Nguyễn Hoàng Phố
Posted by adminbasam
on 03/05/2016
1. Khủng bố chất độc
Ảnh
minh họa: khủng bố chất độc. Nguồn: internet
Khi nói đến khủng bố ta hay nghĩ đến các tổ chức cuồng
tín, tàn bạo phần lớn từ các nước đang phát triển. Khủng bố là phương
tiện mà kẻ yếu và không có tính chính đáng dùng để tiêu diệt và đe dọa
đối tượng bị cho là kẻ thù, nhưng sự thực thì đa số thương vong do
khủng bố gây ra là dân lành vô tội.
Nhưng không phải bao giờ khủng bố cũng do các nhóm cuồng
tín, những kẻ yếu không có tính chính đáng gây ra, đặc biệt là khủng bố
chất độc (toxic terrorism), chữ của Phil O’Keege (1988). Khủng bố chất độc
dùng để chỉ hành vi đem chất thải độc hại từ xứ mình đổ sang xứ
người gây ra bệnh tật chết chóc cho hàng triệu người đang sống và dị
tật cho hàng triệu sinh linh sắp ra đời.
Thủ phạm của khủng bố chất độc không ai khác hơn
là các tập đoàn, công ty công nghiệp ở các nước phát triển. Bị hạn chế vì
các qui định quốc tế và quốc gia về rác thải công nghiệp, các công ty ở các nước
phát triển đã tìm cách luồn lách đưa số rác khổng lồ này sang các nước nghèo,
bằng cách móc nối sự tiếp tay đồng lõa của bộ máy tham nhũng của
chính quyền ở các nước nghèo. Hành vi vô đạo, phi nhân tính, và hủy
hoại nhân thế này được gọi một cách mỹ miều là mua bán rác thải độc hại, toxic
waste trade. Sam Omatseye, trích trong Phil O’Keege (1988, trang 87), cay đắng,
và phẫn nộ:
“…nạn mua bán rác thải độc hại một lần nữa cho thấy châu
Âu luôn nghĩ về châu Phi như một vùng đất hoang dã (wasteland), và con người ở
đó, những sinh linh hoang phế (waste beings).”
Ngoài các công ty châu Âu, các công ty từ những quốc
gia phát triển ở các châu lục khác cũng là thủ phạm của khủng bố
chất độc. Khủng bố chất độc về bản chất là một hành vi vô đạo, phi nhân tính,
và hủy hoại nhân thế. Vô đạo vì những kẻ khủng bố chất độc đã bất
chấp những chuẩn mực về đạo lý con người: không những giết người
hàng loạt mà còn huỷ diệt mầm sống con người. Có thể nói hành vi
đem chất thải độc hại từ xứ mình đổ sang xứ người là tội ác giết
người hàng loạt. So với tộc ác chiến tranh do Đức quốc xã gây ra
thì khủng bố chất độc là một loại ‘siêu tội ác’, vượt ra
ngoài phạm vi không gian và thời gian. Làm sao có thể so sánh sáu
triệu người Do Thái bị giết tại châu Âu trong khoảng thời gian từ 1939
đến 1945, với nạn nhân của khủng bố chất độc: có ngành khoa học nào
thống kê chính xác bao nhiêu người bị liên lụy vì chất độc, họ là
ai, ở đâu, từ lúc nào, và bao giờ thì khủng bố chất độc chấm dứt.
Phi nhân tính vì kẻ khủng bố chất độc giết người một cách tính
toán, lạnh lùng, giết người vì lợi nhuận. Khủng bố chất độc hủy
hoại nhân thế vì nó không chỉ giết người mà còn giết cả nguồn sống
con người: môi trường.
2. Khủng bố chất độc tại châu
Á
Một trong các nước nghèo ở châu Á bị khủng bố
chất độc là Campuchia. Thủ phạm là tập đoàn Đài loan Formosa
Plastic’s Group. Công ty mẹ của Formosa Hà tĩnh. Sau nhiều năm sản xuất
nhựa và sản phẩm hóa dầu, tập đoàn Đài loan Formosa Plastic’s
Group phải đương đầu với một hệ lụy: đó là số lượng rác độc hại
chứa thủy ngân lên đến 14 ngàn tấn ( theo số liệu của Jud Lohnes 1999),
chứa chất tại Jenwy, Đài loan. Pháp luật và áp lực quần chúng
không cho phép Formosa Plastic’s Group chôn lấp lượng rác này tại Đài
loan.
