Posted
on Oct 15, 2014
Xưa
nay chúng ta luôn có thái độ kì thị tư tưởng chính trị Trung Hoa cổ đại, phần
vì mối thù hằn dân tộc, phần vì lối tư duy Tây học đã cản trở khả năng tiếp
nhận cởi mở. Tuy nhiên, dù chối bỏ đến đâu, ta cũng phải thừa nhận rằng các tư
tưởng ấy đã và đang chi phối nền chính trị Á Đông.
Book
Hunter và Tạp chí Phia Truoc đã cùng tổ chức buổi Big Idea Hunting: “Nhân trị
& Pháp trị” do bác sĩ Nguyễn Hoài Vân, chủ trang http://nguyenhoaivan.com/ thực hiện. Ông đã phân tích các
giá trị nền tảng của nền tư tưởng chính trị Trung Hoa cổ đại để chúng ta có thể
“ôn cố tri tân”. Bên cạnh đó, ông còn phân tích các nét tương đồng của các tư
tưởng ấy với các tư tưởng và xu hướng chính trị hiện đại trên thế giới.
MỜI
CÁC BẠN NGHE BĂNG GHI ÂM CỦA BUỔI EVENT:
---------------------
Chủ Nhật, ngày 12 tháng 10 năm 2014
Chúng tôi nhận thấy nhu cầu suy nghĩ về hai khuynh hướng
tổng quát ảnh hưởng trên mọi thể chế chính trị từ xưa tới nay : đó là các
khuynh hướng « Nhân » và « Pháp » thường được đề cập
đến trong tư tưởng chính trị của người Đông Á.
Dẫn Nhập :
- Trước hết, chúng tôi xin trình bày văn tắt các nguyên
tắc căn bản của Nhân trị và Pháp trị theo cách hiểu của người xưa.
- sau đó, sẽ xin bước sang sự phân định các yếu tố có
tính cách tương đối « Nhân » và tương đối « Pháp » trong
các trào lưu tư tưởng hiện đại.
- Rồi, để cho vấn đề được thêm rõ nét, chúng tôi sẽ phân
tích hai mô hình tổ chức xã hội có tính cách tiêu biểu, là Tư Bản Chủ Nghĩa và
Xã Hội Chủ Nghĩa dưới các cách nhìn « Nhân » và « Pháp ».
- Sau nữa, chúng ta mới rút tỉa vài ưu và khuyết điểm
chính yếu của Nhân cũng như Pháp trị.
- Trước khi kết luận, với ba vấn đề căn bản cần được đặt
ra khi suy nghĩ về Nhân và Pháp trị.
- Vào năm 2014 có thêm một số « phụ chú và tạp
ghi », nhân một buổi nói chuyện ở Hà Nội. Đoạn « viết thêm » để
tránh những lẫn lộn giữa khuynh hướng « Pháp trị » của Đông Á, với
quan niệm « dân chủ Pháp trị » của người Tây Phương, từ phiên bản
1991, được đưa vào các « phụ chú và tạp ghi » này.
Khuynh hướng Nhân trị
Phát nguồn từ Đạo Nhân, tức từ một tổng hợp bổn phận để
con người có thể sống đúng với địa vị của mình đối với mọi người trong xã hội
và đối với vạn vật (« Nhân dã giả, nhân dã » - Mạnh Tử). Tập hợp bổn
phận này được xây dựng trên quan niệm mọi người đều cùng một bản thể với nhau
và cùng bản thể với vũ trụ vạn vật, ví như anh em một nhà, nên có bổn phận phải
nâng đỡ nhau để cùng triển nở tốt đẹp (Tử Hạ: « tứ hải chi nội giai huynh
đệ »- Trình Minh Đạo: « Vạn vật dữ ngã nhất thể dã »). Bản thể
ấy cũng là bản thể của Trời, khiến con người cũng như thiên nhiên đều có phần
linh thiêng tôn quý.
