NHÂN
CUỘC TRANH LUẬN TRÊN FANPAGE CỦA SỨ QUÁN BA LAN
NHÂN CUỘC TRANH LUẬN TRÊN FANPAGE CỦA SỨ QUÁN BA LAN
Ngày 17/4/2025. In memory of "da
ge" Bich
Nguyen X
Ngày
hôm nay, nổi bật nhất là cuộc khẩu chiến trên Fanpage của một Sứ quán nước
ngoài tại Hà Nội, mà bởi ai – bởi những nhân viên chuyên trách… Facebook của Sứ
quán Ng@, chắc nhịn không nổi nhảy vào “đ.âm ch.ém.” Về hành động của họ, tôi
xin phép chút nữa sẽ bình luận sau.
Điểm
mà tôi chú ý là comment đấu khẩu của vài nhân viên nào đó từ Sứ quán Ng@, họ nhắc
đến “Hiệp ước Đức – Ba Lan 1934”. Về Hiệp ước này, tôi đã có bài từ năm 2008 về
nó, xin copy nguyên xi về đây:
Sự
kiện quan trọng nhất trong câu chuyện của chúng ta có lẽ là việc Hít-le và Đảng
quốc xã của y lên cầm quyền. Ngày 30 tháng Giêng năm 1933, Hít-le trở thành Thủ
tướng nước Đức. Thời điểm đó Chính phủ của y chỉ có thêm hai đảng viên Đảng quốc
xã là Goering và Frick Von Papen là phó Thủ tướng, ngoài ra còn có thêm Von
Neurath giữ chức ngoại trưởng. Nhưng nhanh chóng Hít-le đã biến Chính phủ của
mình thành Chính phủ độc tài, như chúng ta đã biết.
Thời
gian này cũng là thời kỳ của các Hiệp ước an ninh tập thể, hâu như là thất bại,
nhằm giảm đi cái vai trò vốn đã không mấy quan trọng của Hội quốc liên. Một
trong những ví dụ điển hình là việc Mút-xô-li-ni hô hào ký “Hiệp ước tay tư” giữa
Italia, Anh, Pháp và Đức, chủ yếu là nhằm điều chỉnh lại bản đồ châu Âu đang bất
lợi cho Italia và Đức. Nhưng vì sự quân phiệt hóa ngày càng rõ nét của hai nước
Italia và Đức, đồng thời các Chính phủ Tổng thống Dalalier (Pháp), Thủ tướng Mc
Donald (Anh), thì có những lợi ích riêng lẻ khác không hòa đồng được. Giữa Pháp
và Balan còn tồn tại Hiệp ước liên minh.
Ngày
19 tháng Mười năm 1934, Đức rút ra khỏi Hội quốc liên, đánh dấu bước đầu sự tan
rã của tổ chức này.
Đôi
điều về đại tá Beck. Ông sinh ngày 4 tháng Mười năm 1894 tại Vác-sa-va và chết
ngày 5 tháng Sáu năm 1944 tại Stăneşti, Rumani. Là quân nhân, sau này là nhà
ngoại giao kiêm chính khách, ông đã bỏ nhiều công sức trong việc đưa Balan có một
mối quan hệ đối ngoại mềm dẻo giữa hai thế lực là Đức và Liên Xô. Sau chiến
tranh thế giới lần thứ nhất, đại tá Beck là ủy viên Tổ chức quân sự Balan được
Pilsudski thành lập năm 1914. Trong năm 1924, ông đã hoạt động để Chính phủ của
Pilsudski được thành lập có quyền lực trên thực tế. Trong các năm từ 1926 –
1930 Beck làm việc tại Bộ ngoại giao Balan và từ năm 1930 đến 1932, là phó Thủ
tướng Balan, kiêm bộ trưởng Ngoại giao từ tháng Mười một năm 1932 và giữ cương
vị quan trọng đó trong Chính phủ Balan đến tận khi Chiến tranh thế giới lần thứ
2 bùng nổ. Ở Bộ ngoại giao, ông ta thay chân cho cựu bộ trưởng Zaleski, một người
thích các biện pháp phi dân chủ. Tuy nhiên, Beck lại luôn ngờ vực những chính
sách của người Pháp, nhất là thái độ không kiên quyết của họ thời Laval.
