Sunday, May 15, 2016

TƯỞNG NHỚ NHÀ BÁO, NHÀ HOẠT ĐỘNG CHÍNH TRỊ NGUYỄN MINH CẦN (Bauxite Việt Nam)




15/05/2016

Nhà báo, nhà hoạt động chính trị Nguyễn Minh Cần đã từ thế tại Moskva vào hồi 5 giờ sáng (giờ địa phương) thứ Sáu, ngày 13 tháng 5 năm 2016.
Nguyễn Minh Cần sinh năm 1928 tại Huế; tham gia Cách mạng tháng Tám năm 1945; gia nhập ĐCS Đông Dương năm 1946 và đảm nhiệm nhiều chức vụ trong chính quyền. Năm 1962 ông sang Moskva theo học Trường Đảng cao cấp. Trong bầu không khí hậu Đại hội 20 của ĐCS Liên Xô những năm tháng này, ông tán thành chủ trương của Nikita Khrushchev, điều đã khiến ông, cùng hàng trăm người khác cùng chí hướng, sau đó bị khép tội “xét lại chống Đảng” khi ĐCS Việt Nam thanh trừng nội bộ. Nguyễn Minh Cần xin ly khai ĐCS và cư trú chính trị tại Moskva từ đó, hành nghề dịch sách, viết báo, thông tín viên, dạy học; đồng thời khi lặng lẽ khi tích cực, trọn nửa thế kỷ tận hiến cho lý tưởng tự do, dân chủ của người Việt bằng nhiều hoạt động khác nhau.
Nguyễn Minh Cần thuộc thế hệ đi trước mà những người đang đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam hôm nay hằng kính trọng, biết ơn. Thành kính cầu mong hương hồn ông an nghỉ trong niềm tin vững chắc rằng thế hệ tiếp bước sẽ không phụ ý chí của ông, quyết làm cho tâm nguyện của ông sớm thành sự thật!
Bauxite Việt Nam

-------------

Ngô Nhân Dụng
Friday, May 13, 2016 7:10:25 PM 

Nguyễn Minh Cần sống mãigột dòng suối trong veo. Anh theo mẫu người nhà nho tráng sĩ những thế kỷ trước. Như Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân hai lần khởi nghĩa, hai lần bị quân Pháp bắt, thong dong dặn dò vợ con trước khi chịu tử hình. Như Giải nguyên Nguyễn Cao khi bị bắt và được dụ hàng, đã khẳng khái từ chối rồi tự mổ bụng ném vào mặt quân giặc, nói: “Ruột gan tôi như thế này, ai cũng biết cả rồi!”

Năm 17 tuổi, Nguyễn Minh Cần đã tham dự cuộc Cách mạng tháng Tám giành độc lập ở Huế, quê hương ông. Năm sau ông đã vào Đảng Cộng sản vì tưởng đây là con đường duy nhất để cứu nước, làm tới Ủy viên thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên. Rồi ra Bắc hoạt động ở ngoại thành Hà Nội, sau năm 1954 làm Ủy viên thường vụ Thành ủy Hà Nội, kiêm Phó chủ tịch Ủy ban Hành chính Thành phố. Trong khi ông đang học Trường Ðảng cao cấp ở Moskva, Cộng sản Việt Nam thanh trừng nội bộ bằng chiến dịch Chống Chủ nghĩa Xét lại. Năm 1964 Nguyễn Minh Cần ra khỏi Đảng, xin tị nạn chính trị ở Liên Xô, làm nghề dạy học, phiên dịch và viết sách, có khi ký tên là Alikanov để qua mắt công an Việt Cộng. Ông và vợ là bà Inna Malkhanova đã tham dự các cuộc biểu tình vào tháng Tám năm 1990, khi chế độ Cộng sản Liên Xô đang sụp đổ. Ông thường kể trong đời mình đã dự hai lần “Cách mạng tháng Tám!” Từ năm 1990, ông tham gia tích cực vào cuộc vận động tự do dân chủ của người Việt Nam khắp thế giới. Ông tham dự các tập họp chính trị, viết sách viết báo cho đồng bào trong nước và hải ngoại đọc, lúc nào cũng lo gây dựng tình đoàn kết giữa những người cùng lý tưởng dân chủ tự do.