Áp dụng vào việc điều hành xã hội, Đạo Nhân cho ra những
quan niệm căn bản của lý thuyết Nhân trị:
Quan niệm con người:
Con người được quan niệm một cách toàn diện, với phần vật
chất, phần tinh thần và phần linh thiêng như vừa nói. Chính vì có phần linh
thiêng còn gọi là Thiên Tính này mà mọi người đều phải được kính trọng.
Quan niệm giáo dục
trong thuyết Nhân trị là tìm lại và dưỡng nuôi cái Tính
Trời tiềm tàng nơi mỗi cá nhân làm cho Tính ấy không bị tư dục che lấp, để được
thể hiện mạnh mẽ trong cuộc sống. Giáo dục ở đây chủ trương hướng nội và tin
tưởng vào Tính thiện trong mỗi con người.
Quan niệm lịch sử:
Thuyết Nhân trị cho chân lý, hay « Đạo », hiển
lộ ở quá khứ, rồi dần dần lu mờ đi với thời gian. Vì thế, cần lấy người xưa làm
gương mẫu và đi tìm chân lý trong truyên thống. Đó là quan niêm lịch sử tiến
hóa theo chu kỳ.
Quan niệm xã hội
Xã hội được coi như một đại gia đình như ý nghĩa câu
« dân ngô đồng bào » của Trương Tái. Xã hội cũng có thể được ví như
một cơ thể lớn.
Quan niệm chính quyền
Trong thuyết Nhân trị nhà cầm quyền không khác gì Cha,
Mẹ, người dân, có bổn phận phải « thương dân như con đỏ ». Quan niệm
chính quyền này trọng bổn phận hơn là quyền hành.
Quan niệm pháp luật:
Pháp luật ở đây bị coi như chỉ là sự bổ túc cho một tập
hợp quy ước gọi là Lễ. Lễ là một thứ « luật » tự nhiên mà mọi người
đều chấp nhận trong thâm tâm mình. Lễ được hình thành từ những yếu tố bẩm sinh,
tức phần nào từ cái Tính Thiện nơi mỗi người, được cụ thể hóa bởi một quá trình
giáo dục, đào luyện. Khi Lễ không còn đủ để điều hành việc nhân sinh, người ta
cực chẳng đã mới phải dùng đến pháp luật.
Khuynh hướng Pháp trị
Phát nguồn từ trường phái Lão Trang và học thuyết của
Tuân Tử. Học phái Lão Trang chú trọng ở sự tuân theo định luật tự nhiên của vũ
trụ, không làm gì cưỡng lại định luật ấy mà dẹp bỏ mọi tư dục để cho định luật
ấy tự nhiên « làm » mọi việc qua mình. Đó là lý thuyết « Vô vi
nhi vô bất vi » (không làm nhưng không gì không làm).
Tuân Tử chủ trương không thể chờ đợi giác ngộ định luật
của Trời Đất, mà phải đặt ngay ra những quy luật làm tiêu chuẩn giải quyết việc
nhân sinh xã hội. Ông cho Đạo không phải là Đạo Trời, mà là Đạo người. Ông cũng
đề ra quan niệm con người mang tính ác, cần có những tiêu chuẩn từ bên ngoài để
theo đó sửa đổi, điều tiết.
