Đoàn
Viết Hoạt: Người thực hiện sứ mạng xương rồng
Đỗ Thái Nhiên
17/05/2025
https://baotiengdan.com/2025/05/17/doan-viet-hoat-nguoi-thuc-hien-su-mang-xuong-rong/
LGT: Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, một nhà hoạt động
dân chủ nổi tiếng và là cựu tù nhân lương tâm ở Việt Nam, qua đời ngày
14-5-2025, tại một bệnh viện ở quận Cam, hưởng thọ 83 tuổi. Nhân dịp này, chúng
tôi xin được giới thiệu một bài viết cũ của LS Đỗ Thái Nhiên: “Đoàn Viết Hoạt:
Người thực hiện sứ mạng xương rồng”.
***
So
với các loài thực vật khác, xương rồng là loại cây có sức chịu đựng cao cấp
và trường kỳ nhất đối với mọi tình huống khắc nghiệt của đất đai và của thời tiết.
Sứ mệnh như thế nào được gọi là sứ mệnh xương rồng? Thay vì trả lời trực tiếp
câu hỏi vừa nêu, bài viết này kính mời bạn đọc hãy theo dõi câu chuyện: “Đoàn
Viết Hoạt: Người thực hiện sứ mệnh xương rồng”.
Chuyện
kể như sau:
Tối
hôm ấy tại phòng giam tập thể số 14 khu BC khám Chí Hòa, người ta thấy một người
đàn ông trạc ngoài tứ tuần: Trán cao, đầu lại hói, mặc dầu nằm đằng sau cặp
kính cận thị gọng đen, đôi mắt vẫn lộ rõ nét thông minh, da trắng xanh, mình mặc
bộ bà ba nâu sồng, người gầy và tầm thước, hai tay đưa cao nắm lấy song sắt của
phòng giam, mắt hơi ngước lên trời, chăm chú nhìn mặt trăng ngày rằm đang lửng
lơ trên sân cỏ nằm ở trung tâm của khám đường. Một cách rất thanh thản, người
đàn ông đó cất tiếng hát, âm điệu khi thiết tha, khi dồn dập, hát rằng:
Trăng
đã lên trên đỉnh nhà tù,
luồn
qua khe cửa sắt, trải một vệt trắng ngà
trên
thân thể ta trong xà lim tăm tối…
Ôi
ánh trăng đã từng làm ta đắm đuối
suốt
những đêm dài trong tuổi đôi mươi
suốt
những tháng năm còn đầy tiếc nuối
đã
từng cùng ta ươm mộng xanh tươi…
Ôi
ánh trăng nồng nàn trên da thịt em,
bừng
cháy trong trái tim ta,
qua
suốt những năm tháng nào…
ngọt
ngào tình yêu đằm thắm
dưới
bầu trời lồng lộng trăng sao…
Trăng
đã lên trên đỉnh nhà tù,
trăng
của tháng Tư năm Kỷ Mùi 79
vẫn
ngọt ngào như giòng sữa mẹ
trên
quê hương còn phủ ngập tang thương
vẫn
tưới mát bao tâm hồn son trẻ
đang
âm thầm chiến đấu cho quê hương
Trăng
đã lên… trăng đã lên.
Vừa
dứt tiếng hát, người đàn ông quay sang nhìn tôi, mỉm cười và nói:
–
“Bài này tớ sáng tác năm ngoái vào thời kỳ tớ còn đang bị cùm chân tại xà
lim. Hôm nay thấy trăng thu, lại nhớ đến nhạc cũ, tớ hát cho cậu nghe đỡ buồn.
Cậu có cảm nghĩ gì không?”
Người
đàn ông đang nói chuyện với tôi chính là anh Đoàn Viết Hoạt. Tôi nhìn mung lên
bầu trời vằng vặc trăng sao, trả lời Hoạt:
–
“Bản nhạc hết sức phong phú tình cảm: tình yêu thiên nhiên quấn quyện lấy
tình nhà, tình nước… Anh tài hoa và lãng mạn, dáng dấp rất thư sinh, nét mặt lại
vừa trí thức vừa ngây thơ vô tội… Nhìn anh không ai lại nghĩ anh là người làm
những chuyện động trời!”