Một
trong những thắng lợi của Đức là việc ký kết một tuyên bố không xâm lược với
Balan ngày 26 tháng Giêng năm 1934, có giá trị trong mười năm. Beck, vốn bất
bình với “Hiệp ước tay tư” (gạt Balan ra ngoài không có quyền lợi gì), tìm cách
cân bằng giữa Đức và Liên Xô, bằng những việc tiếp xúc liên tục với lãnh đạo
các nước khác nhau, nhất là các cường quốc. Tháng Tư, và cả vào tháng Chạp năm
1933, ông ta đã bí mật đề nghị với Pháp một chiến dịch ngăn ngừa đánh vào chủ
nghĩa Hít-le. Khi bị Pháp từ chối, ông ta quay sang Đức và đề nghị ký với Đức một
Hiệp định. Trong năm 1933, có nhiều cuộc đụng độ quân sự nhỏ trong quan hệ Đức
– Balan, nhất là khi Balan tăng cường quân đội đồn trú ở bán đảo Westerplatte,
trên lãnh thổ Dantzig ngày 6 tháng Ba năm 1933. Ngày 4 tháng Năm năm 1933,
Hít-le tuyên bố với báo chí là đã có cuộc họp với công sứ Balan ở Béclin, ông
Wysoki, bạn thân của Đại sứ Pháp tại Đức, Francois – Poncet, vì thế bị coi là
thân Pháp. Sau đó, Lipski thay Wysoki tại Béclin.
Ngày
16 tháng Mười một năm 1933, Hít-le gặp Lipski, đã có một thông báo rằng hai bên
sẽ không sử dụng vũ lực trong mối quan hệ với nhau. Ngày 27 tháng đó, một dự án
Hiệp ước hòa bình được bộ trưởng Đức Von Molke trình cho nguyên soái Pilsudski.
Ngày 4 tháng Giêng năm 1934, Lipsky trình một bản dự án của Balan trả lời cho dự
án của Đức, mà chính những dự thảo dự án này đã được đại tá Beck trong khi đi
Genève đã rẽ qua Béclin ngày 13 tháng Giêng và có được những thỏa thuận bí mật
với Chính phủ quốc xã. Tại sao những thỏa thuận này cần bí mật? Đó là vì trong
nội bộ nước Đức có những thế lực Phổ căm ghét Balan, đồng thời thế lực Balan
thân Pháp còn mạnh. Thậm chí ngày 25 tháng Giêng (trước hôm ký Hiệp định một
ngày), Lipsky còn tuyên bố với đồng nghiệp Tiệp Khắc tại Đức, ông Mastny rằng
không đời nào có chuyện “ác” như vậy. Hòa ước được ký kết, tuyên bố “hai Chính
phủ muốn mở đầu một giai đoạn mới trong mối quan hệ chính trị hoàn toàn hòa
bình… hai Chính phủ sẽ tham khảo ý kiến của nhau và sẽ bao giờ sử dụng vũ lực
trong giải quyết những bất đồng”. Bản tuyên bố có giá trị trong 10 năm, và sẽ
không làm thay đổi hiệu lực của các Hiệp ước đã ký trước đây.
Trong
nội dung của Hiệp định không hề chống lại nước Pháp, nhưng rõ ràng với hoàn cảnh
của Balan, thì đó là một việc không khôn khéo. Về danh chính ngôn thuận, thì đó
là việc làm không “fair play” với đồng minh Pháp, dù là Pháp còn chưa quyết
đoán được chính sách với Đức. Đại sứ Pháp tại Đức Francois – Poncet nói: “Thái
độ của Balan đối với chúng tôi và nhất là thái độ của Đại tá Beck, bộ trưởng
ngoại giao Balan, không phải là thái độ của một người bạn, mà là của kẻ thù
đích thực”.
Như
vậy bằng Hiệp ước này, Balan đã đặt một chân vào thảm họa diệt vong.
