhiên cho đảng đã bị dẹp bỏ vào dịp Nhà nước lấy ý kiến sửa đổi Hiến pháp năm
2013.
Báo đảng cũng không được phép đưa tin khi có phong
trào quần chúng và Hội đồng Giám mục Việt Nam, đại diện cho trên 7 triệu người
Công giáo, lên tiếng đòi bỏ Điều 4 Hiến pháp và loại Chủ nghĩa Cộng sản ra khỏi
Hiến pháp mới.
Họ cũng không dám tường thuật các vụ Cảnh sát và
Công an đội lốt côn đồ tấn công người biểu tình chống Trung Quốc từ năm 2007.
Thiếu sót có chủ trương này được chứng minh trong các cuộc tập trung hay biểu
tình bất bạo động của người dân ở Sài Gòn và Hà Nội để tưởng niệm các chiến sỹ
và anh hùng đã hy sinh trong các cuộc chiến bảo vệ lãnh thổ và chủ quyền ở
Hòang Sa (1974); Cuộc chiến chống Trung quốc xâm lược biên giới (1979) và chống
Trung quốc xâm lăng Trường Sa năm 1988.
Ngược lại, báo nhà nước đã đăng tin và đầy đủ hình ảnh
của Đòan Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh mang cờ đỏ sao vàng xuống đường để diễn
hành hóa giải và làm lu mờ các cuộc biểu tình chống Tầu của người dân.
Những phát biểu phẫn nộ của người dân chỉ trích hành
động của nhà nước hay nhằm vào Trung Quốc trong các biến cố này đều không thấy
xuất hiện trên báo đài nhà nước. Thậm chí nhiều báo còn đưa tin chỉ trích người
biểu tình đã chống lại lực lượng bảo vệ trật tự đường phố. Báo đảng cũng rất
tích cực chạy tin các viên chức Nhà nước và Công an lên án những ngưởi mà họ
quy chụp đã bị “các thế lực thù địch chống đảng” thúc đẩy kích động đi biểu
tình, dù không trưng ra được bằng chứng nào.
Những việc này chứng minh báo đài nhà nước không phải
là “diễn đàn của nhân dân” mà là những cái loa tuyên truyền cho nhà nước.
BÁO
CHÍ VÀ NGÂN SÁCH
Nhưng lấy tiền đâu ra làm nhiệm vụ này?
Theo số thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông
(TTTT) hiện nay ở Việt Nam có hơn 20.000 người phục vụ tại hơn 800 cơ
quan báo chí và 17.000 người được cấp thẻ Báo chí.
Chi phí ngân sách hàng năm của nhà nước dành cho lực
lượng công nhân này là bao nhiêu không ai biết vì không có báo nào của nhà nước
có thể sống tự túc. Bộ TTTT cũng không có báo cáo số tiền đã chi ra cho các báo
hàng năm từ Trung ương xuống cơ sở.
Lý do các cơ quan báo chí đảng được tài trợ vì số người
mua báo càng ngày càng ít. Ngoài nội dung khô khan, không đáp ứng nhu cầu người
đọc, báo đảng còn chạy theo thị hiếu tầm thường, nhiều khi phản cảm và thông
tin một chiều.
Các cơ quan báo chí lại tự phát ra thêm các báo,
thành lập đài riêng để lấy tiền nhà nước và phô trương thành tích cho cơ quan
mình phục vụ.
Bài viết của Giáo sư Nguyễn Minh Thuyết, nguyên Phó
Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc
hội trên báo Giáo dục Việt Nam ngày 04/11/2015 là một bằng chứng.
Ông viết: “Theo báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền
thông, tới nay, cả nước đã có trên 800 cơ quan báo chí, với gần 1.500 ấn phẩm,
68 đài phát thanh, truyền hình. Thậm chí, một số địa phương còn tổ chức đài
phát thanh – truyền hình cấp huyện.
Sự phát triển của báo chí thể hiện tác động tích cực
của Luật Báo chí trong cuộc sống. Tuy nhiên, việc phát triển quá nhanh số lượng
cơ quan báo chí và đội ngũ nhà báo trong khi vẫn duy trì chế độ bao cấp về
xuất bản và phát hành đang đặt ra những vấn đề cần được điều chỉnh kịp thời.
Đại bộ phận báo, đài hiện nay vẫn được Nhà nước bao
cấp toàn bộ hoặc một phần về nhân sự, trụ sở, trang thiết bị, chi phí in ấn
và được phát hành tới các đơn vị hành chính, các tổ chức chính trị, xã hội cũng
bằng ngân sách nhà nước.