Hoạt
cười, hai đuôi mắt cười theo:
–
“Cậu chỉ được cái tài nói móc ! Sự thực tớ chẳng bao giờ có chủ tâm “làm chuyện
động trời”. Tớ sinh ra và lớn lên vào giai đoạn dân tộc lâm cảnh điêu đứng:
hàng triệu người đã “tử biệt” trong chiến tranh và hàng triệu triệu người
khác đã “sinh ly” trên đói khổ và tử biệt ngoài biển khơi sau khi tiếng súng ngừng
nổ. Điều mà cậu gọi là “chuyện động trời” chẳng qua chỉ là phản ứng tự nhiên của
một người dân nhằm thiết thực chia sẻ với những người dân khác tất cả đau đớn,
nhọc nhằn mà toàn dân đang phải chịu đựng một cách miên viễn: xã hội hiện tại rối
loạn, xã hội tương lai mịt mù, lừa đảo lẫn nhau trở thành vừa là phép xử thế
căn bản, vừa là loại công lý đương nhiên trong quan hệ giữa người dân với
người dân, giữa người dân với cơ quan công quyền và giữa các cơ quan công
quyền với nhau”
Đoàn
Viết Hoạt sanh năm 1942 tại Nam định. Năm 1954 theo gia đình di cư vào Nam. Năm
1965 tốt nghiệp Đại học Sư phạm Sàigòn ban Anh Văn. Năm 1966 lập gia đình với
chị Trần Thị Thức, một nữ sinh viên trong phong trào sinh viên Saigon lúc bấy
giờ. Năm 1967 ĐVHoạt du học Hoa Kỳ về môn Tổ Chức và Quản Trị Đại Học tại Đại
học Florida State (FSU), Tallahassee, Florida. Năm 1971, đậu Ph.D. về Giáo Dục.
Sau đó, Đoàn Viết Hoạt trở về nước giữ chức vụ Phụ tá Viện trưởng tại
Viện Đại học Vạn Hạnh cho đến 30 tháng Tư, 1975.
Thân
sinh Đoàn Viết Hoạt là một nhà nho tự học, tinh thông Hán học, Phật học và Dịch
học, một đệ tử chân truyền của nhà cách mạng Lý Đông A. Được thân phụ giáo dục
rất cẩn thận về lòng yêu nước và về đạo làm người, ngay từ thuở niên thiếu,
Đoàn Viết Hoạt đã xem lòng Yêu Nước và Yêu Người như nền tảng tự nhiên và hằng
cửu của lương tâm. Do đòi hỏi của lương tâm tự nhiên và hằng cửu đó, anh đã tự
ý quyết định ở lại Việt Nam mặc dầu những ngày gần 30 tháng Tư, 75, Hoạt có thừa
cơ hội để bỏ nước ra đi.
Hoạt
nhiều lần tâm sự với bạn bè rằng: “Mỗi người có những khó khăn riêng, mỗi
người có một thái độ yêu nước riêng, chúng ta không nên nghiêm khắc phê bình những
người đã rời Việt Nam năm 1975. Tuy nhiên, đối với cá nhân tôi, thái độ yêu nước
thiết tha và cụ thể nhất vẫn là thái độ kiên trì đứng trong hàng ngũ nhân dân
vào những giai đoạn nghiệt ngã của lịch sử. Những cay đắng mà một người đã trực
tiếp cùng nhân dân chịu đựng cộng với các nhận thức cần thiết sẽ hối thúc người
đó kết hợp với những người yêu nước khác làm cho lịch sử thăng hoa”.
Lời
tâm sự rành mạch kể trên của Đoàn Viết Hoạt đã một lần nữa giải thích cặn kẽ và
dứt khoát sự có mặt của Đoàn Viết Hoạt tại Việt Nam sau 30 tháng Tư, 1975. Thế
nhưng lòng yêu nước trong sáng đó đã bị CSVN vùi dập một cách phũ phàng: 29
tháng Tám năm 1976, công an CS đã ập vào nhà người trí thức ái quốc này để bắt
giam anh với hai “tội danh” kể như sau:
–
Đoàn Viết Hoạt: truyền bá tư tưởng yêu nước nhưng không chấp nhận cộng sản. Tư
tưởng này được thầy Hoạt mang ra rao giảng tại Đại học Vạn Hạnh trước 1975. Một
vài cán bộ CS đã len lỏi vào đám “học trò của thầy” bằng cách giả dạng sinh
viên. Vì vậy ngay sau 30 tháng Tư, 1975 tên của “thầy Hoạt” lập tức bị nằm
trong danh sách của những người mà công an cho là cần phải bắt giam khẩn cấp.
–
Đoàn Viết Hoạt thực hiện công tác tình báo văn hóa cho “đế quốc” Mỹ: công an CS
đã “chuẩn đoán” rằng Đoàn Viết Hoạt được “đế quốc” Mỹ nuôi cho ăn học để sau đó
trở về Việt Nam tìm cách “Mỹ hóa” Phật giáo Việt Nam thông qua cửa ngõ của Đại
học Vạn Hạnh. Đó là nội dung cốt lõi của tội “tình báo văn hóa” theo “hình luật
truyền khẩu” do CSVN tuỳ nghi biến chế.