Đầu
tiên xin nói rằng, tôi vốn là bò, bò đầu đàn luôn nhưng không đỏ lắm. Bài viết
trên tôi viết trong loạt bài “Bối cảnh lịch sử của vụ thảm sát Katyn” với bài mở
đầu ở đây, quý vị có thể theo link đọc tham khảo:
https://sergueikouzmic.blogspot.com/.../boi-canh-lich-su...
vì
vốn là bò, nên bản thân tôi hiện tại không quá ác ý với… bò, vì thật ra ai cũng
có thể có thời u mê, nhất là với chúng ta trải qua mấy chục năm “trăng Liên Xô
tròn hơn trăng nước Mỹ.” Vì vậy nếu chúng ta có nhìn thấy quá nhiều câu chửi bới
trong post trên đây của Sứ quán Ba Lan tại Hà Nội, cũng chỉ nên buồn một chút:
đúng là bò đích thực, vì hầu hết chúng cư xử vô học. Ngày xưa khi là bò đầu đàn
tôi cư xử tử tế hơn nhiều.
quay
lại với cái gọi là “Hiệp ước Đức – Ba Lan 1934” – mà chính xác ra phải gọi là
“Tuyên bố chung Đức – Ba Lan về không xâm lược (lẫn nhau)” được ký ngày
26/1/1934. Trong nghiên cứu trước đây của tôi, có một thiếu sót nghiêm trọng là
không nhìn nhận đúng mức quan hệ Pháp – Ba Lan trong giai đoạn “trước tuyên bố
chung 1934” và cả bối cảnh trước đó nữa của nó. Quý vị có thể đọc kỹ lại Phần 1
(link trên đây) của loạt bài tôi viết. Các điểm chính của nó là:
+
Thứ nhất. Cả Ng@ và Ba Lan sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, đều bận rộn
vì những vấn đề để lại của thời kỳ Sa Hoàng dù cách tiếp cận của mỗi bên là có
khác nhau. Ng@ phải đối mặt với nội chiến, bản thân với Ng@ thì việc nổi lên của
một nước Ba Lan độc lập (từ 1918) cũng là một diễn biến tương tự, gần như bộ phận,
phái sinh… của nội chiến mà thôi. Với những người Bolshevik Ng@, thì Ba Lan
cũng không khác gì Kolchak, Denikin – Vrangel… nhiều văn bản, văn kiện, tài liệu…
thậm chí tác phẩm văn học của Ng@ gọi lực lượng Ba Lan chống Bolshevik hồi đó
là “Bạch vệ Ba Lan”, điển hình nhất là “Thép đã tôi thế đấy” của N. Ostrovsky.
Bản chất trong vấn đề này là mong muốn giành độc lập của Ba Lan từ ách thực dân
của Ng@ Sa Hoàng.
+
Thứ hai. Ba Lan nhờ có sự suy yếu của nước Ng@ đang phải bận bịu với những “bọn
Bạch Vệ khác” nên đã giành được độc lập, nhờ sự giúp đỡ của Pháp (Tổng thống
lúc đó là Alexandre Millerand). Yêu sách của Ba Lan về lãnh thổ tuy không đạt
được (đã có lúc họ tiến đến sát Minsk và chiếm được Kyiv), nhưng ngay cả trò lá
mặt lá trái của người Anh với “đường biên giới Curzon” cũng không được đặt ra nữa.
Ba Lan chiếm được một diện tích đất nhất định của Belarus và Ukraine.
Như
vậy bối cảnh chung: chỗ dựa chính của Ba Lan vẫn là Pháp. Đến cuối thập niên
1920, thái độ của Pháp thay đổi thấy rõ: việc xây dựng phòng tuyến Maginot cho
thấy chiến lược chống Đức của họ là “phòng thủ nghiêm ngặt” và điều này một
cách logic sẽ dẫn tới việc Pháp sẽ bỏ mặc các đồng minh ở phía Đông (Tiệp Khắc,
Ba Lan…) cho Đức. Một số nhà sử học suy đoán rằng Piłsudski có thể đã thăm dò
Pháp về khả năng hành động quân sự chung chống lại Đức, quốc gia đã công khai
tái vũ trang vi phạm Hiệp ước Versailles. Việc Pháp từ chối có thể là một trong
những lý do khiến Ba Lan ký tuyên bố không xâm lược.