Nếu được gặp anh Nguyễn Minh Cần thì mình sẽ làm gì? Tôi mới tự hỏi. Mấy năm rồi tôi vẫn tính đi Nga thêm một chuyến; để có cơ hội được gặp anh Nguyễn Minh Cần. Gặp một lần nữa trước khi anh ra đi. Khi cùng đi với Lan Hương đến thăm anh ở Moskva lần chót, đã thấy anh rất yếu, sau đó lại có tin anh phải vào bệnh viện mấy lần. Mỗi lần ở nhà thương ra, anh lại viết thư ngay, báo tin anh vẫn khỏe để giúp mọi người bình tĩnh! Và anh bàn bạc ngay những vấn đề đất nước, xin mọi người phải chú ý theo dõi, loan báo tin tức và bày tỏ ý kiến công khai.

Con người Nguyễn Minh Cần chứa một tấm lòng nhiệt thành, tận tụy vì lý tưởng; một tâm hồn ngay thẳng, đĩnh đạc, bộc trực gần như nóng nảy. Anh giản dị, chân thành, lo lắng cho công việc chung, cho tất cả bạn bè anh em. Hỏi tới chuyện nào anh cũng sẵn sàng nói và anh biết rất nhiều; không thấy anh ngần ngại hay tỏ ra muốn giữ kín một điều gì bao giờ. Anh và chị Inna là những con người trong suốt.

Tôi chưa thấy anh chị nói nặng lời về một ai bao giờ, trừ hai nhân vật, với chị Inna là Stalin, với anh Cần là Hồ Chí Minh. Nhưng thực ra họ cũng không nói nặng lời. Họ chỉ kể lại những tội ác của các lãnh tụ cộng sản bằng giọng nói bình thản, khách quan, với những câu chuyện cụ thể, các con số, mà hai người đã để tâm nghiên cứu. Khi Vladimir lên cầm quyền được hai, ba năm anh Cần đã báo động với tôi rằng chế độ độc tài đang được tái lập, Putin sẽ là một “đại đế” mới! Khi tôi đề nghị anh viết một bài cho báo Người Việt về tình trạng này, anh đồng ý. Nhưng khi tôi ngỏ ý đưa trả tiền trước nhuận bút, anh gạt tay tôi rất mạnh, từ chối. Anh bảo khi nào viết, đăng rồi hãy trả tiền!

Lần đầu Lan Hương đưa bố con chúng tôi tới ở nhà anh chị tại Moskva trước đây hơn 20 năm, anh chị đã đưa tôi và Bão Phác đi thăm trang trại cũ của nhà văn Tolstoi, một thần tượng của chị. Anh dạy tôi trong tiếng Nga cái tên Tolstoi phải đọc chữ “o” vần đầu như chữ “a.” Cũng như Moskva vần đầu đọc “Mo” là “Ma” tên cháu Lan Hương là Tonia cũng vậy. Anh chị cho biết vào cuối đời nhà văn đã khám phá ra giáo lý “hiện pháp lạc trú” (an trú trong hiện tại) của Phật Thích Ca; nhưng chắc không có duyên thực tập. Trên con đường hơn 300 cây số, đi mất 6, 7 giờ, xe taxi lâu lâu dừng lại. Có lúc tôi hỏi lý do, anh Cần lắc đầu, vừa cười vừa nhăn mặt: Bà ấy thấy mấy con chó hoang là phải cho chúng ăn. Ði đâu cũng mang theo bọc thức ăn cho chó! Nhìn ra, quả nhiên thấy chị Inna đang đứng giữa một bầy chó nhẩy nhót chờ đón quà! Chị Inna lập ra hội những người bảo vệ chó, đi đâu thấy chó hoang là chị đưa về nhà nuôi.

Sau khi tham ngôi nhà cũ, khu vườn mà hai ngôi mộ của Lev và Sophia Tolstoi, chúng tôi bước ra về trên con đường ra cổng trang trại, hai bên cây xanh che phủ. Anh Cần đi trước, chị Inna và tôi đi sau. Ðang bước đi tôi trông thấy một con sâu róm đang bò ngang đường, lủi thủi một mình. Tôi đi chậm lại, chú ý bước qua không để vô tình giẫm chân lên con sâu. Nhưng bỗng chị Inna dừng lại. Chị cúi xuống, đưa hai ngón tay phải nhắc con sâu lên, để nó trên bàn tay trái. Rồi chị bưng con sâu đi chậm chậm sang một bên đường, cẩn thận đặt con sâu đi lạc trên một cành lá xanh. Xong, chị lại tiếp tục bước đi, nói tiếp câu chuyện đang nói dở.