Số cơ quan báo chí tự cân đối thu chi một cách thực
sự chỉ vào khoảng trên dưới 10 đơn vị và cũng chỉ đối với khoảng vài chục ấn
phẩm báo chí; chỉ một vài đài phát thanh – truyền hình có thính giả, khán giả
thường xuyên.”
Không những thế, theo vị nguyên Đại biểu Quốc hội Tỉnh
Lạng Sơn nổi tiếng cương trực thì : “Một số cơ quan báo chí còn đồng thời sở hữu
nhiều loại hình báo chí, như Thông tấn xã Việt Nam có bản tin, báo in, báo điện
tử và kênh truyền hình riêng; Đài Tiếng nói Việt Nam cũng có báo in, báo điện tử
và kênh truyền hình.
Bên cạnh đó, một số ngành cũng thành lập riêng các
đài truyền hình của mình. Sắp tới một kênh truyền hình cũng được thành lập ở
Báo Nhân Dân. Có thể nói đây là hậu quả của chính sách bao cấp tràn lan, thiếu
quy hoạch hợp lý trong một thời gian dài, gây lãng phí lớn về thời gian, công sức
và tiền của, cần sớm được khắc phục.”
Rất tiếc những lời cảnh giác của vị Giáo sư khả kính
ở Hà Nội đã bị nhà nước bỏ ngoài tai. Các “Đối tượng được thành lập cơ quan báo
chí” quy định trong Điều 14 Luật Báo chí mới vẫn là thứ đặc quyền đặc lợi của:
“1. Cơ quan của Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức tôn giáo từ cấp tỉnh hoặc tương đương trở
lên, hoạt động hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam được thành lập cơ
quan báo chí.
- Cơ sở giáo dục đại học theo quy định của Luật giáo dục đại học; tổ chức nghiên cứu khoa học, tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ được tổ chức dưới hình thức viện hàn lâm, viện theo quy định của Luật khoa học và công nghệ; bệnh viện cấp tỉnh hoặc tương đương trở lên được thành lập tạp chí khoa học.”
Các loại báo chí này chỉ để phục vụ lợi ích cho phe
nhóm nhưng ngân sách nhà nước phải đài thọ từ đồng tiền lao động của dân là sự
lãng phí vô trách nhiệm của nhà nước.
SỐ
NHIỀU NÓI ĐƯỢC BAO NHIÊU ?
Vì vậy nếu khoe khoang Việt Nam có tự do báo chí căn
cứ trên tổng số báo, đài hoạt động còn là sự sỉ nhục cho kiến thức người hành
nghề báo chí.
Bởi vì người làm báo của nhà nước buộc phải: “Tuyên
truyền, phổ biến, góp phần xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, thành tựu của đất nước và thế giới theo tôn
chỉ, mục đích của cơ quan báo chí; góp phần ổn định chính trị, phát triển kinh
tế – xã hội, nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu văn hóa lành mạnh của Nhân dân,
bảo vệ và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, xây dựng và phát huy dân
chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.” (Mục b, Điều 4 Luật Báo chí).
Tóm tắt lại là báo chí phải ưu tiên bảo vệ đảng cầm
quyền và chế độ Cộng sản mệnh danh dân chủ trá hình là “xã hội chủ nghĩa”.
Không những thế, báo chí ở Việt Nam còn bị “qủan lý”
bởi hệ thống cầm quyền từ Trung ương xuống tận Ủy ban Nhân dân cấp Tỉnh như quy
định tại Điều 7 của Luật Báo chí mới:
- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về báo chí.
- Bộ Thông tin và Truyền thông chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về báo chí.
- Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông thực hiện quản lý nhà nước về báo chí.
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm quản lý nhà nước về báo chí tại địa phương.
Vì nhà nước kìm kẹp báo chí như thế nên Tổ chức Ký
giả không biên giới (Reporters Sans Frontières, hay Reporters Without Borders)
đã liệt kê, trong báo cáo năm 2016 của họ, Việt Nam đứng gần cuối bảng 180 nuớc
không có tự do báo chí.
Theo RSF thì Việt Nam đứng hàng 175/180, chỉ trên
Trung Quốc, Syria, Turkmenistan, North Korea và Eritrea nhưng đứng sau Lào
(173/180) và sau xa Cao Miên (128/180)
NHÀ
BÁO HAY CÁN BỘ ?