Trong
thập niên 1920 có nhiều ý kiến trong giới quân sự Pháp đề nghị tính chất một cuộc
tấn công vào Đồng bằng Bắc Đức, kết hợp với các cuộc tấn công từ Ba Lan và Tiệp
Khắc. Việc xây dựng Phòng tuyến Maginot bắt đầu vào năm 1929 dẫn tới việc định
hình quan điểm của Piłsudski. Xét theo các kế hoạch quân sự này của Pháp, một
tuyên bố không xâm lược với Đức sẽ là lựa chọn tốt nhất cho Ba Lan.
Vậy
câu chuyện của năm 2025 là gì?
Đầu
tiên, phải nói rằng có sự khới cái “Tuyên bố 1934” này lên, mà từ ai, từ người
Ng@. Trên một trang là “The International Affair” (dot ru, đương nhiên là vậy -
ảnh chụp màn hình) vào cuối năm 2022 xuất hiện một bài chỉ trích những người Ba
Lan về Tuyên bố này, với mục đích (1) khỏa lấp sự xấu hổ về Hiệp ước bất tương
xâm Molotov – Ribbentrop (2) ngụy biện rằng Ba Lan mới là bên bắt tay với Đức
quốc xã trước và sau đó trở thành nạn nhân đầu tiên của chiến tranh thế giới lần
thứ hai là đáng đời (3) từ đó coi Ba Lan là phát-xít, người được Ba Lan giúp đỡ
ở thời điểm hiện tại là phát-xít để biện minh cho cuộc chiến tranh xâm lược của
Putler vào Ukraine năm 2022.
Đương
nhiên, những nhân viên này của Sứ quán Ng@ tại Hà Nội “khôn” – nhưng không
“ngoan.” Viện dẫn ra “Tuyên bố 1934 Đức – Ba Lan” (coi đó là tương đương về mọi
mặt với Hiệp ước bất tương xâm Molotov – Ribbentrop, nhưng “phản động” ở chỗ nó
được ký kết trước những 5 năm) và lờ đi việc tất cả thế giới này đều biết: hiệu
quả của hai văn bản đã được ký kết là hoàn toàn khác nhau.
Trong
bài báo trên đây, các tác giả của nó đã cố gài vào trong đó những chi tiết như
“có nhiều người (trong quân đội) Ba Lan mong muốn chia cắt nước Ng@” “mong muốn
thấy duyệt binh chung Đức – Ba Lan trên quảng trường Đỏ”… mà không đưa ra bất cứ
chứng cứ nào là ai nói, trong điều kiện hoàn cảnh nào… Cụ thể:
#trích
“Cả giới lãnh đạo Ba Lan và Đức đều có yêu sách lãnh thổ đối với Tiệp Khắc và
tìm cách phá vỡ nước này. Berlin và Warsaw cũng có những kế hoạch sâu rộng đối
với Liên Xô”, nhà sử học Nikolay Ponomarev, cộng sự nghiên cứu tại Bảo tàng Chiến
thắng, cho biết trong một cuộc phỏng vấn với RT.