Ðó là cung cách trong cuộc sống của anh chị Inna Malkhanova và Nguyễn Minh Cần. Sau nửa thế kỷ sống bên nhau, hai người giống nhau trong tư tưởng, trong cách nói năng bằng tiếng Nga và tiếng Việt, trong cách cư xử với mọi người. Cách đây sáu, bảy năm, tôi tới Moskva muốn đến thăm anh chị, anh nhất định tới đón tôi tận khách sạn. Năm đó đã thấy anh phải chống gậy. Anh và chị đã quy y với Thầy Như Ðiển ở Ðức, nhận pháp danh Thiện Mẫn và Thiện Xuân. Anh chị đã lập một thiền đường và một hội Phật học ở Moskva.

Tuổi già giọt lệ như sương. Nhưng sáng nay mở email ra đọc tin anh Nguyễn Minh Cần qua đời, bao nhiêu bạn bè và các em của anh không thể cầm được giọt lệ. Chị Quản Mỹ Lan ở Pháp viết: “Nay anh Nguyễn Minh Cần ra đi là một sự hụt hẫng, là nỗi mất mát kinh khủng nhất!” Linh mục Nguyễn Hữu Lễ ở New Zealand viết: “Nguyện cầu vong linh anh Nguyễn Minh Cần được an nhàn nơi cõi phước.”

Tôi đọc mấy thư anh chị em trao đổi tỏ lòng thương tiếc anh Nguyễn Minh Cần, nghẹn ngào đứng dậy đi ra ngoài đường, vừa đi vừa tự hỏi: Nếu năm ngoái, năm kia, được đến thăm anh Nguyễn Minh Cần và chị Inna thì mình sẽ làm gì nhỉ? Chắc cũng không làm một điều gì quan trọng. Chắc tôi chỉ ngồi uống trà với anh và chị Inna, nhìn nhau cảm thông trong hơi thở và nụ cười. Gặp anh chị, trò chuyện với anh chị, giống như được tắm gội trong một dòng suối ấm áp trong trẻo của hai con người đáng yêu và đáng kính trọng.

Tôi chợt nhớ câu thơ Nguyễn Khuyến khóc Dương Khuê. Rồi đọc lại bài thơ Thanh Tâm Tuyền viết cho Quách Thoại: “Còn người thi sĩ đi vào miền đất lạ - không nhớ mảy may biển gió cát muôn trùng.”

Chắc giờ này anh Nguyễn Minh Cần đang “được an nhàn nơi cõi phước” như Linh mục Nguyễn Hữu Lễ cầu nguyện. Anh sẽ được quên những chuyện trần gian, “không nhớ mảy may biển gió cát muôn trùng.” Anh đã chứng kiến bao nhiêu cảnh khổ đau của đồng bào, của đất nước. Một lần cùng đi xe qua Ðại lộ Arbat ở Moscow, anh Nguyễn Minh Cần chợt chỉ tay lên, nói với tôi: “Anh Văn Doãn đã tự tử từ lầu sáu ngôi nhà này.” Sau gần 40 năm, anh Cần vẫn chưa quên người đồng chí đã từng làm Tổng biên tập báo Quân đội Nhân dân, từng quyết định tị nạn ở Nga với anh, và đã tuyệt vọng khi mất cả quê hương lẫn lý tưởng. Riêng anh vẫn còn nghị lực sống thêm gần nửa thế kỷ, tiếp tục theo đuổi lý tưởng cuộc đời mình. Anh đã hiến dâng cả cuộc đời chỉ mong quê hương được độc lập, tự do, dân chủ.

Bây giờ mong hương hồn anh Nguyễn Minh Cần không còn bị trói buộc trong “biển gió cát muôn trùng” này nữa. Những người còn ở lại sẽ tiếp tục con đường anh đã cùng đi qua, mỗi người mang trong mình bầu máu nóng, đức trong sáng của Nguyễn Minh Cần. Anh sẽ sống mãi trong lòng đồng bào, trong phong trào phục hưng tổ quốc. Cầu nguyện anh “an nhàn nơi cõi phước.”

-----------------------

Tờ mờ sáng thứ sáu 13 tháng Năm, Nguyễn Văn Khanh đài RFA và Blogger Uyên Nguyên text: Anh Nguyễn Minh Cần mất rồi, lúc 5 giờ sáng giờ Moscow. Bật máy xem tin, RFI đã loan tin ông Cần mất.