Từ khái niệm « định luật của vũ trụ » nơi Lão
Trang đến sự phân biệt Đạo trời, Đạo người, của Tuân Tử, người ta đi tới khái
niệm « Pháp », tức một hệ thống quy luật điều khiển toàn bộ nhân sinh
hành vi có tính cách tuyệt đối, không được bàn cãi (Pháp bất nghị). Trên nền
tảng ấy, lý thuyết Pháp trị được hình thành với những yếu tố cơ bản sau :
Quan niệm chính quyền:
Pháp gia chủ trương nhà cầm quyền không nên làm gì cả, mà
chỉ dựa vào « Pháp » để thưởng phạt người dưới. Vì ai cũng ham được
thưởng, sợ bị phạt nên sẽ đều tự động làm đúng « Pháp ». Đó là thái
độ « Vô vi nhi vô bất nhi » của Pháp gia, ảnh hưởng bởi Lão học. Quan
niệm này trọng quyền hành hơn bổn phận. Việc cai trị hoàn toàn dựa trên
« Pháp » nên có căn bản là Vô Tư, Vô Tình, khác với kuynh hướng Nhân
trị coi việc công như việc tư, coi người dưng như thuộc gia đình mình, trị nước
như cha anh lo cho con em trong nhà vậy. Pháp gia có thể từ bỏ chính gia đình
mình, trong khi người Nhân coi mọi người như người nhà, để cho dù thưởng hay
phạt cũng không quên cái thân tình ấy.
Quan niệm xã hội:
Xã hội ở đây là một cái máy lớn, hành động của mỗi người
đều phải phù hợp một cách chính xác với danh phận của mình như đã được quy định
bởi « Pháp ». Làm sai, làm thiếu, hay làm quá lố, làm dư ra, đều bị
trừng phạt. Công nhỏ quá hay công lớn quá đều mang tội (Hàn Phi Tử, Thiên 7).
Thật vậy, một cơ phận trong bộ máy không thể chạy nhanh hay chậm hơn tốc độ đã
được quy định.
Quan niệm lịch sử
của Pháp gia là quan niệm tân tiến, tức tin vào sự tiến
bộ, vào sự giải quyết các vấn đề nhân sinh trong tương lai, nhờ vào việc đặt ra
và thi hành « Pháp ». Khác với khuynh hướng Nhân trị (lịch sử đi theo
chu kỳ), lịch sử ở đây tiến theo đường thẳng. Pháp Gia Hàn Phi cũng khẳng định
điều kiện kinh tế quy định bước đi của lịch sử, trong khi Pháp Gia Thương Ưởng
đề ra một tiến trình của lịch sử dựa trên một loại biện chứng pháp sơ khai, với
từng giai đoạn mang mầm mống của sự tự hủy diệt, để hình thành giai đoạn sau.
Quan niệm giáo dục ở đây thiên về hướng ngoại , dựa trên việc rập khuôn theo một tiêu chuẩn
bên ngoài. Pháp Gia nghĩ con người mang Tính Ác, cần phải biến hóa cái tính ấy
đi cho phù hợp với « Pháp ». Từ đó, họ coi con người như gỗ đá, có
thể dư thì cắt bớt, thiếu thì chắp thêm (Hàn Phi – Hiển Học) họ cũng quan niệm
« Chính giáo hợp nhất » (Lý Tư) đặt giáo dục dưới sự kiểm soát của
nhà chính trị (dĩ lại vi sư), và triệt để bài bác văn học, coi đó như nguồn gốc
của sự chống lại « Pháp ».
Quan niệm con người:
Pháp gia coi con người như gỗ đá có thể đẽo gọt, hay như
cơ phận của một bộ máy, phải chạy đúng như đã được quy định. Với quan niệm ấy,
họ có thể tiêu diệt một phần xã hội theo chủ trương « lấy số nhiều bỏ số ít »
(dụng chúng nhi xả quả - Hàn Phi), khác với người Nhân, tôn trọng mỗi người như
một biểu hiện của Thượng Đế.
« Nhân » và « Pháp » trong trào lưu
tư tưởng hiện đại :
Ngày nay người ta có thể coi như thiên về
« Nhân » những tư tưởng quan niệm con người một cách toàn diện và từ
đó tôn trọng con người với tính cách « con người nói chung », đề cao
sự ôn hòa rộng rãi, chấp nhận những khác biệt, hướng về lý tưởng tự do, đặt
nặng quyền lợi cá nhân. Trên trường chính trị, đó là những thể chế dân chủ, đặc
biệt là dân chủ đa nguyên, là cách cầm quyền khách quan thực tế, là lý tưởng
Nhân Quyền, là chủ trương bảo vệ thiên nhiên.
Ngược lại các tư tưởng thiên về “Pháp” thu hẹp định nghĩa
con người, thí dụ như coi con người chỉ là con người kinh tế, con người giai cấp,
con người sinh lý, ý tưởng loại bỏ Thượng Đế trong đời sống con người, hay
những tư tưởng gián cách con người với Thượng đế, phủ nhận tính linh thiêng tự
nhiên của con người và vạn vật nơi vài tôn giáo mặc khải.
Các tư tưởng thiên về « Pháp » thường quá
khích, giáo điều chủ nghĩa, đề cao « Đồng » hơn là « Hòa »,
trọng bình đẳng hơn tự do, bảo vệ quyền lợi cộng đồng (cộng đồng đân tộc, Quốc
gia, giai cấp, tôn giáo...) hơn quyền lợi cá nhân. Trên trường chính trị, đó là
những thể chế độc tài, là cách cầm quyền chủ quan duy ý chí, là kinh tế chỉ
huy, là những mô hình phát triển tàn phá thiên nhiên, phung phí tài nguyên
thiên nhiên. Nói rộng hơn, sự hệ thống hóa việc nhân sinh hành vi, tức mọi chủ
thuyết, ý thức hệ ... đều dễ thiên về « Pháp ». Thật vậy nếu chấp
nhận rằng con người có những phần vượt ngoài mọi sự lý luận thì người ta buộc
phải suy ra cái tác dụng căn bản của các hệ thống lý luận là thu hẹp định nghĩa
con người.
Hai mô hình tổ chức xã hội tiêu biểu dưới cái nhìn “
Nhân” và “Pháp” :
Tư Bản Chủ Nghĩa :
Có thể định nghĩa như một mô hình tổ chức xã hội trong đó
phương tiện sản xuất và phương tiện trao đổi nằm trong tay tư nhân. Tư nhân
đương nhiên là có khuynh hướng đặt Tư Lợi lên trên hết. Vì thế, một trong những
động cơ chính yếu của xã hội tư bản là Hiếu Lợi.
Để được lợi nhà tư bản luôn cố gắng đẩy mạnh Sản Xuất
và Tiêu Thụ.
Vì cần có người Tiêu Thụ nên Xã hội tư bản thường
ôn hòa rộng rãi, tôn trọng cá nhân và khuyến khích con người phát triển toàn
diện. Thật vậy, nếu hẹp hòi, quá khích, thì sẽ phải loại bỏ một phần xã hội,
giảm bớt số người tiêu thụ. Sự tôn trọng quyền lợi cá nhân cũng là hậu quả của
tính hiếu lợi. Lý do vì mỗi cá nhân là một người tiêu thụ, cần làm cho cá nhân
ấy có một mức sống nào đó, đủ để hăng hái tiêu thụ mỗi ngày một thêm lên.
Mặt khác, tính hiếu lợi cũng khiến nhà tư bản không ngần ngại cổ động sự phát
triển con người một cách toàn diện, vì điều này giúp gia tăng nhu cầu tiêu thụ.
Mỗi bước phát triển của các khía cạnh vật chất, tâm trí, tâm linh, tín ngưỡng
... của con người đều tạo thêm những nhu cầu mới, mở ra những thị trường mới để
nhà tư bản có thể bán những sản phẩm liên hệ, từ cái lò vi ba tới các thần
thánh, guru … đủ loại.
Về chính trị, xã hội tư bản thường thiên về thể chế dân
chủ đa nguyên, tuy điều này còn tùy thuộc một số điều kiện khác. Lý do vì
phương tiện sản xuất và trao đổi là thực chất của quyền hành trong xã hội.
Quyền hành ấy vì nằm trong tay tư nhân nên dễ bị phân tán, đưa đến nhiều
« đầu mối nắm quyền » và nhiều « đầu mối phản quyền » tương
ứng, tất cả đều ảnh hưởng một cách tương đối trực tiếp vào đời sống chính trị.
Tình trạng này dễ đưa đến thể chế đa nguyên.
Vì ôn hòa rộng rãi, trọng quyền lợi cá nhân, đề cao sự
phát triển con người toàn diện và khuynh hướng Dân Chủ Đa Nguyên, nên xã hội tư
bản có nhưng nét thiên về Nhân Trị.
Thật ra, người ta đã nghĩ nhu cầu đẩy mạnh Sản Xuất
có thể đưa dến những phương pháp quản trị nhân công khắt khe, với sự bóc lột
ngày càng gia tăng. Tuy nhiên, trong thực tế, điều này đã không xảy ra. Nhiều
xã hội tư bản đã đạt được phần nào đến sự quân bình giữa quyền lợi của người
làm công, cũng phải được coi như người tiêu thụ, và quyền lợi của chủ nhân, tùy
thuộc vào sự tiêu thụ này.
Điều cần nhận rõ là sự quân bình ấy chỉ có được ở các
nước tư bản tiên tiến. Tại các nước kém phát triển, người dân vì quá nghèo nên
gần như chỉ đơn thuần là « con người sản xuất » chứ chưa được coi như
« con người tiêu thụ » một cách đúng mức. Thế quân bình như vừa nói
trở nên lệch lạc, sự bóc lột có phần trội hơn việc đem lại cho người dân một
mức sống vừa đủ để họ có thể tham dự vào xã hội tư bản với tính cách
« người tiêu thụ ».
Nhiều yếu tố khác trong xã hội tư bản cũng có khuynh
hướng phản lại lý tưởng Nhân trị.
Thí dụ: nhu cầu thúc đẩy tiêu thụ thường đưa đến đánh giá
con người theo mức độ tiêu thụ của mình: anh « hơn » tôi, vì anh có
xe tốt hơn, nhà lớn hơn ... Điều này đương nhiên, là thu hẹp định nghĩa con
người, giam hãm con người trong khuôn khổ những quy luật và hệ thống giá trị
của sự tiêu thụ.
Thêm vào đó, nhu cầu sản xuất hàng loạt để giảm giá thành
của hàng hóa cũng khiến nhà tư bản tận dụng mọi phưng tiện truyền thông, quảng
cáo ... để làm cho mọi người phải lọt vào những khuôn mẫu tiêu thụ, quanh một
số mặt hàng được coi như « biểu tượng của đời sống văn minh ».
Ngoài ra xã hội tư bản dễ khuyến khích sự phát triển lệch
lạc, ích kỷ, với cách nhìn hiếu lợi, ngắn hạn, khó giải quyết được những vấn đề
căn bản trường kỳ của nhân loại. Điều này đưa đến sự chênh lệch giàu nghèo càng
ngày càng gia tăng và sự tàn phá thiên nhiên, phung phí tài nguyên thiên nhiên
một cách vô cùng tệ hại. Đó là những sắc thái Phi Nhân của xã hội tư bản.
Xã Hội Chủ Nghĩa
được bàn đến ở đây là mô hình tổ chức xã hội thoát thai
từ Chủ Thuyết Marx. Chúng ta có thể định nghĩa Chủ Thuyết Marx như một quan
niệm lịch sử dựa trên thuyết Duy vật và biện chứng pháp.
Biện chứng duy vật cho rằng con người trong căn bản tùy thuộc vào các điều kiện vật chất. Vì
thế, đa số các học giả thuộc học phái Marx đã gặp nhiều trở ngại trong việc
thừa nhận ý niệm « con người nói chung ». Thật vậy, điều kiện vật
chất luôn thay đổi, khiến con người, được tin là bị quy định bởi vật chất, cũng
buộc phải thay đổi theo, và, như thế, không thể có được một thực thể gọi là
« con người nói chung », trường tồn, biệt lập với các đổi thay ấy.
Các học giả này coi ý niệm « con người nói chung » là một thần thoại
không có thật.
Mặt khác, sử quan duy vật cho lịch sử là
« lịch sử đấu tranh giai cấp » (Tuyên Ngôn Đảng Cộng Sản) nên khi
được đặt trong dòng lịch sử, những điều kiện chính yếu quy định bản chất con
người buộc phải là những điều kiện đấu tranh và những điều kiện giai cấp
(« Bản chất con người là sự tổng hợp của những tương quan xã hội » -
Marx - Luận cương 6 về Feuerbach.). Như vậy, theo các học giả này, con người là
con người giai cấp (và con người đấu tranh).
Cần nhắc lại là sử quan cũng như biện chứng duy vật đều
đã được nhận thấy nơi Pháp Gia thời Chu Tần, dù rằng lúc ấy mới ở trạng thái sơ
khai.
Hậu quả của ý tưởng không có “con người nói chung” mà chỉ
có « con người giai cấp », là : giữa con người ở giai cấp này với con người ở giai cấp khác không có gì
chung cả, không cùng nhau chia sẻ những thành tố cấu tạo căn bản. Từ đó, người
ta có thể coi người của giai cấp khác như thuộc về một loài vật khác, để nếu
cần thì thản nhiên giết bỏ, như trừ sâu, trừ kiến. Đó chính là căn bản của
« Thuyết Phi Nhân » đã ngự trị trên học phái Marx và cái gọi
là « thế giới Cộng Sản » suốt nhiều thập niên, cho đến khi bị một số
nhà tư tưởng thuộc chính học phái này lên án hầu tìm cách xây dựng một « xã
hội chủ nghĩa nhân bản ».
Ngoài khả năng giết người như sâu kiến ấy, các mô hình Xã
Hội Chủ Nghĩa được áp dụng trong « thế giới Cộng Sản » còn mang nhiều
đặc tính Pháp Trị khác, như: trọng bình đẳng hơn tự do, tập thể hơn cá nhân,
đấu tranh hơn hòa giải, kinh tế chỉ huy hơn kinh tế thị trường, thêm vào với lề
lối cầm quyền độc tài, duy ý chí, giáo điều chủ nghĩa.
Tuy nhiên, lý tưởng của học thuyết Marx là đi đến một
« thiên đường » gọi là « Xã Hội Cộng Sản Văn Minh »
trong đó không còn giai cấp, không còn đấu tranh, không có chính phủ và cũng
không cần đến quyền tư hữu. Xã hội lý tưởng này có một mức sản xuất cực cao, dư
dùng cho mọi người dân, và người dân cũng đạt đến một trình độ tự giác cực cao,
khiến không còn vấn đề chiếm hữu, không còn phải dùng đường lối đấu tranh để
giải quyết các mâu thuẫn. Sự hiện diện của chính phủ cũng không còn cần thiết. Xã
hội lý tưởng này phù hợp với khuynh hướng Nhân Trị.
Phê bình nhân trị và pháp trị:
Nhân Trị là một lý tưởng cao
đẹp, phù hợp với ước vọng của con người, dễ được con người chấp nhận và trong
sự áp dụng, dễ ứng phó với thực tại, dễ sửa sai hơn khuynh hướng Pháp Trị.
Tuy nhiên, Nhân Trị không phải lúc nào cũng áp dụng được,
mà tùy thuộc vào ba điều kiện chính yếu, đó là:
- mức sống vật chất của người dân
-
trình độ ý thức của họ
-
và tình trạng an ninh của quốc gia, bên ngoài cũng như bên trong.
Vì thế, Nho Gia đã đặt ra ba mục tiêu cốt yếu cho việc
chính trị, là: bảo vệ dân, lo cho dân no đủ và giáo dục dân. Có lẽ cổ nhân đã
muốn truyền lại một bài học thực tế, rằng: Nhân trị không phải chỉ là
« làm » Đạo Nhân, mà cũng là tạo điều kiện để Đạo Nhân có thể
« làm » được . Nếu không thì sẽ lại rơi trở vào lề lối chủ quan, duy
ý chí, như trong khuynh hướng Pháp Trị.
Pháp Trị vì duy ý chí nên ít
lệ thuộc hoàn cảnh, dễ thống nhất mục tiêu và phương tiện, thuận lợi cho việc
đấu tranh ngắn hạn. Ở thời xưa, nó làm cho quốc gia hùng cường mau lẹ (trường
hợp nước Tần). Thời nay, người ta thường dùng nó một cách hiệu quả trong việc cướp
chính quyền và giữ chính quyền một cách chắc chắn. Ngoài ra, việc sử dụng Pháp
Trị để xây dựng những đế quốc chuyên chế dường như đang trên đà giảm bớt, tuy
người ta vẫn không từ bỏ một hình thức đế quốc mới , có khi được gọi là
« đế quốc kinh tế ».
Cầm quyền theo khuynh hướng Pháp Trị có thể mang đến
nhiều nguy hại, vì ba lý do:
1) Pháp Trị rất dễ sai lầm,
vì quan niệm con người và sự vật một cách chủ quan, giáo điều, đưa đến tổ chức
xã hội xa rời thực tại, khó đáp ứng được với những đòi hỏi thực tế của người
dân nên dần dần cách biệt với dân, đi đến chỗ bị dân oán ghét .
2) Khi đã xa rời dân, đi
ngược lại với nguyện vọng của họ, thì muốn cho họ tiếp tục phục tùng mình, nhà
cầm quyền cần phải hà khắc, đàn áp, trừng phạt gắt gao, thậm trí giết bỏ thẳng
tay. Điều này đưa đến không khí căm hờn nặng nề trong xã hội , ít thuận lợi cho
sự hợp tác, và thường kết thúc trong những cuộc nổi dậy đẫm máu . Pháp Trị dễ
thống nhất mục tiêu và phương tiện của quốc gia trong ngắn hạn, nhưng với thời
gian nó lại hay đưa đến bất hợp tác, đối kháng, thậm chí đụng độ đẫm máu, tiêu
hao lực lượng.
3) Khi đã sai lầm, một xã hội Pháp Trị rất
khó sửa sai, do nguyên tắc « Pháp bất nghị » đã nói ở trên. Vì thế,
khi cần thay đổi một chính sách, người ta thường buộc phải lật đổ cả một chế
độ, vừa tốn thì giờ, vừa tốn hao tài nguyên xương máu.
Tóm lại,
Tuy lý tưởng Nhân trị phản ảnh những ước vọng thâm sâu
nhất của con người trong đời sống xã hội, người ta vẫn buộc phải công nhận rằng
không phải lúc nào điều kiện thực tế cũng cho phép xây dựng xã hội lý tưởng
này. Vì thế, khi suy nghĩ về Nhân và Pháp, người ta cần đặt ra ba vấn đề:
Thứ nhất, trong một thời điểm
nhất định, điều kiện thực tế cho phép thi hành một chính trị với bao nhiêu phần
« Nhân » bao nhiêu phần « Pháp » ?
Thứ nhì : trong tiến trình quản
lý quốc gía, làm sao để một mặt sáng suốt nhận thức những giai đoạn cần phải
thi hành Pháp Trị, mặt khác ngăn ngừa những sự lạm dụng việc này ?
Sau hết, người ta có thể tự
hỏi : thế nào là dung hòa Nhân và Pháp ?
Có lẽ câu trả lời là : nhìn về những giá trị căn bản của
con người mà lập Pháp, với một tinh thần rộng rãi , không cố chấp giáo điều,
chủ thuyết, chấp nhận sửa sai, thích nghi với thực tại (Pháp hữu nghị). Nói
cách khác, là lấy tinh thần Đạo Nhân mà lập Pháp .
Có thể được chăng ? Các bậc hiền giả sẽ luận bàn vậy.
Nguyễn Hoài Vân
16/7/1991
No comments:
Post a Comment