Theo
chuyên gia này, khi căng thẳng gia tăng giữa Nhật Bản và Liên Xô trong giai đoạn
1933-1935, Đức và Ba Lan bắt đầu thảo luận về khả năng phát động một cuộc tấn
công chung vào Liên Xô. Nhà sử học Vadim Trukhachev cũng nói với RT rằng “nhiều
chính trị gia Ba Lan công khai mơ về một cuộc diễu hành chung của Ba Lan và Đức
Quốc xã tại Quảng trường Đỏ”.” #hết_trích
Trong
bài báo này, các tác giả của nó còn vu khống Ba Lan một cách trắng trợn hơn nữa,
khi viết:
#trích
“Quan hệ đối tác Đức-Ba Lan này đạt đến đỉnh cao vào năm 1938. Vào tháng 5, Đức
đã có động thái sáp nhập vùng Sudetenland của Tiệp Khắc. Praha tuyên bố động
viên một phần và Liên Xô, bị ràng buộc bởi hiệp ước hỗ trợ lẫn nhau với Tiệp Khắc,
đã cam kết hỗ trợ đồng minh của mình. Tuy nhiên, Ba Lan tuyên bố sẽ tuyên chiến
với Liên Xô nếu Hồng quân cố gắng hỗ trợ Praha.” #hết_trích
Về
chi tiết này, khi còn là bò đầu đàn tôi viết:
#trích
“Ngày 12 tháng Năm năm 1938, ngoại trưởng Pháp Bonnet xin gặp Bộ trưởng dân ủy
ngoại giao Liên Xô Lítvinốp ở Giơnevơ (Genève). Chính phủ Liên Xô tuyên bố sẵn
sàng giúp đỡ nước Tiệp Khắc nếu như Balan và Rumani đồng ý để cho Hồng quân
Liên Xô đi qua lãnh thổ của mình. Nhưng Balan đang thi hành một chính sách ngoại
giao hết sức liều mạng và nguy hiểm, là chọn phương án đối đầu cả Liên Xô và Đức,
trong khi vẫn đang hy vọng vào sự bảo trợ của nước Pháp, là nước mà dần dần người
ta sẽ thấy, bảo vệ chính mình còn chưa xong. Quan trọng hơn cả là họ đang bất
hòa với Tiệp Khắc. Còn Rumani, vẫn đang lo lắng về vùng Bétxarabi (năm 1940 bị
cắt về lãnh thổ Mônđavi xô-viết). Trên thực tế, nước Rumani có thể cho quân
Liên Xô đi qua nhưng họ chỉ có duy nhất một con đường sắt rất tồi, và họ cho
phép máy bay Liên Xô bay qua vùng trời của mình sang Tiệp. Trên thực tế, Liên
Xô biết rõ tình thế đó và rõ ràng đây là nước cờ “tuyên bố nhưng không hành động”
khá rõ nét. Tuy nhiên trên thực tế, trong thời gian diễn ra Hội nghị Munich đã
có 200 máy bay chiến đấu Liên Xô có mặt trên đất Tiệp Khắc, cũng không thể phủ
nhận hoàn toàn những hành động cụ thể của Chính phủ Liên Xô trong tình thế ai
cũng phải đi trên dây trong giai đoạn này.” #hết_trích
Vậy
đấy, ngay cả khi còn là bò, tôi cũng đã viết rất rõ: Liên Xô biết rõ là sẽ
không được Ba Lan cho Hồng quân đi qua lãnh thổ để cứu Tiệp Khắc, còn với
Romania thì chỉ là ‘có thể’ và dừng lại ở “cho máy bay Liên Xô bay qua không phận”
mà thôi. Và tôi còn đánh giá đủ khách quan: chính sách của Ba Lan là nguy hiểm
vì đối đầu cả Đức lẫn Liên Xô.
Đến
đây thì quý bạn đọc đã thấy khác nhau cơ bản của hai Hiệp ước bất tương xâm: với
Ba Lan khi ký kết với Đức là trong hoàn cảnh tình thế đang bị nguy hiểm do đồng
minh quay lưng và sau đó, họ không xâm lược ai. Còn với Liên Xô – mặc dù sau
này các nhà sử học Xô-viết giải thích là “cần tranh thủ thời gian để tự trang bị
trước cuộc chiến tranh tiềm tàng với Đức quốc xã” nhưng thực chất, là sự bắt
tay của hai con quỷ: Hitler và Stalin mà hậu quả của nó là việc cả Đức lẫn Liên
Xô xâm lược, chia Ba Lan ra làm đôi và xóa sổ đất nước này trên bản đồ thế giới.