Bằng
vào hai “tội danh” thượng dẫn và bằng những cuộc thẩm vấn gay gắt và tỉ mỉ do
ban giám đốc sở công an thành phố trực tiếp chỉ huy và điều động kéo dài trong
gần ba năm từ 1976 đến 1978. Đoàn Viết Hoạt tự biết cuộc đời tù của anh sẽ kéo
dài bất tận. Hẳn nhiên trong cái bất tận đó, Hoạt cũng như bất kỳ người tù nào
dưới chế độ cộng sản, đều có thể đột ngột từ trần chỉ vì một cơn bệnh đơn giản:
Tiêu chảy, cảm sốt hoặc suy nhược toàn diện… Không ai có thể đoán biết một cách
chính xác ở đâu và lúc nào người đó sẽ lìa đời. Thế nhưng, điều có thể nhận biết
chính xác và dứt khoát nhất là: Đối với Đoàn Viết Hoạt, thêm một ngày tù là
thêm một chuẩn bị cẩn thận hơn, công phu hơn để khi chết đi, người tù trí thức,
dũng cảm này sẽ được người đời ghi nhớ trong cảm động: cảm động về lòng yêu nước
sắt son. Chính lòng yêu nước sắt son đã hối thúc Đoàn Viết Hoạt, bất chấp kỷ luật
khắt khe của nhà tù, tiếp tục và tích cực truyền bá tư tưởng yêu nước đến tận
tim óc của mỗi người bạn đồng tù. Nội dung chủ yếu của tư tưởng yêu nước do anh
trình bày bao giờ cũng nhằm vào hai trọng điểm:
–
“Yêu nước tức là yêu Xã hội Chủ nghĩa” chỉ là một luận điệu tuyên truyền bịp bợm
nhưng không thông minh. Yêu nước bao gồm mọi tư duy và hành động nhằm mang lại
tự do và hạnh phúc cho đời sống tinh thần của nhân dân, mang lại cơm no áo ấm
cho đời sống thể chất của đồng bào. Trong khi đó, “Xã hội Chủ nghĩa” của CS chỉ
xây dựng xã hội trên gông cùm và đói rách, tại sao lại có thể bảo “Yêu nước là
yêu Xã hội Chủ nghĩa”?
–
Yêu nước không thể chỉ là tình cảm uỷ mị thưong khóc cho cảnh cùng khổ của quê
hương. Yêu nước phải là những lời nói, việc làm mạnh mẽ và cụ thể nhằm nâng cao
dân trí và nhằm xây dựng cho nhân dân một chế độ dân chủ đích thực – dân chủ đa
nguyên.
Mỗi
lần rao giảng lòng yêu nước cho một bạn tù nào đó là mỗi lần Đoàn Viết Hoạt chi
tiết hoá và phong phú hóa hai trọng điểm kể trên của lòng yêu nước. Mặc dầu đã
rất nhiều lần nói về lòng yêu nước, nhưng lần nào Đoàn Viết Hoạt cũng mang tất
cả tim óc đặt vào hai chữ quê hương. Đoàn Viết Hoạt hăng say mang quê hương đến
với kẻ già, người trẻ, kẻ xảo trá, người ngay tình. Trong thái độ hăng say vừa
nói, Đoàn Viết Hoạt đã có lắm lần rơi vào phòng giam kỷ luật về tội “thuyết
phục tù “antène” nên yêu nước”. Rút kinh nghiệm đối với những trường hợp bị tù
“antène” ám hại, Đoàn Viết Hoạt thường gợi ý xem tử vi cho người nào mà Hoạt đã
chọn làm đối tượng của việc rao giảng đạo yêu nước. Hoạt cho rằng lá số tử vi
của một người thường báo cho chúng ta biết là người đó có phải là bạn hiền hay
không. Thế nhưng, chỉ sau vài lần giải đoán tử vi, Đoàn Viết Hoạt lại bị tống
giam vào xà lim kỷ luật về “tội” đã truyền bá tư tưởng mê tín dị đoan. Một lần
khác, nhân ngày giỗ tổ Hùng Vương, Hoạt nói với tôi:
“Muốn
đánh đuổi ‘tổ’ Marx Lenine đang tìm đường xâm nhập văn hoá Việt Nam, chúng ta
phải quyết tâm làm lễ giỗ tổ Hùng Vương hàng năm”.
Tối
hôm ấy, sau hồi kẻng giới nghiêm, toàn thể phòng tù đang giữ im lặng chờ giấc
ngủ, Đoàn Viết Hoạt đột ngột đứng lên, trang trọng nói với bạn tù vài lời về ý
nghĩa giỗ tổ Hùng Vương, sau đó, anh ta bắt giọng hát: “Tổ quốc ơi! Ta đã
nghe lời sông núi…” Một số bạn tù thuộc bài hát này đã hát theo. Sáng hôm
sau, do báo cáo của tù “antène”, Đoàn Viết Hoạt đã nhanh chóng bị mang đi phòng
kỷ luật. Đối với bạn tù cùng phòng cũng như đối với bạn tù ở các phòng cùng một
hành lang, hình ảnh Đoàn Viết Hoạt mình trần, chân đất, râu cằm, râu mép mọc tự
do, mặt vẫn trắng vẫn tươi, vẫn “vô tội”, vui vẻ bước vào xà lim kỷ luật là
hình ảnh quen thuộc gần như hàng tháng. Mỗi chuyến phạt kỷ luật kéo dài 15
ngày.