Đáng chú ý là Luật Báo chí mới (Điều 9) còn cấm
không được “Xuyên tạc lịch sử; phủ nhận chính quyền nhân dân; phủ nhận thành tựu
cách mạng” của đảng, nhưng lại mở cửa tự do cho báo chí tha hồ xuyên tạc, vu khống
và bôi nhọ các Chế độ không Cộng sản đã có trong lịch sử nước Việt Nam.
Đối với lịch sử 20 năm của Việt Nam Cộng Hòa và
Chính quyền Quốc gia trước năm 1945 thì đổi trắng thay đen để mạ lỵ không sợ gẫy
lưỡi là một nghề từ lâu của cán bộ Tuyên giáo và Bộ Thông tin và Truyền thông
Việt Nam.
Do đó khi nói đến “Quyền và nghĩa vụ của nhà báo”
quy định trong Điều 25 thì Luật Báo chí mới buộc báo chí phải:
- a) Thông tin trung thực về tình hình đất nước và thế giới phù hợp với lợi ích của đất nước và của Nhân dân; phản ánh ý kiến, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân;
- b) Bảo vệ quan Điểm, đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát hiện, tuyên truyền và bảo vệ nhân tố tích cực; đấu tranh phòng, chống các tư tưởng, hành vi sai phạm.
Nhưng thế nào là “phù hợp với lợi ích của đất nước
và của Nhân dân” thì không thấy minh định. Riêng việc nhà báo phải “Bảo vệ quan
Điểm, đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước” thì
rõ ràng nhà báo là cán bộ của đảng, dù là đảng viên hay chưa là đảng viên.
Nếu là đảng viên thì họ còn phải tuân hành nghiêm chỉnh
Quy định tại Điều 2 của Điều lệ đảng năm 2011 là: “Tuyệt đối trung thành với mục
đích lý tưởng cách mạng của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị,
Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành
tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Đảng.”
Sự ràng buộc bắt buộc này được tròng vào cổ người
hành nghề báo chí trong chế độ CSVN cho thấy họ không có tự do tư tưởng. Nếu thấy
đảng sai trái cũng không dám phản biện vì miếng cơm manh áo sẽ bị lấy mất nếu
làm khác.
Do đó nhân dân cũng không có tiếng nói trong sinh hoạt
chính trị một đảng cầm quyền, hay trên báo chí của nhà nước vì đảng không
chấp nhận đảng chính trị đối lập và không cho phép tư nhân ra báo. Người dân chỉ
được tiếp cận thông tin một chiều của nhà nước kiểm soát.
TƯỜNG
LỬA VÀ INTERNET
Tình trạng này đã một phần được thay đổi từ cuối Thế
kỷ 20 khi hệ thống thông tin tòan cầu Internet bắt đầu xâm nhập vào Việt Nam. Một
bộ phận người dân, đa phần là trí thức và giới sinh viên và học sinh có nhu cầu
tiếp cận để nghiên cứu, biết cách chui qua các hàng rào cản của nhà nước hay vì
nhu cầu giáo dục thì họ đã tiếp cận được các nguồn thông tin tự do trên thế giới.
Nhưng không phải bất cứ loại tin nào của Thế giới,
qua hệ thống thông tin tòan cầu Internet, cũng đến được với người truy nhập ở
Việt Nam. Nhà nước CSVN đã thiết lập hệ thống kiểm soát gọi thông dụng là “bức
tường lửa” để ngăn chặn những tin hay bài viết không phù hợp với chính
sách của đảng, hay còn được gọi là “nhạy cảm” và “chống đảng, chống lại nhân
dân”.
Một hệ thống kiểm soát thông tin trên Internet đã được
Ban Tuyên giáo đảng phối hợp với hai bộ Công an và Quốc phòng áp dụng từ mấy
năm qua. Việc này đã gây ra nhiều khó khăn nhưng các giới đấu tranh dân chủ,
nhân quyền và quyền tự do ngôn luận vẫn biết cách len lỏi để tiếp cận với thế
giới bên ngoài Việt Nam.
Hẩm hiu nhất vẫn là các thành phần công nhân, nhân
dân lao động và nông dân chiếm đa số trong hơn 90 triệu người dân. Họ tiếp tục
bị nhà nước bưng mắt trước tiến bộ và phát triển của khoa học thông tin tòan cầu.
Hàng ngày họ vẫn phải tiếp cận với thông tin một chiều do đảng kiểm soát.