Gần
100 năm đã qua từ những sự kiện đó, nhưng đến nay có rất nhiều điều khác biệt,
cũng như có những điều chẳng thay đổi gì cả. Chẳng hạn như vấn đề Bandera, ông ấy
bị coi là phát-xít, từ đó Ng@ tuyên truyền rằng Ukraine tôn vinh Bandera cũng
là phát-xít. Trong cuộc khẩu chiến trên Fanpage của Sứ quán Ba Lan, có rất nhiều
tài khoản dư luận viên xứ Nam Quảng Tây cũng chửi người Ba Lan là cùng tôn vinh
Bandera (“trong khi ông ta thảm sát người Ba Lan ở Volhynia”… - chúng nói thế).
Đây
là một câu chuyện có lẽ với nhiều người là khó hiểu, nhưng thực chất nó nằm
trong một câu chuyện lớn hơn: mong muốn thoát Ng@ của rất nhiều dân tộc xung
quanh cái đất nước kỳ dị này. Bandera là một trong số những người đó. Là người
theo chủ nghĩa dân tộc, Bandera chống cả Ba Lan, Đức lẫn Ng@. Đó là bối cảnh của
thảm sát Volhynia đối với những người Ukraine gốc Ba Lan ở miền tây nước này
trong giai đoạn Đức chiếm đóng Ukraine. Khi Đức quốc xã xâm lược Liên Xô, ông
này cùng những cộng sự của mình lại cộng tác với Đức với hi vọng ngây thơ là
Ukraine giành được độc lập. Người Ng@, không chỉ Bandera mà với đa số dân tộc
Ukraine, những gì mà Liên Xô làm gây ra nạn đói cũng là những vết thương khó
lành.
Cá
nhân tôi thì không ủng hộ những xu hướng dân tộc chủ nghĩa, khi nó kết hợp với
tư tưởng sẵn sàng sử dụng bạo lực thì chính là chủ nghĩa phát-xít. Do vậy với
tôi, Bandera vẫn là phát-xít. Nhưng cũng cần phải nhìn ngược lại cho rõ: hiện
nay người ta vẫn chỉ trích Ba Lan khi xâm lược Belarus và Ukraine vào những năm
1920 – nhưng lại giấu đi những chi tiết khác. Ukraine được độc lập năm 1918, chỉ
một thời gian ngắn rồi sau đó chính quyền này bị người Bolshevik tấn công, tiêu
diệt. Vì vậy sau đó người Ba Lan tấn công vào Belarus và Ukraine thực chất là tấn
công vào Liên Xô để đòi lại quyền lợi, ví dụ vùng đất Wolyn và Đông Galacia mà
họ vẫn coi là của họ, bị chính quyền Xô-viết chiếm đoạt từ sau Cách mạng tháng
Mười.
KẾT LUẬN
Đến
đây, chúng ta có thể đóng bài này lại được rồi. Như vậy thời đó đã có ít nhất
hai Hiệp ước bất tương xâm ký với Hitler, một của Ba Lan và một của Liên Xô.
Câu chuyện “sẽ chỉ có thế” nếu như Liên Xô không xâm lược Ba Lan. Mặc dù sau
này giới sử học Xô-viết thường biện minh là “có mục đích tạo vùng đệm đẩy biên
giới ra xa” nhưng thực chất hành động này dẫn đến một sự Ô NHỤC không bao giờ
có thể gột rửa được.
Cần
khẳng định rằng, cùng với nước Đức phát-xít, Liên Xô cũng đã nổ súng mở màn cho
cuộc Đại chiến thế giới, vì vậy quốc gia này KHÔNG VÔ CAN.
Tất
nhiên, một cách công bằng và khách quan thì cần xác định NGUYÊN NHÂN của cuộc Đại
chiến này có rất nhiều, nhưng nguyên nhân chính là chủ nghĩa phát-xít cầm đầu
là nước Đức quốc xã, không ai nghi ngờ. Sau đó là những chính sách ỡm ờ, hèn mạt
(như của Pháp) đểu giả (Anh, Liên Xô)… Cũng đã có rất nhiều cố gắng để ngăn chặn
chiến tranh, như của ông Louis Barthou… nhưng vô tác dụng (một phần vì ông ấy đột
tử) – tất cả các nỗ lực đã đi theo các hướng khác nhau vì lợi ích riêng của quốc
gia mình, nhưng tình cờ nó kéo xu thế chung đi theo một hướng bi thảm duy nhất:
chiến tranh.