Bên
trong nhà tù, cuộc đời Đoàn Viết Hoạt cứ như vậy mà nổi trôi: rao giảng lòng ái
quốc rồi đi phòng kỷ luật. Từ phòng kỷ luật trở về nhà giam tập thể, tiếp tục
truyền bá tư tưởng tự do dân chủ, rồi lại đi phòng kỷ luật. Có một lần vừa mới
mãn hạn kỷ luật, Đoàn Viết Hoạt đã phải tiếp nhận một mệnh lệnh kỳ lạ của sở
công an thành phố. Lệnh này cho rằng đoàn Viết Hoạt và bốn người tù khác thuộc
loại “bất khả cải tạo”. Vì vậy sở công an ra lệnh cho giám thị khám Chí Hoà cấm
tù nhân cùng phòng không ai được phép giao thiệp hoặc chuyện trò với năm người
tù có tên sau đây:
–
Đoàn Viết Hoạt
–
Như Phong Lê Văn Tiến (Tổng Thư Ký Báo Tự Do)
–
Nguyễn Đan Quế (Bác Sĩ)
–
Cao Dao Nguyễn Trần Huyên
–
Lý Thiếu Hoan.
Đoàn
Viết Hoạt đã dí dỏm gọi năm người tù vừa kể là “tù bị đông lạnh”. Tuy nhiên, mặc
cho biện pháp đông lạnh, mặc cho các loại hình phạt kỷ luật, Đoàn Viết Hoạt vẫn
bền bỉ và âm thầm chiến đấu cho quê hương. Song song với cuộc chiến đấu âm thầm
đó, sinh mệnh chính trị của CSVN càng ngày càng trở nên tệ hại. Bên ngoài nước,
hệ thống CS thế giới tan rã chẳng khác nào một hình nộm bằng giấy sau cơn mưa
bão. Bên trong nước, CSVN tham ô bao nhiêu chia rẽ bấy nhiêu, toàn bộ xã hội VN
chìm trong đói khổ và rối loạn cùng cực; quyền lãnh đạo của CSVN hiển nhiên đã
trở thành quyền “ăn xôi” của những kẻ “chịu đấm”. Mỗi phẫn hận của nhân dân là
một quả đấm. Nhằm giảm thiểu sức ép của “mưa đấm”, CSVN không còn con đường nào
khác hơn là con đường trả tự do cho một số tù chính trị đã bị giam giữ quá lâu.
Đó là lý do chủ yếu nhất giải thích tại sao chiều 9 tháng Hai năm 1988, Đoàn Viết
Hoạt ung dung bước ra khỏi cổng khám Chí Hòa. Chiều hôm ấy nhằm chiều 23 Tết: nắng
Sàigòn vẫn vàng, gió Sàigòn có vẻ như không hay biết gì về tâm tình của nhân
dân, họ đang chuẩn bị đón một cái Tết đói khát: đói cơm áo và khát tự do dân chủ.
Thoáng
một cái, Đoàn Viết Hoạt đã trải qua 12 năm ngục tù với đầy ắp nhọc nhằn. Những
ngày còn sống bên nhau trong khám Chí Hoà, Hoạt thường tâm sự với tôi:
“Tớ
ước mong là khi tớ trở về nhà, thầy mẹ tớ vẫn còn khoẻ mạnh, vợ con tớ vẫn bằng
yên và nếu quê hương của chúng ta chưa thái hoà, tớ sẽ quyết tâm tiếp tục đấu
tranh cho tự do dân chủ của nhân dân”.
Thế
rồi, khi Hoạt trở về, căn nhà tường mốc, cửa long ở gần cổng xe lửa Trương Minh
Giảng vẫn còn đó, nhưng mẹ Hoạt đã qua đời năm 1985 và năm sau, ông cụ thân
sinh của Hoạt cũng qui tiên.
Khi
Hoạt trở về, hai con trai lớn của Hoạt đã vượt biên, định cư tại Minnesota, Hoa
Kỳ. Gia đình của Hoạt chỉ còn lại bà vợ chung thuỷ và đảm đang cùng cậu trai
út, tên ở nhà là “bé Cọp”.
Khi
Hoạt trở về, quê hương vốn điêu tàn đã trở nên điêu tàn ngoài khả năng tưởng tượng
của mọi người. Đảng CSVN trở thành một loại Mafia, họ tồn tại nhờ vào nỗ lực
bóc lột nhân dân thông qua chế độ lãnh chúa. Mọi đạo đức và tình cảm có tính
truyền thống dân tộc đều bị triệt để huỷ diệt bởi hoạ CS.