Khủng bố rác thải bắt đầu từ đây. Qua công trình
nghiên cứu của Angela Ambroz (2007), ta biết rằng năm 1998 tập đoàn Formosa
đã thuê một công ty Đài loan, công ty Ching Fu, chuyên chở một lượng rác có
chứa thủy ngân sang một nước khác, theo Jud Lohnes thì lượng rác này là
ba ngàn tấn. Dĩ nhiên, đó không thể là một nước phát triển có luật lệ nghiêm
minh về môi trường. Công ty Ching Fu móc nối với một công ty của Campuchia, có
tên gọi rất sạch sẽ về môi trường, Công ty xuất nhập khẩu Muth Vuthy. Công ty
Muth Vuthy đưa số rác thải này về Campuchia dưới dạng những khối bê tông, nhưng
bên trong là rác công nghiệp, chứa thủy ngân và các chất độc công nghiệp, và
chôn xuống một cánh đồng gần ngôi làng Bettrang, thành phố Sihanouk. Trong quá
trình vận chuyển, bốc dỡ số ‘hàng nhập khẩu’ này một số công nhân bị nhiểm bệnh
vì tiếp xúc với chất độc, và một công nhân đã chết.
Tai họa không dừng ở đó, dân làng Bettrang đã tìm đến bãi
rác, hình thành ‘nhờ’ công ty xuất nhập khẩu Muth Vuthy để thu lượm nylon vì
không ai biết họ đang tiếp xúc với chất độc và đã mắc bệnh. Tình hình trở
nên tồi tệ hơn khi các khối bê tông bị vỡ ra và rác thải lộ diện. Dân làng
Bettrang nổi loạn và tháo chạy khỏi làng. Có hai nhà hoạt động nhân quyền bị kết
tội oan là kích động nổi loạn.
Dưới áp lực của dư luận, chính phủ Campuchia yêu cầu tập
đoàn Formosa bốc dỡ số rác công nghiệp này ra khỏi Campuchia, và tập đoàn đã đồng
ý thực hiện. Formosa và chính phủ Campuchia đã hợp đồng một công ty Mỹ, công ty
Camp Dresser và McKee giám sát hoạt động bốc dỡ rác thải và tẩy độc khu vực bị
nhiểm độc. Còn việc bốc dỡ thì Formosa thuê một công ty Mỹ khác chuyên xử lý
rác thải, công ty Safety Kleen Services. Công ty Safety Kleen Services dự tính
đưa số rác thải này về Mỹ để xử lý nhưng không được Ủy ban bảo vệ môi trường Mỹ
đồng ý một phần do bị dân Mỹ phản đối và phần nữa căn cứ vào kết quả xét nghiệm
độc tố của rác. Điều kinh khủng là sau khi đá qua đá lại giữa Mỹ và Đài loan số
rác thải đã bị chôn dấu ở một nơi nào đó không ai biết.
3. Việt nam đang đối diện với khủng
bố chất độc?
Số rác thải đó về đâu? Có quanh quẩn ở khu vực
Đông Nam Á hay không? Cứ giả thiết là nó không có ở Việt Nam. Liệu ta
có thể khẳng định là tập đoàn Đài loan Formosa Plastic’s Group đã
giải quyết một cách an toàn, hợp pháp số rác trên, rằng đó là một
tập đoàn làm ăn chân chính, đàng hoàng, và công ty con Formosa Hà tĩnh
cũng làm ăn chân chính, đàng hoàng. Vụ cá chết hàng loạt không rõ
nguyên nhân từ Hà tĩnh đến Thừa thiên-Huế, và phát biểu của đại
diện công ty Formosa Hà tĩnh, cá hay thép, cũng như cung cách xử
lý của chính quyền địa phương, không cho phép chúng ta đi đến một
khẳng định tích cực. Không thể khẳng định tích cực chừng nào
những câu hỏi dưới đây chưa có câu trả lời.
1. Tại sao Formosa Plastic’s Group đầu tư vào nhà máy thép trong khi tập
đoàn chuyên về hóa dầu và nhựa, và các nhà máy thép trên thế giới
đang đối diện với phá sản vì cung vượt cầu, tập đoàn Tata là một
ví dụ?
2. Nguồn cơn nào khiến một công ty không chuyên về thép lại thắng một
công ty chuyên về thép, tập đoàn Tata, tại Hà tĩnh?
3. Về vụ cá chết hàng loạt, câu hỏi cá hay thép của đại
diện Formosa Hà tĩnh tự nó đã là một phần câu trả lời: sự tồn tại
của Formosa Hà tĩnh đồng nghĩa với sự hủy diệt môi trường. Nhưng vấn
đề là tại sao vị đại diện này có thể phát biểu công khai như thế?
Vì điều đó cho thấy việc cá chết hàng loạt dường như đã được dự
liệu trước.
4. Cung cách ứng xử của chính quyền khiến nghi vấn về một sự ưu ái
không bình thường nào đó của chính quyền dành cho Formosa Hà tĩnh
ngày càng có thêm cơ sở. Tại sao ngay từ đầu đại diện của Bộ tài
nguyên môi trường khẳng định ngay là cá chết do thủy triều đỏ, cho dù
chưa có một chứng cứ khoa học nào? Tại sao chứng cứ về sự tồn tại
của chất độc crom mà Thừa thiên Huế cung cấp không hề được đề cập
công khai?
