Posted on April 29, 2016
.
Trang nhật ký trên biển ghi lại những khoảnh khắc trong hành trình rời bỏ
quê hương của tác giả
Mới
đây, trong thùng tư liệu tôi tìm lại được một trang giấy với bút tích ghi chép
những sự kiện trong những ngày trôi nổi trên biển sau khi rời quê hương vào cuối
tháng Tư 1975.
Nhìn
những con số, những nét chữ, một vùng ký ức không hề phai nhòa lại hiện về. Tờ
giấy pơ-luya trên đó tự tay mình ghi ngày tháng, viết vội vài ba chữ, đôi ba
dòng về những gì đã xảy ra trong hành trình trên biển khi rời bỏ quê hương, bắt
đầu từ bến Kho 5 Sài Gòn, khi thành phố trong cơn hoảng loạn cho đến khi đến được
căn cứ Hải quân Mỹ ở Subic Bay, Philippines.
“29-04
16g30 Depart Thứ 3”
Đây
là hàng chữ đầu tiên trên trang giấy mỏng. Sáng nay tôi theo ông anh họ chạy từ
nhà anh ở khu Chí Hòa, Ngã ba Ông Tạ vào thành phố bằng xe máy, lòng vòng qua
nhiều nơi trước khi đến bến tàu rồi lạc mất nhau. Trong hoảng loạn, chen chúc,
tôi theo một phụ nữ với con nhỏ lên tàu mà không biết rồi sẽ đi đâu.
Chiều
hôm đó con tàu không máy mầu xanh dương có tên Saigon II được một tàu Đại Hàn
kéo ra khỏi bến Kho 5 để đi về miền Tây tránh chiến tranh. Tôi nghe người lớn
nói thế.
“30
9g30’ đầu hàng 11g30 CS vô Thứ 4”
Đó
là ngày thứ Tư 30/4/1975. Tin đầu hàng tôi nghe được trên boong tàu, từ radio
trên tay một người có dáng cao lớn, đầu hói đang ngồi ở phía đầu tầu cùng vài
người khác, tất cả ngó về phía trước. Còn tôi ngồi dựa lưng vào thành tàu để có
gió làm cho bớt mệt sau cơn ói vì say sóng và vì đêm qua ở dưới hầm tàu rất ngột
ngạt. 9 giờ 30 phút đầu hàng. 11 giờ 30 cộng sản vô.
Lúc
sau từ radio phát ra những lời ca quen thuộc: “Rừng núi giang tay nối lại biển
xa…”
“Chúa
Nhật 04 tháng 05, 1975 tới Singapore hồi 7g30 Sg (7g địa phương). Tới 12g được
tin chính phủ Singapore thừa nhận CPCMLT [tức Chính phủ Cánh mạng Lâm thời Cộng
hòa Miền Nam Việt Nam], lo sốt vó không biết làm sao, tính đi về Đài Loan nhưng
xa quá, đi Úc, Guam cũng vậy. Số mạng chúng tôi thật như chỉ mành treo chuông.”
Chúa Nhật 04/5 tàu được
kéo đến Singapore. Sự kiện và cảm nhận lo âu của tác giả lúc bấy giờ
Như
thế con tàu được kéo đi lòng vòng 5 ngày mới đến Singapore. Những ngày qua tôi
chỉ thấy chung quanh là biển bao la. Xa xa phía trước là sợi dây thừng to chìm
dưới nước được nối vào đuôi con tầu Đại Hàn đang kéo Saigon II theo sau.
Đêm
về dưới hầm tàu tôi cố tìm giấc ngủ nhưng không thể được vì cứ nghĩ đến gia
đình bỏ lại, nhớ bạn bè, nghĩ về tương lai vô định.
Có
sáng trên boong tàu nghe người lớn kể trên đường đi muốn vào Mã Lai nhưng bị hải
quân Mã nổ súng đuổi đi mấy lần.
Cơm
trên tàu có chú Thành là hoả đầu quân, nấu cơm bằng thùng phuy cho 300 người ăn
nên có hột khê, hột sống. Nước ngày được chừng một ly.
Đến
được Singapore nhưng quốc gia này không nhận cho người tị nạn tạm trú. Ông chủ
tàu Nguyễn Văn Ngọc và chú Tư bàn với thuyền trưởng Đại Hàn về dự định sẽ đi
đâu. Tôi cũng như mọi người đều lo không biết tương lai sẽ trôi dạt đến nơi
nào, vì tàu không có máy làm sao đi xa được nữa trong khi Singapore có thể trả
người tị nạn về lại Việt Nam.