Những
gì mà Hoạt đã nhìn và đã suy nghĩ từ bức tranh “khi Hoạt trở về” đã thực sự làm
cho Hoạt vừa ngậm ngùi vừa phẫn hận. Thế nên, chỉ sau vài ngày ăn Tết với vợ
con, Hoạt quyết định lao mình vào cuộc đấu tranh mới, cuộc đấu tranh mà Hoạt khẳng
định rằng: “Một cuộc chiến mới đã bắt đầu: chiến đấu chống nghèo đói lạc hậu,
độc đoán, đòi phú cường, tiến bộ và tự do dân chủ. Trong cuộc chiến đấu mới
này, chỉ có một kẻ thắng là sự thực, là dân tộc VN, là dân chúng VN; một kẻ bại
là giáo điều, giả dối, lạc hậu và độc đoán. Đây phải là một tâm niệm chỉ đạo rõ
rệt, không chút mơ hồ nào của tất cả chúng ta” (Trích băng nhựa “Nói với
đồng bào” do nhóm Diễn Đàn Tự Do bí mật phổ biến trên toàn VN tháng Hai năm
1990).
Ở
một đoạn khác của cuốn băng nhựa đã dẫn, Đoàn Viết Hoạt đưa ra các nhận định dứt
khoát và cụ thể về tình hình VN:
“Thực
tế hiện nay là tình hình đất nước còn tuỳ thuộc hầu như hoàn toàn vào những quyết
định độc quyền của một thiểu số người trong Bộ Chính Trị tại Hà Nội, trong khi
đó chỗ dựa vững chắc trước đây của họ là chủ nghĩa Marx Lenine lại đang bể vỡ từng
mảng lớn quan trọng. Họ còn có thể hy vọng học được những kinh nghiệm gì của
Trung Quốc trong việc đối phó với tình hình mới? Còn những liều thuốc đang được
thử nghiệm ở Đông Âu và Liên Xô thì chắc chắn là quá cay đắng, có thể nào nuốt
được? Nếu nhìn thẳng vào sự thực, thì phải chăng chính những nhà lãnh đạo CS
già nua hiện nay ở Hà Nội cũng tự hiểu rằng, bản thân chủ nghĩa Marx chẳng còn
mấy ý nghĩa nữa. Nhưng nếu từ bỏ chủ nghĩa Marx thì còn nhân danh gì để CSVN
có thể lý giải vị trí độc quyền lãnh đạo quốc dân của họ? Đó phải chăng
chính là ý nghĩa thật đằng sau những mưu toan đổi mới dân chủ của Bộ Chính Trị
CS ở Hà Nội?”
Đứng
trước tình hình như đã nhận định, Đoàn Viết Hoạt một mặt kết hợp với anh chị em
trí thức trong quốc nội để vừa phổ biến băng nhựa “Tiếng Nói Diễn Đàn Tự Do”, vừa
bí mật ấn hành nguyệt san “Diễn Đàn Tự Do”, truyền bá tư tưởng tự do dân chủ
đích thực, đồng thời vạch trần mọi âm mưu đổi mới mị dân của CS. Mặt khác, lợi
dụng thời gian được trả tự do và thời gian ngành Công An đang bận rộn với vô
vàn hành vi tham ô của chính họ, Đoàn Viết Hoạt đã đi từ Nam ra Bắc để kín đáo
thuyết phục mọi người Việt: Cộng sản hay không Cộng sản, không phân biệt tôn
giáo, địa phương, nam nữ, tuổi tác, tất cả hãy kết hợp lại thành một phong trào
“Toàn dân đấu tranh cho tự do dân chủ và thịnh vượng chung của xã hội”.
Trong
băng nhựa, trên báo mật, cũng như tại những buổi nói chuyện từng nhóm vài ba cá
nhân, Đoàn Viết Hoạt bao giờ cũng trình bày quan điểm đấu tranh chính trị với
CS trên nền tảng của các luận cứ sau:
Một
trong những phương pháp đấu tranh chính trị hữu hiệu nhất nhằm chống lại bạo
quyền CS chính là phương pháp “gậy ông đập lưng ông”.
–
Trên mọi loại giấy tờ kinh tế, hành chính cũng như luật pháp, nhà cầm quyền CS
bao giờ cũng nêu bật tiêu đề Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc. Chúng ta hãy phân tích
cho người CS biểu hiện tình quốc nội và quốc tế để từ đó đi đến kết luận rằng
ba chữ độc lập, tự do, hạnh phúc mà CSVN thường rêu rao chỉ là ba cái bông giấy
quá cũ, quá bạc màu, hoàn toàn vô nghĩa ngoại trừ ý nghĩa mỉa mai một cách cay
độc đời sống cùng khổ ngày nay của nhân dân.
–
Người Cộng sản Việt Nam, đặc biệt là quý vị Cộng sản già nua ở Hà Nội, mãi cho
đến ngày nay vẫn làm ra vẻ tự hào về “chủ nghĩa Marx Lenine vô địch muôn năm”.
