40
NĂM PHIM “HÀ NỘI TRONG MẮT AI"
https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=1434052997055296&id=100013518285955
MVT - Ông bạn Trần Văn Thuỷ đau yếu dài dài, mà lúc
nào hỏi thăm cũng bảo: Buồn lắm, bao nhiêu chuyện… bây giờ tôi chả làm được gì!
Tôi bảo, ông đã có phim “Những người dân quê
tôi", “Phản bội", “Hà Nội trong mắt ai", “Chuyện Tử tế" và
hàng chục phim khác để đời, lại thêm cuốn “Chuyện Nghề của Thuỷ", vậy là
quá đủ rồi…
Lão Thuỷ bảo, ờ nhỉ, loáng cái đã 40 năm “Hà Nội
trong mắt ai" rồi! Ngày ấy không thể hiểu, tại sao mình đem hết tâm huyết
chuyển tải những thông điệp của cha ông, chỉ mong chính quyền này học lấy cách
trị nước an dân của tiền nhân để mở mày, mở mặt ra… Vậy mà bị hành lên bờ xuống
ruộng, khốn khổ, khốn nạn…May mà còn sống đến hôm nay!
Ông bạn ơi, bây giờ vẫn vậy, TẤT CẢ LÀ TỪ ĐÁM
TƯ TƯỞNG, TUYÊN HUẤN! Xem “Chuyện nghề của Thuỷ"
thì rõ. Xin lẩy ra 2 đoạn.
============
Đoạn 1:
TẠI SAO LẠI
“HÀ NỘI TRONG MẮT AI”? ĐỘNG CƠ GÌ? MỤC ĐÍCH GÌ?
Sau khi phim “Phản Bội” gây chấn động và đoạt
Giải Vàng 1980, Thủy chẳng biết làm cái gì tiếp theo.
Đề tài trên đưa xuống vẫn là những chuyện
"Cúng cụ". Làm tiếp cái gì đây khi mà "Phản Bội" đã là một
cột mốc khó vượt qua ? Năm 1981 Thủy lang thang, vật vờ, cuối năm bình bầu, Thủy
chả được “tiến tiến” hay “hoàn thành nhiệm vụ” đã đành mà còn bị xếp loại lao động
“kém”!
Năm 1982, Thủy chơi dài cũng chán, nên chủ động
đề nghị “trên” giao cho làm phim gì, đề tài gì cũng được...miễn là có phim, cuối
năm đỡ rắc rối về "Năng suất lao động". Rồi tình cờ được giao làm
phim “Hà Nội năm Cửa ô” - một loại phim quảng bá cho khách du lịch về Hà Nội...
Và từ đó sinh ra lắm chuyện LẠ.
Từ “Hà Nội năm cửa ô” sao lại thành “Hà Nội
trong mắt ai”?
Kể như người dễ tính, hồn nhiên thì làm phim
“Hà Nội năm cửa ô” ngon lành, nhoáng cái là xong, khéo còn được khen “hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ”!...
Nhưng khốn nỗi “máu nghệ sĩ”, của Thủy lại
không cho phép làm như vậy. Thủy lang thang, lần mò qua các Cửa ô, các di tích
lịch sử, suy tưởng mung lung, quan sát phố phường...
Thuỷ kể:
“Hàng tháng trời tôi lang thang vào các đền
chùa, điện Huy Văn, gọi là điện thì thật là tội nghiệp, chùa Bộc, đền Quan
Thánh, nhà thờ Nguyễn Trãi, nhà thờ Chu Văn An, nhà thờ Ngô Thời Nhậm, Văn Miếu,
mộ nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, dấu xưa của Bà Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương... Cả
tháng trời tôi lần mò đọc sách ở Thư viện Quốc Gia, Thư viện Hà Nội, Thư viện
Khoa học; tìm gặp các nhà nghiên cứu như ông Nguyễn Vinh Phúc, ông Trần Huy Bá
(ông Bá là anh em thúc bá với sử gia Trần Huy Liệu)...
Có lúc bỗng như bừng tỉnh, tôi tự hỏi, tôi
đang làm gì thế này? Quên béng rằng công việc trước mắt của tôi là làm phim chứ
không phải tìm đọc lan man như thế.
Tất cả những gì làm nên sự tích của các bậc
tiên liệt tôi sưu tầm được, học hỏi được đều ám ảnh tôi, lôi cuốn tôi. Đêm ngày
tôi sống với những chuyện ấy, bị hút hồn vào những chuyện ấy. Tôi bàng hoàng và
mặc cảm, thì ra trước đây tôi chẳng hiểu gì về Hà Nội cả. Tôi thấy ngàn lần có
lỗi với tiền nhân vì không ý thức được rằng cha ông ta đã dày công như thế nào,
đã hoài vọng như thế nào đối với hậu thế”...