TIẾNG
NÓI TỪ CON TIM
Tỷ dụ như các thông tin vụ cá chết ở miền Trung từ
ngày 06/04/2016 là một bằng chứng. Nhà nước hứa điều tra cho ra ngọn ngành và sẽ
trừng phạt thủ phạm gây ra thảm trạng này nhưng đã hơn 2 tháng mà nhân dân vẫn
chưa được thông tin.
Nhà nước nói các nhà khoa học đã tìm ra nguyên nhân
nhưng chưa chịu công bố. Tại sao, không ai biết lý do. Và cũng tại sao lại chọn
thời điểm cuối tháng 6 mới cho dân biết? Có ẩn ý chính trị hay kỹ thuật gì khi
chọn thời gian này không?
Báo chí nhà nước cũng không được phép đi thăm dân
cho biết sự tình, dù ít nhất 5 triệu người đang khốn khó vì mất miếng cơm từ biển
ở 4 tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế.
Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt, người bị nhà nước
CSVN ép buộc rời nhiệm ở Hà Nội năm 2010 đã đến thăm Giáo dân Giáo xứ Đông Yên
thuộc xã Kỳ Lợi, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh ngày 16.06.2016.
Ngài nói: “Khi chứng kiến tất cả đời sống của họ
cũng như đi thăm tất cả các bờ biển, tôi cảm thấy đau xót, có thể nói là một cảnh
chết chóc. Tôi vào một nhà nghỉ khá lớn của Hà Tĩnh thấy khách vắng hoe, chả thấy
khách đâu cả. Rồi đi ra bãi biển thấy thuyền nằm chất đống ở đó, có những con
thuyền chỉ còn đậy những tấm vải y hệt như những thân thể bị liệm thì đúng là một
cảnh chết chóc. Ở bờ biển không có một sinh vật nào cả, trên bãi cát không có một
con dã tràng nào. Tôi thấy ở các bãi biển đều có những con vật nhỏ li ti như
con dã tràng, con cua, con ốc thì bãi biển này hoàn toàn chết hết rồi, không
còn một tí gì là sự sống nữa. Khi chúng tôi xuống biển, tất cả mọi người đều hết
sức đề phòng để cho nước biển không được dính vào chân. Họ kéo thuyền thật cao
trên bãi cát, xong rồi thì có thể bước lên bờ để chân mình khó có thể dính nước
biển… Cả một sự chết chóc như vậy.” (Theo Huyền Trang/Tin mừng Cho Người
Nghèo).
Thật hãi hùng và bi thảm nhưng tại sao hàng chục
ngàn Nhà Báo của đảng từ Trung ương đến Địa phương không thấy ?
Nên biết Luật Báo chí đã minh định: “Báo chí ở nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương tiện thông tin thiết yếu đối với đời
sống xã hội” và có nhiệm vụ phải “Thông tin trung thực về tình hình đất nước và
thế giới phù hợp với lợi ích của đất nước và của Nhân dân…”
Vậy hình ảnh của Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt nói về
sự chết ở Huyện Kỳ Anh-Vũng Áng không phải là “tin thiết yếu đối với đời sống
xã hội” hay sao ?
Sự chết dưới mắt TGM Kiệt được diễn ra tiếp theo:
“Trong làng trong xóm sự chết chóc đang dần mòn đi tại vì những người dân đánh
cá đã ba tháng nay không ra biển thì chả còn thu nhập gì cả. Thành ra chúng tôi
thấy sự chết dần mòn. Người ngư dân chết trực tiếp, cá chết thì người đánh cá
cũng chết, những người làm nghề liên quan đến nghề cá như người bán xăng cho những
tàu đánh cá cũng chết, những người làm chài lưới cũng chết, những người buôn
bán hải sản cũng chết, những người chế biến hải sản cũng chết, ngành du lịch
cũng chết, bao nhiêu sự chết kéo theo. Người ta đoán là có ít nhất là 5 triệu
người bị ảnh hưởng bởi vụ cá chết này. Hết sức là đau xót, xung quanh đó hết sức
là hoang tàn, không còn sức sống, người ta ai cũng mệt mỏi, rã rời và buồn
chán.”
Nhưng sự chết bi thương này sẽ còn kéo dài cho đến
thế hệ người dân thứ bao nhiêu ở Giáo phận Vinh của Đức cha Nguyễn Thái Hợp ?
Đức cha Hợp nói với 50 nghìn người, không phân biệt
tôn giáo, trong đại lễ mừng kính Thánh Antôn tổ chức tại Linh địa Trại Gáo (Nghệ
An) vào sáng thứ Hai ngày 13.06.2016: “Chúng ta đang sống trong thời khắc bi thảm
vì chưa bao giờ đất nước chúng ta trải qua một thảm họa môi trường biển như đã
xảy ra cách đây hơn hai tháng.