Vẫn biết, trời đất mênh mang, ai rồi cũng chết, vậy mà vẫn buồn!

Năm 1997, trong chuyến công tác lúc còn làm cho RFA, từ California về lại Washington D.C, tôi đi cùng chuyến bay với ông Nguyễn Minh Cần. Lúc rời tòa soạn Người Việt, nhà báo Lê Đình Điểu, nay cũng không còn nữa, dặn dò, “anh Cần quốc tịch Nga, tên trên giấy thông hành là tên Nga và không nói được tiếng Anh, cậu giúp anh Cần thủ tục tại phi trường nhé.”
Trước đó, tôi đã có dịp trò chuyện và tìm hiểu về nhân vật từng một thời hy hiến tuổi trẻ cho công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc này.

Ông Nguyễn Minh Cần chào đời năm 1928 tại Huế, tham gia Cách mạng tháng Tám, tổ chức và lãnh đạo khởi nghĩa ở Huế và các vùng phụ cận Huế, gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1946. Ông đã từng giữ các chức vụ quan trọng như Uỷ viên Thường vụ Thành ủy Huế, ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên, Ủy viên Thường vụ Thành ủy Hà Nội, kiêm Phó chủ tịch Ủy ban Hành chính Thành phố Hà Nội.

Năm 1962, ông đi Mạc Tư Khoa để theo học ở Trường Đảng Cao cấp của Liên Xô. Ông có mặt tại “cái nôi” của Cộng sản Quốc tế trong bối cảnh lãnh tụ Liên Xô lúc bấy giờ là Nikita Khrushchev chủ trương “xét lại” sau khi hạ bệ Stalin trong bài diễn văn đọc tại Đại hội 20 của Cộng sản Liên Xô năm 1956. Khrushchev cho rằng, không nhất thiết phải dùng bạo lực vũ trang mà vẫn có thể thắng “Đế quốc Mỹ” bằng con đường cạnh tranh kinh tế, khoa học và hòa bình.

Chủ trương của Khrushchev được ông Nguyễn Minh Cần và nhiều người nữa trong Đảng Cộng sản Việt Nam tán đồng, trong số đó, có ông Hoàng Minh Chính, Viện trưởng Viện nghiên cứu Mác-Lê; ông Vũ Đình Huỳnh, bí thư của Hồ Chí Minh; nhà văn Vũ Thư Hiên; thiếu tướng Đặng Kim Giang và nhiều nhân vật cao cấp khác của Đảng…

Tất cả những người ủng hộ chủ trương của Khrushchev như vậy là đã đương nhiên chống lại Nghị quyết 9 của Lê Duẩn: Dùng tổng lực quân sự đánh miền Nam. Mà chống Lê Duẩn vào thời điểm đó là “đụng cái vẩy ngược của con rồng” vì họ Lê nắm toàn quyền sinh sát trong Đảng.

Hậu quả, những ông Nguyễn Minh Cần, Hoàng Minh Chính, Vũ Đình Huỳnh, Vũ Thư Hiên, Đặng Kim Giang và hàng trăm người nữa bị khép vào tội “xét lại chống Đảng”. Tất cả đều bị bắt tù nhiều năm. Chỉ có một số ít lúc đó đang sống ngoài nước thì bị khai trừ khỏi Đảng.
Ông Nguyễn Minh Cần không cần đợi bị khai trừ, chính ông tự quyết định ly khai cái Đảng mà ông từng hết mực gắn bó với nó. Ông ở lại nước Nga, sống cuộc đời lưu vong.

Trong chuyến đi chung với ông Cần từ Quận Cam về D.C. Hơn 5 giờ bay ngồi cạnh nghe ông nói chuyện, tôi biết thêm và cảm được tấm lòng nhiệt huyết, chân thật, tử tế của ông.

Sống lưu vong ở nước Nga hơn nửa đời người, lấy vợ Nga, viết và nói tiếng Nga như tiếng mẹ đẻ, ông làm tự điển Nga-Việt, dịch nhiều tác phẩm văn học của hai dân tộc và viết sách. Cả hai ông bà ăn chay, tu tại gia và có công góp phần xây một Thiền đường Phật Giáo ngay tại Moscow. Những người từng đến thăm hai ông bà đều thích thú khi nhìn mấy chục con mèo hoang vô chủ được bà nhặt ngoài đường đem về nuôi nấng trong nhà. Ông Cần thường nói đùa, vợ ông quý đàn mèo hơn ông.