“Thôi thì đằng nào cũng nhận làm rồi. Cũng tiền
của ấy, công sức ấy, thời gian ấy, cũng vẫn đề tài Hà Nội nhưng làm khác đi về
nội dung, về hồn cốt. “Hà Nội Năm Cửa Ô” là Hà Nội cho quảng bá du lịch. “Hà Nội
Trong Mắt Ai” là Hà Nội tư tưởng, Hà Nội cho cách thức trị nước yên dân. Trước
khi khởi quay, tôi bỏ thời gian lấy giấy bút ra làm rất kỹ cái việc “kê đơn bốc
thuốc”, nghĩa là xã hội đương thời có những khuyết tật gì, bệnh hoạn gì cần điều
trị, tôi ghi ra theo cách gạch đầu dòng để khi trích các tích tuồng của lịch sử
trong quá vãng mà có thể khiến người ta liên tưởng, người ta giật mình, người
ta ngẫm nghĩ thì tôi tương vào”...
2. Thế lực nào xúi giục, đứng sau “Hà Nội trong mắt
ai”?
Sau khi hoàn thành, “Hà Nội trong mắt ai” đưa
duyệt, cấp trên đập bàn: Ai chủ trương làm phim này? Nhưng chiếu thử ở một số
cơ quan, đơn vị, lại gây tiếng vang. Đa số thấy hay quá, tán thưởng, nhưng một
số, nhất là bên Tuyên huấn, cụ thể là các ông Hoàng Tùng, Hà Xuân Trường, Văn
Phác bị sốc. (Sau này Thủy mới biết, các ông "bị sốc" cũng là theo lệnh
của cấp trên các ông). Phim bị cấm chiếu và Thủy bắt đầu bị nghi vấn: “Có thế lực
nào đứng sau”, có “ai xúi giục, kích động không”? “Phim làm với động cơ, mục
đích gì”?...
Thủy nhớ lại:
“Khốn nạn quá! Cái chữ “xưa” sau này làm mình
điêu đứng. Người ta thẩm vấn: Thế thì tại sao không phải thời phong kiến mà lại
là thời phong kiến xưa? Anh nói như thế là có thời phong kiến nay à? Rồi thì
“Lê mạt là Lê nào?”
Thủy kể: “1983, 1984, 1985, 1986... tôi không
còn cái gì nữa. Kể cả điều kiện làm việc cho đến “miếng cơm manh áo”, tất tật.
Vợ tôi bảo tôi điên, bạn bè cũng nói vậy, nhưng khổ nhất là sự cô đơn”...
Khi bị truy hỏi, Thủy luôn khẳng định với cơ
quan công an và những người có trách nhiệm rằng:
- “Kịch bản “Hà Nội Năm Cửa Ô” chỉ là cái cớ để
tôi khởi đầu, để tôi có người cộng sự, có máy móc, có phim nhựa, nó không có
liên quan gì đến hồn cốt của “Hà Nội Trong Mắt Ai” cả.
- Nội dung “Hà Nội Trong Mắt Ai”, tức là cái kịch
bản đích thực để làm phim là do chính tôi viết, tôi thực hiện, tôi chịu trách
nhiệm.
- Khi phim dựng xong, cái tên phim “Hà Nội
Trong Mắt Ai” do tôi đặt và toàn bộ lời bình cũng do tôi viết.
Tôi không thể đổ sự phiền lụy cho ai và càng
không thể bịa ra rằng ai đã xúi bẩy tôi trong công việc này”...
...Hàng ngày Thủy tìm đến những nơi từng quay
bộ phim này để suy ngẫm, thắp hương và khấn thầm: “Thưa các bậc tiên liệt, con
có tội tình gì không? Bộ phim chỉ nói về sự anh minh của các vị, lẽ nào lại bị
đổ”...
Sao lúc ấy Thủy không khai với An ninh và
Tuyên giáo: Chính các vị Tiên liệt đã xui khiến, kích động tôi làm bộ phim này!
He he!
3. Tại sao phim không sửa được?
Thủy “kêu” với các vị chức sắc: Xin các anh chỉ
bảo cho những chỗ không phải, những chỗ sai để chúng tôi sửa. Ít nhất thì các
anh cũng phải chiếu cho anh chị em trong hãng, trong Cục Điện ảnh, Xưởng phim bạn,
cho các Hội văn học, nghệ thuật để người ta góp ý...
Xem phim xong, nhiều người thốt lên: “Sao cái
phim như thế này lại bị cấm?”. Không ai, kể cả các vị bên Viện Triết, Viện Sử,
Viện Văn, Viện Hán Nôm... đều tán thành nội dung cuốn phim. Ban giám đốc hãng
“kính chuyển” ý kiến này lên những người “cầm cân nảy mực”. Họ đồng ý cho sửa bộ
phim, nhưng khi hỏi “cần sửa chỗ nào” thì một vị nói gọn lỏn: “Bộ phim này sai
đến mức không thể sửa được”! Và có lệnh bất thành văn từ đâu đó: “Không được
chiếu bộ phim này dưới bất kỳ hình thức nào!”.