Chúng ta xin thánh Antôn cho chúng ta tìm lại môi
trường biển đã đánh mất đó, tìm lại nguồn biển an lành và trong sạch. Đó là một
nguồn thực phẩm bổ dưỡng và lành mạnh. Đó là một môi trường của bao nhiêu ngư
dân đất Việt đang sinh sống, đã sinh sống và sẽ sinh sống từ nguồn biển trong
lành.
Hôm nay môi trường đó đã bị nhiễm độc và biển đang
kêu lên từ hai tháng qua nhưng vẫn không có được một giải đáp đâu là nguyên
nhân gây ra thảm họa môi trường và ai là người đã gây ra thảm họa môi trường.
Chúng ta phải tiếp tục can đảm yêu cầu nhà cầm quyền, những người có trách nhiệm
với đất nước với đồng bào mình phải công bố nguyên nhân. Công bố càng sớm càng
hay! Và yêu cầu ai là người đã gây tác hại cho môi trường biển phải đền bù cho
ngư dân thỏa đáng.”
Đức cha Hợp nói tiếp về sự chết mà Đức TGM Giuse Ngô
Quang Kiệt đã chứng kiến: “Trong những ngày qua được đến thăm đồng bào ở vùng
biển bị tác hại, tôi đã có cơ hội được nhìn thấy những con thuyền nằm chơ vơ
trên cát nhớ biển khơi xa. Bao giờ những con thuyền đó mới được ra biển trở lại?
Và bao giờ những ngư dân đánh bắt gần bờ mới có thể tiếp tục lại nghề của mình?
Thảm họa môi trường biển miền Trung chỉ là những giọt
nước nhỏ làm tràn ly. Và qua giọt nước làm tràn ly đó, ta thấy đất nước chúng
ta chưa bao giờ rơi vào tình cảnh thảm họa môi trường không những môi trường biển
mà là môi trường nông nghiệp, môi trường rừng. Và trên bàn ăn của người Việt
Nam hôm nay chưa bao giờ đối diện với tình cảnh thê thảm ô nhiễm như vậy.”
Bằng giọng nói như có nước mắt tràn ra, Đức cha Hợp
lo âu: “Mâm cơm” hôm nay của người Việt Nam còn rất nhiều khủng hoảng như “mâm
cơm giáo dục”. Chưa bao giờ giáo dục xuống cấp như vậy. Chưa bao giờ giáo dục
rơi vào hoàn cảnh dạy chữ không nổi, huống hồ dạy người. Chưa bao giờ bạo lực học
đường tràn lan và công khai như hôm nay. Chưa bao giờ con cái của các quan chức
và đại gia lại bỏ nước ra đi học ở nước ngoài nhiều như vậy, để lại trường lớp
cho con cái nhà nghèo.
“Mâm cơm văn hóa”, “mâm cơn nhân bản”, “mâm cơm tình
người” chưa bao giờ bẩn như hôm nay, khi con người xử ác và xử tệ đến như vậy.
Chưa bao giờ con người Việt Nam bạo động, nóng nảy và hung ác như vậy. Chỉ cần
ra đường va chạm nhỏ cũng dẫn đến bạo động, đả thương nhau! Tình nghĩa đồng bào
còn đâu! Đâu còn những giá trị văn hóa và tâm linh! Còn đâu câu ca dao: “Bầu ơi
thương lấy bí cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Tại sao con người
hôm nay lại xuống cấp thê thảm về giáo dục, văn hóa, và nhân bản đến như vậy?”.
Báo chí được mệnh danh “cách mạng” của đảng Cộng
sản Việt Nam sinh ra vào năm 1925, khi Báo Thanh Niên do ông Hồ Chí Minh sáng lập
ra đời. Nhưng trong suốt 91 năm qua, những người phục vụ cho nền báo chí này chỉ
biết cong lưng và cúi đầu đeo tròng vào cổ cho đảng kéo đi.
Các nhà báo nhà nước CSVN chỉ biết tuân hành và phục
vụ để bảo vệ cho được vị trí cầm quyền độc tôn cho đảng. Ngòai ra họ chả có lý
tưởng gì ngòai miếng cơm manh áo.
Nếu không tin, có ai dám so sánh hai nền báo chí Việt
Nam Cộng hòa và Xã hội Chủ nghĩa không ? -/-
Phạm
Trần
(06/016)
No comments:
Post a Comment