Chúng ta hãy nói với những người CS về Đông Âu, về Liên Xô, về Trung Quốc và nhất
là về CS Nam Tư sau nhiều thập niên nỗ lực “đổi mới”. Những “nói về” vừa kể
chính là lời khẳng định gián tiếp nhưng mạnh mẽ rằng: “Chủ nghĩa Marx Lenine vô
địch muôn năm” hiển nhiên chỉ là lối diễn đạt tư tưởng không ngay thẳng của những
người có trình độ văn hoá tổng quát rất đáng bị than phiền.
–
Đặc biệt trước nguy cơ sụp đổ của chế độ, người CSVN hoặc trực tiếp kêu gọi hòa
hợp hòa giải, hoặc gián tiếp kêu gọi mọi người Việt hãy nắm tay nhau để xây dựng
lại quê hương. Lời kêu gọi hòa hợp hòa giải của CSVN rõ ràng hàm ngụ hai ẩn ý:
+
Quyền lãnh đạo của đảng CSVN là một quyền đương nhiên, chuyên độc và vĩnh viễn.
Xin nhân dân chớ hề đặt vấn đề lật đổ đảng (!)
+
Hòa hợp hòa giải đối với CS chỉ có nghĩa đơn giản là toàn dân hãy đoàn kết chặt
chẽ sau lưng đảng để đảng tiếp tục cai trị xã hội theo phong cách của những kẻ
quan liêu và tham ô (!)
Nói
tới CSVN là nói tới thủ đoạn bóp méo chữ nghĩa. Họ sẵn sàng bóp méo chữ nghĩa
trong bất kỳ trường hợp nào, kể cả trường hợp hành vi bóp méo phải diễn ra
trong trắng trợn và vụng về. Chữ với nghĩa là thành phần quan trọng của kho
tàng văn hóa dân tộc. Chúng ta không được phép “biếu không” cho CS những chữ mà
họ đã bóp méo bằng cách không dám nhắc tới hoặc tỏ ra dị ứng mỗi lần nghe nói tới
những chữ đó. Ngược lại, chúng ta hãy mạnh mẽ đấu tranh với CS để buộc họ phải
thực hiện theo chính danh những từ ngữ đã bị bóp méo.
Bây
giờ hãy trở lại với vấn đề hòa hợp hòa giải. Đoàn Viết Hoạt lý luận: Trong thực
chất, lịch sử của loài người là lịch sử hòa hợp hòa giải. Thực vậy, lịch sử
tình bạn của hai người chẳng là gì khác hơn là lịch sử của những lần hai người
này gặp những xung khắc hoặc va chạm. Tuy nhiên, ngay sau những xung khắc hoặc
va chạm đó, hai người bạn lại cố gắng hòa giải lẫn nhau trên căn bản
tình bạn, để sau đó đôi bên lại tiếp tục hòa hợp trên liên hệ bằng hữu.
Lịch
sử của gia đình chẳng gì khác hơn là lịch sử của những lần hòa giải và hòa hợp
giữa vợ chồng với nhau, hoặc giữa cha mẹ và con cái, giữa anh, chị, em với
nhau trên căn bản quyền lợi chung của gia đình. Lịch sử của một quốc
gia trong phạm vi quốc nội chẳng là gì khác hơn là lịch sử của những lần hòa giải
để đi đến hòa hợp giữa nhà cầm quyền và quần chúng trên căn bản thượng
tôn quyền lợi dân tộc. Nhà cầm quyền nào không thực tâm tôn trọng
nguyên tắc thượng tôn quyền lợi dân tộc, nhà cầm quyền đó không sớm thì muộn sẽ
bị lịch sử đào thải. Lịch sử của quốc gia trên bình diện quốc tế chẳng là gì
khác hơn là lịch sử của chiến tranh và hòa bình. Mỗi lần chiến tranh xảy ra giữa
hai hay nhiều quốc gia là mỗi lần quốc tế nỗ lực hòa giải các quốc gia lâm chiến,
để mọi quốc gia đều hòa hợp trong cộng đồng quốc tế trên căn bản hòa
bình và thịnh vượng chung của toàn nhân loại.
Thông
qua hình ảnh điển hình của hòa hợp hòa giải trong lịch sử, mọi người đều dễ
dàng đạt đến nhận định rằng: hòa hợp hòa giải chính danh bao giờ cũng đòi hỏi một
chân lý căn bản để trên đó, hòa hợp hòa giải được diễn ra. Trong phạm
vi sinh hoạt nội bộ tại Việt Nam ngày nay, chân lý căn bản của hòa hợp hòa giải
đương nhiên phải là tính thượng tôn dân tộc.
–
Hòa hợp hòa giải dứt khoát không thể là toàn dân đoàn kết sau lưng đảng CS
quang vinh.
–
Hòa hợp hòa giải không hề là đòi hỏi đảng CSVN hãy mị dân bằng các loại bánh vẽ
tự do dân chủ và đổi mới kinh tế nửa vời hoặc chiếu lệ.