Ngoài
khơi hải phận Singapore, chung quanh thấy cũng có nhiều thuyền bè khác với người
Việt trên đó.
“9-5
22g chuyển tầu Thứ 6”
Hôm
nay là thứ Sáu ngày 9/5. Năm ngày qua tàu neo trong vùng biển Singapore, chúng
tôi được cung cấp thức ăn có bánh mì, jăm-bông, cá hộp, patê hộp (Made in
China) và cam táo. Những lát bánh mì kẹp hình vuông đầu tiên tôi được ăn trong
đời và cảm thấy ngon nhất là lúc này.
Nhìn
vào thành phố rực sáng ánh đèn. Những đêm qua trên tàu có lính Singapore lên
canh gác. Dù tiếng Anh kiểu “cá nấu chè” tôi cũng cố gắng mở miệng nói ít câu
và làm quen được với một anh lính hay đem kèn hạc-mo-ni-ca lên tàu giúp vui. Chúng
tôi tặng nhau những đồng tiền Singapore và Việt Nam Cộng hòa để làm kỷ niệm.
Đồng tiền người lính
Singapore ký tặng tác giả để làm kỷ niệm
Đêm
thứ Sáu 9-5 lính Singapore ra lệnh cho chúng tôi chuyển sang một tàu khác để ra
đi.
Qua
một du thuyền nhỏ rồi được đưa lên một con tàu trên đó đã đông nghẹt người Việt,
chen chúc nhau trên boong không còn một chỗ trống, ngoài lối đi nhỏ quanh tầu.
Tôi xuống hầm tìm một chỗ nằm vì lúc này lại cảm thấy say sóng, muốn ói.
Sáng
ra, không chịu nổi không khí ngột ngạt dưới hầm, tôi leo lên boong và thấy toàn
người là người. Saigon II cũng lớn bằng tàu này, nhưng chỉ có khoảng 300 người.
Nay trên tàu Đông Hải có đến 2 nghìn người.
“11-5
ra đi 5g30’ CN”
Sáng
sớm Chủ Nhật ngày 11/5 mấy chiến thuyền của hải quân Singapore hướng dẫn đưa
Đông Hải ra hải phận quốc tế và chỉ hướng đi Philippines.
Không
thể ở dưới hầm, vì quá ngột ngạt và lúc đó lại đang có dịch đỏ mắt. Tôi tìm được
một chỗ ngồi lơ lửng trên tấm phên trên một cột sắt cao cách sàn tàu chừng hai
mét, dù phải chịu nắng mưa nhưng luôn gió mát vẫn dễ thở hơn.
“16
6 tới vịnh 13g20 17g lên subic bay (Philip)”
Năm
ngày sau Đông Hải đến Philippines. Có cuộc bốc thăm cho một số người xuống tàu
vào Subic Bay. Tôi theo gia đình ông anh họ xuống một tàu của Hải quân Mỹ và được
lên bờ lúc 5 giờ chiều ngày thứ Sáu 16/5/1975. Nghe nói con tàu Đông Hải sau đó
tiếp tục hải trình đi Guam.
Tác giả, bên phải,
cùng với gia đình người anh họ trên đảo Grande Island ở Subic Bay, Philippines
tháng 5/1975
Đặt
chân lên đất liền người tôi nghiêng ngả bước đi vì say đất. Tối hôm đó, nơi vòi
nước công cộng trên đảo Grande Island tôi đã tắm gội thật lâu cho sạch muối biển
trên người và gột rửa đi những mệt nhọc sau 17 ngày lênh đênh trên biển.
Giữa
thập niên 1980 tôi trở lại Đông nam Á làm việc, trong một chuyến công tác ở trại
tị nạn Bataan, Philippines tôi đã ghé về thăm Subic Bay.
Lúc
công tác ở trại Galang, Indonesia tôi cũng đã trở lại Singapore và có dịp gặp lại
anh lính mà tôi quen trên tàu Saigon II. Đến nay chúng tôi vẫn còn liên lạc với
nhau.
(ảnh
trong bài của tác giả)
© 2016
Buivanphu
Tháng
Tư và tờ nhật ký trên biển * Chiều hôm đó con tàu không máy mầu xanh
dương có tên Saigon II được một tàu Đại Hàn kéo ra khỏi bến Kho 5 để đi về miền
Tây tránh chiến tranh. Tôi nghe người lớn nói thế.
No comments:
Post a Comment