Bà Nguyễn Minh Cần sinh ra, lớn lên và trải nghiệm những năm tháng kinh khủng của xã hội trại lính dưới bàn tay cai trị tàn bạo của Stalin. Bà cũng là nhân chứng sự sụp đổ của Liên Xô và nhận rõ bộ mặt độc tài mới của Putin. Chính bà đã sát cánh bên người chồng Việt Nam trong suốt những năm tháng ông chịu cảnh lưu vong nghiệt ngã sau khi từ bỏ chế độ Hà Nội. Và cho tới lúc ông ra đi, bà lúc nào cũng là người để ông tựa vào đứng dậy.

Gần một tháng sống với ông trong căn phòng nhỏ ở Virginia gần D.C, nhiều người nghe tiếng ông tìm đến thăm nghe ông trò chuyện. Một buổi tối, anh Nguyễn Mạnh Hùng mang thức ăn đến, ba anh em nói chuyện đến quá khuya. Những chi tiết ông Cần kể hôm đó rất hữu ích đối với một việc nghiên cứu và giảng dạy môn Chính trị và Bang giao Quốc tế như anh Hùng.

Anh Hùng về lúc nửa đêm. Khoảng 3 giờ sáng, tôi thức giấc vì nghe tiếng thì thào. Nhỏm dậy, tôi thấy ông Cần ngồi quay lưng vào tường, miệng kê sát cái máy thâu âm và đang nói rất nhỏ. Tôi hỏi, anh cần em giúp gì không? Ông bảo, xin lỗi làm chú thức giấc, tôi quên vài chi tiết trong lúc nói chuyện nên thức dậy thâu ngay để sáng bổ túc cho anh Hùng.

Ông Cần là vậy đó! Ở tuổi gần 70 mà sức sống như một người trẻ.

Lần thứ nhì ông sang Mỹ cuối năm 1998 và cũng đến trọ với tôi ở Virginia. Lúc đó có cả nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến. Trạc tuổi nhau, người sống ở miền Nam, người lưu vong bên Nga trong lúc cuộc chiến khốc liệt diễn ra trên quê nhà thời thập niên 60, hai ông trò chuyện thâu đêm suốt sáng.

Một người bạn tôi quý mến ông Cần nhờ tôi chuyển món quà 1 ngàn Mỹ kim biếu ông. Ông thẳng thắn từ chối. Ông bảo, chú giữ lấy để giúp người nghèo hoặc những người đấu tranh tại Việt Nam. Tôi ép mãi, ông đành nhận nhưng nhờ tôi gửi thẳng cho Thiền viện Phật Giáo tại Moscow để “làm quỹ sinh hoạt cho Phật tử” .

Ông Cần là vậy đó! Đạm bạc. Trong sáng.

Có lần, tôi bị một người bạn phản ứng giận dữ khi tôi tặng anh cuốn “Vụ án Xét lại Chống Đảng” do ông Cần viết. Người bạn lớn tiếng, “hết khôn dồn đến dại” hay sao mà lại giao du với cộng sản.

Rõ ràng, cộng sản vẫn là bóng ma ám ảnh con người Việt Nam.

Anh Nguyễn Mạnh Hùng, khi tôi báo tin ông Cần mất, anh nói, anh Cần là người có nhân cách đáng quý. Anh Nguyễn Xuân Nghĩa cũng thốt lên một câu tương tự khi nghe tin ông Cần.

Với tôi, ông Cần tiêu biểu cho một lớp người trong hàng ngũ cộng sản yêu nước thật sự, họ dấn thân vì đất nước chứ chẳng vì cái gì khác, và một khi họ thấy được bề trái nhếch nhác của cộng sản thì họ tự quyết định chia tay cái đảng tôn thờ chủ nghĩa duy vật này và vẫn tận tụy mưu tìm một con đường khác hòng đem đến no ấm hạnh phúc cho con người và đất nước Việt Nam.

Và cuối cùng, tôi thật ân hận vì nhà xuất bản Người Việt chưa kịp hoàn tất việc tái bản cuốn “Ðảng Cộng sản Việt Nam qua những biến động trong phong trào Cộng sản Quốc tế” (xuất bản lần đầu năm 2001) của ông thì ông đã vĩnh viễn ra đi.

Anh Cần ơi, em vốn không tin tôn giáo nào nhưng tin là anh đang thanh thản nơi cõi Phật!
Đ.Q.A.T.





No comments: