(Phản biện bài viết của Gs Tương Lai)
Giáo sư Tương Lai, trong bài viết Vietnam’s Overdue
Alliance With America đăng trong mục Ý Kiến của Nytimes.com ngày 11 tháng 7
năm 2014 và bản tiếng Việt “Những Cơ Hội Bị Bỏ Lỡ cho Một Liên Minh Việt Mỹ” do
Liêm Nguyễn dịch, đăng trên nhiều trang web tiếng Việt, đã lấy làm tiếc khi nhiều
cơ hội đã bị bỏ qua cho một liên minh Việt Mỹ.
Lần đầu do cơ quan tình báo chiến lược Mỹ OSS (tiền
thân của CIA) “giúp huấn luyện và thành lập đơn vị du kích Mỹ-Việt đầu tiên vào
cuối năm 1944.” Và cơ hội khác khi TT Truman không phúc đáp các lá thư của Hồ
Chí Minh “bày tỏ lòng ngưỡng mộ của người Việt Nam” đối với “dân tộc Mỹ vì sự đấu
tranh cho những lý tưởng cao đẹp của Công lý và Nhân đạo quốc tế, vì những
thành tựu kỹ thuật hiện đại mà người Việt Nam cảm thấy bị lôi cuốn.”
Tôi không dám phê bình trình độ chính trị học của
giáo sư Tương Lai nhưng sẽ ngạc nhiên nếu ông thật sự tin rằng nếu lúc đó TT
Truman đáp ứng lời kêu gọi của Hồ Chính Minh và quân đội Mỹ, giống như OSS từng
làm, yểm trợ Việt Nam để phục hồi nền độc lập, xây dựng đất nước thì Việt Nam
đã là một quốc gia dân chủ, tự do chứ đâu phải bị nô lệ trong ý thức hệ CS và bị
Trung Cộng đè đầu cưỡi cổ như hiện nay.
Giáo sư Tương Lai bỏ qua mối quan hệ “tuy hai mà một”
giữa Hồ Chí Minh và đảng CSTQ như vô số tài liệu cho thấy và cũng không nhắc đến
những khả năng gì sẽ xảy ra với liên minh Mỹ Việt sau khi CSTQ đã chiếm hết lục
địa Trung Hoa năm 1949.
Quan điểm của giáo sư Tương Lai cũng có thể gây cho
người đọc hiểu lầm rằng Hồ Chí Minh không hẳn là người Cộng Sản và chỉ trở
thành người CS khi không có chỗ dựa nào khác trong cuộc chiến chống Thực Dân
Pháp mà quên đi sự kiện chính Hồ Chí Minh từ tháng 2 năm 1920 đã “vui mừng đến
phát khóc” khi đọc Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lenin.
Lý
do TT Truman không đáp ứng thư của Hồ Chí Minh
Theo tài liệu lưu trữ trong văn khố Hoa Kỳ, tổng số
gồm 11 lá thư Hồ Chí Minh gởi TT Truman, Ngoại trưởng James Byrnes và Bộ Ngoại
Giao Hoa Kỳ. Lá thư thứ nhất ký ngày 17 tháng 10 năm 1945 và lá cuối cùng vào
ngày 28 tháng Hai năm 1946.
Ngày 12 tháng 9 năm 1946, George M. Abbott, lúc đó
là Đệ nhất Tham Vụ Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Paris, đã điện đàm với Hồ Chí Minh. Dĩ
nhiên quan tâm hàng đầu của Hoa Kỳ vẫn là gốc gác của họ Hồ. Theo báo cáo của
George M. Abbott cho đại sứ Hoa Kỳ tại Pháp, Hồ Chí Minh không thừa nhận ông ta
là Cộng Sản.
Không những thế, ông Hồ còn chỉ ra cho George M.
Abbott thấy “không một người nào trong nội các của ông ta là Cộng Sản.”
Trong thực tế, các chức vụ then chốt gồm Chủ tịch (Hồ
Chí Minh), Bộ trưởng Quốc Phòng (Võ Nguyên Giáp), Bộ trưởng Tài Chánh (Lê Văn
Hiến), Bộ trưởng Tư Pháp (Vũ Đình Hòe) trong nội các liên hiệp kháng chiến đều
do các đảng viên đảng CS hay đảng Dân Chủ nắm giữ.
Khi George M. Abbott hỏi có hay không có một đảng CS
tại Việt Nam, Hồ Chí Minh thừa nhận là trước đây có nhưng đã giải tán mấy tháng
trước rồi. Dĩ nhiên, như viết trong báo cáo, George M. Abbott cũng biết những
câu trả lời của Hồ Chí Minh chỉ là những câu nói dối.
Ngày 12 tháng Ba năm 1947, TT Harry Truman xin quốc
hội chuẩn chi ngân sách 400 triệu Mỹ kim để viện trợ vũ khi cho chính phủ Cộng
Hòa Hy Lạp để đánh bại phiến loạn CS và để giúp hiện đại hóa quân đội Cộng Hòa
Thổ Nhĩ Kỳ nhằm đối phó với đe dọa quân sự của Liên Xô.
Ngăn chận làn sóng CS trên phạm vi thế giới là trọng
tâm của Chủ thuyết Truman (Truman Doctrine).
Lẽ ra, những lá thư của Hồ Chí Minh là cơ hội hiếm
hoi để Truman đóng nút sự bành trướng của chủ nghĩa CS ở Đông Nam Á qua ngả Trung
Quốc. Nhưng không. TT Truman không đáp ứng vì chính phủ Mỹ biết rõ rằng Hồ Chí
Minh và đảng CS Việt Nam là một bộ phận Đông Dương của đệ tam quốc tế CS chứ chẳng
quốc gia dân tộc gì.
Với đảng CS, việc thay tên đổi họ, từ một người hay
thậm chí cả đảng, theo nhu cầu chiến lược mỗi thời kỳ là chuyện bình thường.
Đảng CS tổ chức
tinh vi và chặt chẽ đến mức dù dùng tên gì vẫn hoạt động thống nhất và tuân chỉ
triệt để một cương lĩnh. Vào thời điểm 1946, trước khi CSTQ chiếm toàn lục địa
Trung Hoa, nếu Mỹ viện trợ, Hồ Chí Minh sẽ nhận và nếu Mỹ lên tiếng phản đối Pháp,
Hồ Chí Minh sẽ cám ơn nhưng chắc chắn không bao giờ có chuyện “giải tán đảng
CS” hay thành thật từ bỏ đảng CS.
Niềm tin tuyệt đối vào chủ nghĩa CS đã đóng đinh vào
nhận thức của các tầng lớp lãnh đạo CSVN. Cộng sản hóa Việt Nam là canh bạc của
đời họ.
Dòng lịch sử đầy tang thương của đất nước diễn ra từ
đó đến nay qua các đợt khủng bố tiêu diệt các đảng phái Quốc Gia, Cải Cách Ruộng
Đất, đày ải nhiều trăm ngàn công nhân viên chức VNCH, đưa đất nước vào ngõ tối
độc tài lạc hậu đã cho thấy nhận định của chính phủ Truman về Hồ Chí Minh và đảng
CSVN là đúng.
Năm 1954, vừa chiếm được nửa nước, chưa có một ngày ổn
định và đời sống người dân miền Bắc còn quá sức nghèo, trung ương đảng CSVN đã
nghĩ đến việc chiếm nửa nước còn lại.
Có tổng tuyển cử? Tốt, đảng sẽ chiếm miền Nam mà
không tốn nhiều xương máu. Không có tổng tuyển cử? Không sao, đảng vẫn chiếm miền
Nam nhưng bằng súng đạn Nga, Tàu.
Dù qua phương cách gian lận bầu cử, khủng bố cử tri
hay phải “đốt cháy cả dãy Trường Sơn” mục tiêu toàn trị vẫn không thay đổi.
Sinh mạng của nhiều triệu người Việt, tương lai bao
nhiêu thế hệ Việt Nam, viễn ảnh một Việt Nam nghèo nàn thua sút phần lớn nhân
loại không nằm trên bàn tính của Bộ Chính trị Trung ương Đảng CSVN.
Trung
Cộng muốn gì?
Hôm nay, hoàn cảnh chính trị thế giới đã thay đổi.
Việt Nam đang đứng trước một đế quốc thực dân mới và lần này là chủ nghĩa bành
trướng Trung Cộng. Như người viết đã phân tích trong các bài trước, Trung Cộng
muốn Việt Nam:
1. Hoàn toàn lệ thuộc về cơ chế chính trị và tư tưởng.
2. Một phần không thể tách rời trong toàn bộ chiến
lược an ninh châu Á của Trung Cộng.
3. Trung Cộng độc chiếm toàn bộ các quyền lợi kinh tế
vùng Biển Đông bao gồm cả các vùng biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa đang tranh chấp.
Nội dung của mật ước Thành Đô không được công bố,
tuy nhiên, các diễn biến kinh tế, chính trị và quốc phòng cho thấy ba điểm nêu
trên là ba yêu sách chính mà Trung Cộng đã đưa ra trong các phiên họp vào hai
ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 tại khách sạn Kim Ngưu, Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ
Xuyên.
Về mặt kinh tế chính trị: Khi thỏa hiệp bán nước
Thành Đô vừa ký kết xong, ngày 25 tháng 2 năm 1992, Quốc vụ viện Trung Cộng
thông qua “Luật Lãnh hải và vùng tiếp giáp” quy định lãnh hải rộng 12 hải lý,
áp dụng cho cả bốn quần đảo ở Biển Đông trong đó có quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa)
và Nam Sa (Trường Sa).
Ba tháng sau đó, Trung Cộng ký hợp đồng khai thác dầu
khí với công ty năng lượng Crestone, cho phép công ty này thăm dò khai thác dầu
khí trong thềm lục địa Việt Nam và hứa sẽ bảo vệ công ty Creston bằng võ lực. Ngoài
ra, Trung Cộng còn ra lịnh cấm đánh cá, thành lập các đơn vị hành chánh cấp huyện
tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Về mặt quốc phòng: Việt Nam theo đuổi một chính sách
quốc phòng “ba không”: (1) không tham gia các liên minh quân sự, (2) không là đồng
minh quân sự của bất kỳ nước nào, (3) không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân
sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia.
Đây là một chính sách quốc phòng tự sát vì chỉ có lợi
cho Trung Cộng. Việt Nam là một nước nhỏ, và cũng chính vì là một nước nhỏ, những
người lãnh đạo lẽ ra phải biết từng bước hội nhập vào cộng đồng nhân loại, biết
nâng cao vị thế quốc gia trong bang giao quốc tế, biết linh động trong việc mở
rộng các mối quan hệ song phương và đa phương, gần và xa để tạo thế đứng thuận
lợi trong hòa bình và chiến lược trong chiến tranh.
Trong Thế Chiến thứ Hai, trong số 20 quốc gia châu
Âu tuyên bố trung lập chỉ có 6 quốc gia là không bị lôi kéo vào chiến tranh.
Sáu quốc gia này may mắn không phải nhờ Hitler tôn trọng lời tuyên bố mà chỉ vì
không nằm trên trục tiến quân của các sư đoàn Panzer Đức, rất tốn kém để chinh
phục như trường Thụy Điển hay vì vị thế chính trị có lợi cho khối trục mà không
cần đánh chiếm như trường hợp Tây Ban Nha dưới chế độ độc tài Francisco Franco.
Để làm nhẹ áp lực Trung Cộng, Việt Nam cần có liên
minh.
Vâng, nhưng liên minh được với Mỹ trong vị trí tương
xứng với Nam Hàn, Nhật Bản chỉ là giấc mơ ngày.
Mỹ có quyền lợi ở vùng Đông Nam Á và Nam Thái Bình
Dương? Có.
Mỹ có xung đột với Trung Cộng về ảnh hưởng kinh tế
chính trị và cả quân sự trong vùng Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương? Có.
Mỹ có phê bình, lên án chính sách bá quyền Trung Cộng
đối với các nước nhỏ trong vùng Nam Thái Bình Dương? Có.
Tuy nhiên, với quan hệ kinh tế tài chánh quá lớn và
vô cùng phức tạp giữa hai cường quốc này như hiện nay, ngoại trừ xung đột sâu sắc,
trầm trọng và trực tiếp về quyền lợi của Mỹ trong khu vực, Mỹ sẽ không can thiệp vào các
tranh chấp song phương giữa Trung Cộng và Việt Nam hay Trung Cộng và một quốc
gia nào đó của ASEAN.
Trung Cộng hiểu được điều đó nên theo đuổi chính
sách gặm nhấm từng mảnh nhỏ tài nguyên của Việt Nam, bao vây kinh tế Việt Nam,
và tránh né việc quốc tế hóa các xung đột với Việt Nam và các nước trong vùng.
Nỗi
sợ lớn nhất của Trung Cộng
Như người viết đã phân tích trong bài Để thắng được
Trung Cộng, chính sách tuyên truyền thâm độc và bưng bít thông tin tuyệt đối tại
Trung Cộng cho thấy mối lo sợ lớn nhất của lãnh đạo CSTQ là ánh sáng dân chủ.
Trung Cộng không ngại mấy chiếc tàu ngầm kilo mà rất
lo “sân sau” CSVN trở thành một nước dân chủ. Việt Nam có dân chủ trước Trung Cộng
là cách tốt nhất để vô hiệu hóa sự lệ thuộc vào Trung Cộng về mặt cơ chế chính
trị và tư tưởng. Độc lập chính trị là tiền đề dẫn đến độc lập chủ quyền lãnh thổ.
Với Trung Cộng, việc giải quyết xung đột lãnh thổ gắn
liền với nhu cầu ổn định nội bộ.
Theo nghiên cứu của M. Taylor Fravel trong tác phẩm
Strong borders, Secure Nation: Cooperation and Conflict in China‘s Territorial
Disputes, trong thập niên 1960, lãnh đạo Trung Cộng nhân nhượng lãnh thổ với
hàng loạt quốc gia nhỏ như Burma, Nepal, Mongolia, Bắc Hàn, Pakistan và
Afghanistan chỉ vì họ cần tập trung vào việc ổn định vùng biên giới phía bắc
sau cuộc xâm lăng Tây Tạng và giải quyết nạn đói sau chính sách Bước tiến nhảy
vọt đầy thảm họa của Mao.
Con đường giành lại được Hoàng Sa và bảo vệ Trường
Sa là con đường dài, đầy kiên nhẫn, khai thác mọi khó khăn, mọi nhược điểm của
Trung Cộng, nhưng dù làm gì cũng phải bắt đầu từ độc lập về cơ chế chính trị.
Không có con đường nào khác. Như người viết đã nhấn
mạnh nhiều lần, một Việt Nam văn minh dân chủ với một nền kinh tế cường thịnh,
một hệ thống khoa học kỹ thuật hiện đại là phương pháp hữu hiệu nhất để ngăn chận
không những Trung Cộng mà bất cứ một thế lực xâm lăng nào muốn thách thức đến
chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam.
Đừng
hoài công tưới nước lên gốc cây rã mục
Ba mươi chín năm qua, không chỉ đất nước đứng trước
ngã ba mà nhiều người Việt quan tâm cho đất nước cũng đang đứng trước ngã ba.
Không ít người, ngoài miệng lớn tiếng phê bình đảng nhưng trong đáy lòng vẫn
nghĩ chỉ có đảng CS mới thay đổi được hướng đi của đất nước. Vì thế họ mãi loay
hoay, hy vọng, chờ đợi trong mỏi mòn một bình minh không bao giờ đến.
Thay vì tìm cách cứu đảng hãy chung lưng góp sức để
đẩy mạnh cuộc cách mạng dân chủ được diễn ra và thành công trong hòa bình, thuận
lợi, ít lãng phí tài nguyên dân tộc.
Con đường dân chủ có thể làm cho một số người chưa
quen cảm thấy bỡ ngỡ lúc ban đầu hay ngay cả gây ít nhiều đau nhức nhưng đó là
con đường của thời đại. Hãy đi cùng dân tộc và thời đại. Ý thức hệ CS chưa bao
giờ lỗi thời và lạc hậu hơn hôm nay. Đừng hoài công tưới nước vào một gốc cây
đang rã mục mà hãy dành để tưới lên những mầm xanh hy vọng của tương lai đất nước.
-------------------------
Nguồn
:
No comments:
Post a Comment