–
Hòa hợp hòa giải đối với hiện tình lịch sử Việt Nam chỉ có thể là đảng CSVN hãy
qui thuận nhân dân, hãy trả lại cho nhân dân tất cả những gì thuộc về nhân dân,
nhất là hãy trả lại cho nhân dân quyền được trực tiếp cầm nắm tương lai của dân
tộc,bằng cách chỉ định một số công bộc được phép đứng lên thay mặt nhân dân để
điều hành guồng máy quốc gia. Nói một cách gãy gọn: đảng CSVN hãy trả lại cho
nhân dân VN quyền bầu cử phổ thông, kín và tự do, chữ tự do ở đây phải được hiểu
theo nghĩa nghiêm chỉnh nhất của luật pháp. Mặt khác, không thể có tự do bầu cử
nếu quyền tự do ứng cử bị hạn chế.
Nói
tóm lại, khởi đi từ khẩu hiệu “hòa hợp hòa giải” của CSVN, Đoàn Viết Hoạt dùng
lý luận khúc chiết và khoa học để biến khẩu hiệu đó thành tuyên ngôn đòi hỏi
toàn dân phải có quyền bầu cử và ứng cử. Không cần phải mất thời giờ suy nghĩ,
mọi người Việt Nam đều thừa hiểu là quyền tự do ứng cử, bầu cử của nhân dân và
quyền tự do dùng lá phiếu để truất phế độc tài CSVN chỉ là một. Vì vậy trong diễn
trình đấu tranh cho tự do dân chủ của Đoàn Viết Hoạt, người ta không hề thấy một
lần nào đó, Đoàn Viết Hoạt kêu gọi nhân dân hãy lật đổ bạo quyền Cộng sản hoặc
kêu gọi những người chống Cộng hãy triệt để “diệt Cộng”.
Mặc
dầu Đoàn Viết Hoạt đã chống đối bạo quyền một cách “tế nhị” như kể trên, ngày
17 tháng Mười Một năm 1990, Đoàn Viết Hoạt đã bị công an CS bắt giam lần thứ
hai. Theo một nguồn tin từ nhóm Diễn Đàn Tự Do tại Việt Nam, nhà cầm quyền CSVN
đã quyết định truy tố Đoàn Viết Hoạt về tội âm mưu lật đổ nhà cầm quyền CS trước
tòa án nhân dân của CS tại Sàigòn Ngày giờ đăng đường của vụ án sẽ được công bố
sau. Như vậy, không còn nghi ngờ gì nữa, tội “âm mưu lật đổ” nhà cầm quyền Cộng
sản của “bị can” Đoàn Viết Hoạt chính là “tội” do “bị can” đã “ủng hộ” khẩu hiệu
hòa hợp hòa giải của CSVN bằng cách mạnh mẽ yêu cầu nhà cầm quyền CS hãy trả lại
cho nhân dân Việt Nam quyền được sử dụng lá phiếu, để tuyển định các giới chức
giữ trọng trách quản trị xã hội.
Kể
từ sau khi Đoàn Viết Hoạt bị CSVN bắt giam, do nhu cầu bảo vệ an toàn cho các
anh chị em còn tiếp tục hoạt động bí mật, nhóm Diễn Đàn Tự Do quyết định giữ im
lặng đối với mọi tin tức có liên hệ đến vụ án Đoàn Viết Hoạt. Đến nay, giai đoạn
bảo toàn lực lượng đã kết thúc, nhóm Diễn Đàn Tự Do quyết định phổ biến toàn bộ
hoạt động đấu tranh của người sĩ phu họ Đoàn. Hành động phổ biến này nhằm
các chủ ý kể sau:
– Chủ ý một: Tố cáo trước dư luận quốc nội và quốc tế thái
độ xảo trá của CSVN qua việc bắt giam và truy tố một người không hề hoạt động lật
đổ nhà cầm quyền CS, Đoàn Viết Hoạt chỉ thực hiện khẩu hiệu “hòa hợp hòa giải”
của chính CS bằng cách kêu gọi nhà cầm quyền Việt Nam hãy trả lại cho nhân dân
Việt Nam quyền tự do bầu cử và ứng cử của họ. Phải chăng dưới mắt CSVN, hành động
vừa nêu của Đoàn Viết Hoạt là một trọng tội hình sự? Và phải chăng đó là “hình
sự quan” của những người văn minh, những người tự nhận là đang ngồi trên “đỉnh
cao trí tuệ của loài người?”
– Chủ
ý hai: vinh
danh Đoàn Viết Hoạt như một dũng sĩ trong cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ của
nhân dân VN. Thái độ vinh danh này không hề xuất phát từ tâm lý suy tôn cá
nhân. Vinh danh Đoàn Viết Hoạt chính là lời kêu gọi gián tiếp nhưng thiết tha rằng,
mọi người Việt Nam hãy kiên trì với công cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ trên
quê hương thân yêu, và rằng công cuộc đấu tranh này chắc chắn sẽ đi đến toàn thắng,
bởi lẽ tự do dân chủ là xu thế lịch sử của mọi dân tộc, và bởi lẽ kẻ nào, nhà cầm
quyền nào chống đối tự do dân chủ tức là kẻ đó, nhà cầm quyền đó tự biến sinh mệnh
chính trị của họ thành những phế vật mà lịch sử cần phải đào thải.