Tại sao lại không thể sửa được? Vì sửa sao được
những bằng chứng lịch sử của tiền nhân! Sửa sao được các Danh ngôn của các Danh
nhân? Vì phim toàn nói đúng sự thật, thì sửa sao được SỰ THẬT.
Đây là vài ví dụ từ Phim:
- ... “nơi vườn hoa Cửa Nam bây giờ, năm 1491,
Lê Thánh Tông đã cho dựng đình Quảng Văn, trong đình đặt trống Đăng Văn để ai
có điều gì oan khuất, hết nơi bày tỏ, đến đây đánh lên ba hồi trống, nội quan
ra nhận đơn và nhà vua sẽ xét xử.
Luận về các thời phong kiến xưa, các sử gia
góp rằng “giá như thời hậu Trần hay thời Lê mạt mà đặt trống Đăng Văn ở đây thì
dân chúng quanh vùng sẽ phải đinh tai nhức óc”...
“Khéo thay 38 năm Lê Thánh Tông cầm quyền lại
là một giai đoạn cực thịnh của đất nước. Vua hiền, tôi giỏi, tỏ rõ cái tài coi
sóc trăm họ của một người công minh”...
Có phải A-bu-ta-líp đã nói với chúng ta rằng:
“Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì
tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác”.
- “3 lần ra Thăng Long, lần nào cũng kinh
thiên động địa. Đâu đó như còn vang vọng lời Quang Trung hào hùng lệnh cho tướng
sĩ:
“Đánh cho nó tan tành xe pháo;
đánh cho nó mảnh giáp sạch không;
đánh cho nó biết nước Nam anh hùng có chủ...”
“Ngôi chùa này - chùa Bộc nằm ngay trên chiến
trường cũ của vua Quang Trung. Một tấm bia trong chùa còn ghi rằng: “Khoảnh dĩ
binh tai chi hậu chuyển nhỡn thành không”; nghĩa là: Sau trận hỏa công chớp mắt
tan ra mây khói.
Trong chùa này chứa đựng một chân lý vĩnh hằng.
Đó
là Lòng Dân.
Ngay dưới thời nhà Nguyễn chống Tây Sơn, dân
chúng vẫn dựng tượng Quang Trung, tôn thờ người anh hùng áo vải mà tấm lòng bao
dung quảng đại còn lớn hơn cả uy vũ vốn đã rất lẫy lừng...
... “Phải chăng vì thế từ năm Bính Ngọ, trong
lúc mọi di chỉ Quang Trung đều bị nhà Nguyễn thù hận đốt phá tan tành nhưng dân
chúng vẫn dựng tượng Quang Trung. Dòng chữ “Bính Ngọ tạo Quang Trung tượng” được
tạc kín đáo ở phía sau chân tượng. Phải chăng vì thế mà phía trên đầu Quang
Trung không thờ chữ Dũng, chữ Vũ, chữ Uy, chữ Linh mà rực rỡ chỉ một chữ Tâm”.
- Chuyện kể rằng: Hồi cuối Lê, Quang Trung
Nguyễn Huệ sau khi diệt Trịnh đã đến thăm vua Lê Cảnh Hưng. Ông vua già mất quyền
đã lâu, quan văn quan võ thưa thớt, nay Bắc Bình Vương đường hoàng bước lên thềm
rồng, lưng đeo kiếm, mọi người xanh mắt sợ... Chỉ có một mình Phương Đình Pháp
tiến ra, lễ phép nhưng dõng dạc nói: “Thưa tướng quân, phép nước lên điện không
được đem vũ khí, xin tướng quân cởi kiếm!” Nguyễn Huệ trừng mắt, nhưng Pháp vẫn
điềm nhiên. Chợt nghĩ phải, Nguyễn Huệ thản nhiên trao kiếm cho Pháp”...
(Lời bình có tiếng vọng (echo) vang lên trang
nghiêm và đĩnh đạc): “Trong mắt Quang Trung lúc bấy
giờ, quốc gia chỉ có thể trường tồn, xã tắc chỉ có thể hưng thịnh khi kẻ thường
dân dám nói với bề trên điều ngay thẳng và người có quyền uy phải biết nghe kẻ
dưới nói điều phải trái”.