Nhưng
như tôi vừa viết, nỗi Ô NHỤC thì còn nguyên, vì Liên Xô của Stalin là nước cùng
nổ súng với Đức phát-xít của Hitler.
Câu
chuyện của ngày hôm nay là, người Ba Lan và người Ukraine đã nhận ra mục đích,
mong ước chung là thoát Ng@, kẻ thù chung là chủ nghĩa sô-vanh Đại Ng@. Trong
khi đó, rất nhiều người Ng@ lại không thoát ra được khỏi chủ nghĩa phát-xít mới
của Putler.
Hãy
nhìn lại mà xem, khi trên Fanpage của Sứ quán Ba Lan ai đó nhắc đến Hiệp ước bất
tương xâm Molotov – Ribbentrop thì nhiều người Ng@ nhảy lên cồ cồ – cụ thể ở
đây là mấy nhân viên nào đó của Sứ quán Ng@ ở Hà Nội. Họ bị chạm nọc, bị đụng
vào nỗi Ô NHỤC. Xin nhắc lại trong những năm cuối đời của mình, Stalin không
cho tổ chức lễ kỷ niệm Chiến thắng 9/5, vì nhiều lý do: những sai lầm của ông
ta khi tin rằng Hitler sau khi chia đôi Ba Lan với ông ta, sẽ quay sang tấn
công Pháp (có chuyện này) rồi đến nước Anh, nôm na là để cho Liên Xô của ông ta
được yên, từ đó Liên Xô bị tấn công bất ngờ dẫn đến những tổn thất rất lớn; cái
gọi là “chiến thắng” của Liên Xô, thực chất là “máu của Hồng quân” kết hợp với
“thép của Mỹ”; cái giá phải trả về nhân mạng quá lớn, số lượng thương binh què
quặt khắp Liên Xô là quá nhiều… Hóa ra Stalin còn liêm sỉ hơn Putler.
Như
tôi đã viết nhiều lần: từ 2007 trở đi, Putler quay lưng lại với xu thế cộng tác
với phương Tây mà dần dần trở nên đối đầu, và hắn lôi cuộc Chiến tranh Vệ quốc
ra làm mồi nhử, làm khẩu hiệu kích động người Ng@ để chống phương Tây, mà hắn gọi
là “chống phát-xít.” Khi đó tôi nói: thôi xong rồi, người Ng@ khổ rồi. 15 năm nữa
Putler sẽ gây ra một cuộc chiến tranh.
Chúng
ta, những người văn minh và hiểu biết sẽ không phủ nhận công lao của người lính
Hồng quân Xô-viết đã đóng góp vào công cuộc tiêu diệt chủ nghĩa phát-xít, nhưng
chúng ta cũng cần phải công bằng với lịch sử. Cách đây gần 3 năm, nhân kỷ niệm
77 năm chiến thắng phát-xít, tôi viết tại đây:
https://www.facebook.com/phuc.lai.07/posts/675808360173891
trong
đó có câu: “Với tất cả những gì Putler đã làm trong hơn một thập kỷ qua, đỉnh
cao là cuộc chiến tranh lần này, không phải ai khác chính ông ta là người có tội
với thanh danh người lính Hồng quân, với máu xương của họ đã đổ xuống ướt đẫm
tuyết trắng Mátxcơva, Stalingrad đến từng viên gạch thành Kyiv, đổ xuống bên bờ
sông Oder và cuối cùng là từng viên đá của thành phố Berlin.”
Rồi
Putler sẽ phải chịu sự phán xét của lịch sử vì những trò ác quỷ của mình. Còn với
mấy người, những nhân viên sứ quán Ng@, tỉnh lại đi, đừng vì việc làm, miếng
cơm manh áo mà đánh đổi lấy cả đạo đức của mình.
HÌNH
:
https://www.facebook.com/photo?fbid=1305218000566254&set=pcb.1305217550566299
https://www.facebook.com/photo?fbid=1305218153899572&set=pcb.1305217550566299
No comments:
Post a Comment