Trình
bày ý kiến vinh danh Đoàn Viết Hoạt sau khi người chiến sĩ dân chủ- nhân
quyền sĩ này bước vào khám Chí Hòa lần thứ hai, bài viết có ý muốn
gợi sự chú ý của người đọc về tập tục của một tôn giáo trong diễn trình đào tạo
giáo sĩ. Tập tục này đòi hỏi người theo tu học để trở thành giáo sĩ
phải trãi qua thời gian tu luyện thông thường là mười năm. Sau khi hoàn
tất lớp tu luyện năm thứ chin, mỗi đệ tử sẽ được tu viện cho phép xuất viện để
trở lại “sống với đời” trong vòng một năm. Trong một năm đó (gọi là năm thử
thách), người đệ tử “hồi tục” được phép nếm mùi trần tục trên bất kỳ địa bàn
nào, kể cả địa bàn tứ đổ tường. Hết hạn một năm thử thách, nếu đương sự tự ý
quyết định trở lại con đường tu luyện thì vị đệ tử đó sẽ được tu viện nhìn nhận
là người xứng đáng trở thành giáo sĩ về khả năng cũng như về đức hạnh.
Nếu
suy nghĩ về dòng sống của một dân tộc bằng ngôn ngữ tôn giáo, thì “Ái Quốc” là
Đạo Cả và mỗi người tận tụy phục vụ dân tộc là một giáo sĩ của Đạo Ái Quốc. Đối
với trường hợp của Đoàn Viết Hoạt, mười hai năm (từ 1976 đến 1988) tại khám Chí
Hòa chính là thời kỳ tu luyện đầu tiên của diễn trình đào tạo “giáo sĩ ái quốc”.
Thời gian từ 1988 đến 1990 hiển nhiên là hai năm thử thách dành cho Đoàn Viết
Hoạt. Trong hai năm thử thách, thay vì trùm chăn chờ thời, thay vì nạp đơn đi
HO hoặc ODP (Hoạt có hai con tại Hoa Kỳ) để được sống an vui với vợ hiền con thảo,
Đoàn Viết Hoạt điềm nhiên tiếp tục đấu tranh cho tự do dân chủ của nhân dân, đấu
tranh một cách rất nhã nhặn, mềm dẻo nhưng vô cùng kiên định trên lập trường
dân tộc.
Giai
đoạn thử thách của “giáo sĩ” Đoàn Viết Hoạt đã kết thúc ngày 16 tháng 11 năm
1990 bằng lệnh bắt giam của CSVN, đó là ngày Hoạt tự nguyện trở lại “tu viện”
Chí Hòa. Hẳn nhiên chẳng có người nào tự nguyện trở lại ngục tù, thế nhưng dưới
chế độ độc tài chuyên chế kiểu CSVN, người nào dấn thân vào con đường đấu tranh
chống bạo quyền, người đó kể như đã chấp nhận ngay từ đầu mọi khổ nạn của ngục
tù. “Chấp nhận ngay từ đầu”, chính là ý nghĩa của “tự nguyện”.
Với
tâm tư và trí dũng của một “giáo sĩ ái quốc” như đã trình bày ở trên, Đoàn Viết
Hoạt bao giờ cũng quyết tâm sống kề cận với nhân dân trong những hoàn cảnh khắc
nghiệt của lịch sử. Cuộc đời đấu tranh của Hoạt chẳng khác nào cuộc sống của
cây xương rồng. Xương rồng tồn tại trên cát khô và dưới ánh nắng rực lửa. Đoàn
Viết Hoạt đấu tranh cho tự do dân chủ ngay trong lòng của một chế độ hà khắc và
cực kỳ độc đoán. Ý nghĩ cho rằng xương rồng là một thách đố ngoạn mục đối với đất
đai và thời tiết khắc nghiệt chỉ là ý nghĩ “nhân cách hóa” cây xương rồng. Đoàn
Viết Hoạt là một loại xương rồng có tư tưởng. Sự việc xương rồng Đoàn Viết Hoạt
sau 12 năm ở tù, tạm ngưng ở tù hai năm, nay lại trở về với ngục tù là một
thách đố tích cực đối với bạo quyền CSVN. Thái độ thách đố này hàm ý rằng: Nếu
nắng gió của sa mạc không thể ngăn cản được sức sống của cây xương rồng thì
mọi mức độ độc tài áp bức của CSVN cũng không thể triệt tiêu được ý chí của
Đoàn Viết Hoạt trong đấu tranh cho tự do dân chủ của nhân dân VN. Đó là
chân ý nghĩa của câu chuyện “Đoàn Viết Hoạt: Người thực hiện sứ mệnh xương
rồng” vậy.