- Sử viết rằng: Mùa xuân năm Bính Thân 1416 ở
Lũng Nhai, Lam Sơn, Lê Lợi cho lập đàn cao một trượng rồi cùng Phạm Văn Xảo, Trần
Nguyên Hãn, Nguyễn Trãi và các nghĩa sĩ làm lễ tế trời đất, kết nghĩa ăn thề
nguyện đồng cam cộng khổ, sống chết có nhau trừ ngoại xâm cứu trăm họ. Lúc ấy
Lê Lợi chân thành nói:
“Ta là người mặc áo vải chuyên nghề cày cấy
nay vì trừ bạo mà nổi binh, lòng không nghĩ đến việc xưng vương xưng bá ”.
Bia Vĩnh Lăng được dựng lên để ghi công lao to
lớn của Lê Lợi, Nguyễn Trãi và nghĩa quân Lam Sơn, nhưng không thấy trên bia
ghi câu nói trên; cũng không thấy ghi rằng năm 1429 vì ngờ vực mà Lê Lợi đã sai
giết Phạm Văn Xảo; sai 42 lực sĩ về trại Sơn Đông nơi Trần Nguyên Hãn cáo quan ở
ẩn, bắt Hãn về kinh trị tội. Dọc đường Hãn đã nhảy xuống sông tự vẫn. Cũng
không thấy ghi rằng chính Lê Lợi đã sai bắt Nguyễn Trãi, tước hết quan chức và
tống ngục...
... “Mười năm nằm gai nếm mật với nhau là thế”!
- Với vua Lê, Nguyễn Trãi vẫn tha thiết:
“...Nguyện xin bệ hạ thương yêu nuôi dưỡng lấy dân chúng, khiến cho trong xóm
ngoài làng không còn tiếng oán hận sầu than. Đó chính là cái gốc của quốc nhạc
vậy... Thương yêu dân chúng hãy làm những việc nhân đức. Đừng vì ơn riêng mà
thưởng bậy, chớ vì mình giận mà phạt bừa. Đừng thích tiền của mà xa xỉ. Có thế
quốc gia mới yên ổn bền vững lâu dài được.”
Thờ chữ Tâm trong lòng và ngòi bút dám viết
lên trời xanh những điều trung thực, Nguyễn Trãi ghi: “Trời không che riêng ai;
đất không chở riêng ai. Mến người có nhân là dân, mà người chở thuyền lật thuyền
cũng là dân.”
Trong “Quân Trung Từ Mệnh Tập”, Nguyễn Trãi viết:
“Lẽ thành bại và sự hưng vong của một quốc gia có liên quan mật thiết tới nỗi
vui buồn của người dân.”
- Phải chăng Nguyễn Trãi đã kế thừa tinh thần
của Trần Thủ Độ, vị khai quốc công thần đời Trần. Độ nói: “Phàm đã làm vua trong thiên hạ
phải biết lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, phải biết lấy tấm lòng của
thiên hạ làm tấm lòng của mình.”
Phải chăng Nguyễn Trãi đã kế thừa lời trăng trối
của Trần Hưng Đạo với vua Trần Anh Tông. Khi Anh Tông vào hỏi kế giữ nước nếu
giặc phương Bắc xâm lấn: “Khoan sức dân làm kế sâu gốc bền rễ, lẽ đó là thượng
sách để giữ nước.”
-...Tô Hiến Thành là người Hạ Mỗ, Đan Phượng,
ngoại thành Hà Nội. Cuối đời bệnh nặng, có viên tham tri chính sự trong triều
là Võ Tán Đường ngày đêm chăm sóc thuốc men; còn quan gián nghị đại phu Trần
Trung Tá bận việc triều chính thì ít đến. Khi ông sắp mất, hoàng thái hậu mới hỏi
ông rằng:
- Thưa tướng công, chẳng may một mai tướng
công qua đời lấy ai nối nghiệp?
Không đắn đo, ông trả lời:
- Gián nghị đại phu Trần Trung Tá.
Thái hậu rất ngạc nhiên mà rằng:
- Võ Tán Đường mới là người hết lòng phục dịch
tướng công, cớ sao tướng công không tiến cử lại lại tiến cử Trần Trung Tá là
người ít chăm lo đến tướng công?
Tô Hiến Thành nghĩ rất lung mà rằng:
- Xét trong triều chỉ có Trần Trung Tá là người
làm được việc lớn nên tôi tiến cử; nếu thái hậu hỏi người giỏi việc hầu hạ thì
tôi sẽ tiến cử Võ Tán Đường!
TÓM LẠI, thói đời, có tật giật mình. Người quân tử
thấy Phim nói đúng TẬT của mình thì biết suy ngẫm mà tự SỬA MÌNH; kẻ tiểu nhân
thấy Phim nói đúng TẬT của mình thì tức tối, bắt phải SỬA PHIM! Cái máu tuyên
huấn nó vẫn thế đấy!
(Nguồn: Chuyện Nghề của Thủy, tr. 155 – 173)
MVT
Hình :
https://www.facebook.com/photo/?fbid=1434052853721977&set=a.359645271162746
.
No comments:
Post a Comment