Việc yêu cầu Formosa Hà tĩnh đưa ống thoát ngầm
lên cạn chỉ là một giải pháp tình thế, tự nó cũng cho thấy có
nhiều khuất tất. Nếu việc Formosa Hà tĩnh đặt ống thoát ngầm
là vi phạm luật Việt Nam thì cơ quan nào chịu trách nhiệm về việc vi
phạm không được phát hiện này. Cần nhớ là chính người dân đã phát hiện
và báo cáo cho nhà cầm quyền. Không thể viện dẫn qui chế đặc
biệt dành cho Formosa Hà tĩnh không cho phép chính quyền giám sát
trực tiếp. Vì nếu có một qui chế như thế, thì đó là một qui chế
đã đặt cược số phận của thế hệ tương lai của Việt Nam vào trong tay
một tập đoàn đã từng gây ra khủng bố chất độc tại quốc gia láng
giềng.
Còn nếu là việc đặt ống ngầm là đúng luật thì
chính phủ Việt Nam không có quyền yêu cầu đưa ống thoát ngầm lên cạn.
Câu hỏi đặt ra là cơ quan nào của chính phủ Việt Nam giám sát việc
thải hóa chất qua ống ngầm. Nếu không có cơ quan nào giám sát thì
phải hiểu như thế nào việc chính quyền dễ dàng cho một tập đoàn tai
tiếng về môi trường tự xử lý hóa chất thải.
4. Việt Nam đang là một bãi rác
công nghiệp?
Ngoài khủng bố chất độc, một vấn nạn khác của
môi trường là rác thải công nghiệp không độc hại. Đó là những máy
móc, công nghệ lạc hậu, mà các nước phát triển đổ vào các nước
nghèo kém phát triển thay vì phải tốn kém tiêu hủy, thông qua cái
gọi là cho vay lãi xuất thấp để các nước nghèo mua, hay liên doanh để
đưa công nghệ, máy móc lạc hậu sang nước nghèo góp vốn. Chưa nói về
tính cạnh tranh, vì sản phẩm của các nhà máy loại này không thể
bắt kịp chất lượng của sản phẩm do công nghệ máy móc hiện đại
hơn, công nghệ và máy móc lạc hậu buộc các nước nghèo phải chi tiêu
nhiều hơn trong việc đảm bảo môi trường, bằng không cái giá của sản
phẩm công nghiệp loại này là một môi trường bị hủy diệt. Cuối
cùng, các nước nghèo chưa kịp thu hồi vốn thì đã phải tính đến
việc loại bỏ thay thế công nghệ máy móc lạc hậu đã nhập về. Vừa
tốn tiền, vừa tự tạo ra một bãi rác mà bản thân không đủ khả năng
xử lý, các nước nghèo lại phải thuê các nước phát triển giải
quyết. Đây là một trò trêu ngươi của lịch sử: Nếu vào những năm cuối thế
kỷ 18 và đầu thế kỷ 19 cùng với sự phát triển công nghiệp ở châu Âu là làn sóng
các nước châu Âu đi săn lùng tài nguyên tại các nước kém phát triển ở
châu Á, Phi, để phục vụ cho lợi ích của mình, thì đến những năm cuối thế kỷ 20
và đầu thế kỷ 21 các nước phát triển, lần này không giới hạn ở châu Âu,
cũng tìm đến các nước nghèo kém phát triển lớn ở Á, Phi, cũng vì lợi ích
của mình, biến các nước này thành bãi rác công nghiệp của mình.
Trong bối cảnh Việt Nam, cần phải nói một cách
chính xác là Việt Nam đang là một bãi rác của Trung quốc. Nếu có ai
nghi ngờ, thì hảy tìm đọc các dữ liệu về các nhà máy tại Việt Nam
đang sử dụng công nghệ, máy móc Trung quốc. Còn thực tế, thì hảy
nhìn lại toàn cảnh bôxít Tây nguyên và vụ rò rỉ bùn đỏ gần đây.
_____
Tài liệu tham khảo
Angela Ambroz. 2007. The illegal dumping of hazardous
waste: A model of two markets. MA thesis. University of Oxford.
Marthe Sende. 2010. Toxic Terrorism. A Crisis in Global
Waste Trading. Anamesa Vol. 8, Num.1.
Jud Lohnes. 1999. Hazardous Materials and Energy:
Taiwanese Company Dumps 3000 Tons of Toxic Waste in Cambodia. Colorado Journal
of International Environmental Law and Policy.
Jessica C. Stabile. 2006. Clashes Between Economies and
Environments: ConsumerismVersus Conservation in Taiwan and Hong Kong. Asian
Pacific Law and Policy Journal. Vol. 7, Issue 2. Phil O’Keefe. 1988. Toxic
Terrorism. Review of African Political Economy, No. 42.
Báo chí Việt Nam từ giữa tháng 4.
No comments:
Post a Comment