Lê Thị Hoài Niệm
Thứ năm, 15 Tháng 9 2011 21:14
Hắn phải nghe theo lời vợ, dù hắn không là tín đồ của “đạo thờ bà”, và luôn luôn nhẩm đọc thân lệnh: kiên định lập trường! Lập trường của một thằng lính bị bắt buộc… thua trận và phải lưu vong tận xứ người, nhưng nhất quyết không về lại quê nhà khi nào lá cờ đỏ của phường ăn cướp vẫn còn “ngạo nghễ tung bay” và những tên cộng sản vẫn còn nghênh ngang như trêu ngươi những thằng người như hắn.
Nhưng hắn phải về, vợ hắn nói đúng: “Nếu chế độ này nó không sụp mà Mẹ mình sụp thì sao?”
Hắn nhớ thương Mẹ quá chừng chừng. Đã hơn ba mươi năm rồi còn gì. Hắn rời xa mẹ hắn từ ngày ba hắn từ giã chốn dương gian giặc giã lan tràn, bỏ lại mẹ hắn và đám con ba đứa, hắn là thằng con lính lớn nhất nhà, ngày ấy mẹ hắn chỉ mới tròn trèm 5 chục. Bây giờ bà đã già quá rồi, hắn gọi điện thoại thăm bà hoài, dù thính giác của bà đà lểnh lãng.
Tội bất hiếu nặng quá! Hắn mà có tội đó với chính người mang nặng đẻ đau sinh ra mình, nuôi mình khôn lớn thì làm sao mà dạy con? Trường hợp bất khả kháng, không có cơ hội thì còn tha thứ được. Nhưng bây giờ, “thời cuộc đã đổi khác”(?), nhiều người vẫn bảo thế. Người ta đi tới đi lui hà rầm, rủ nhau về du lịch từ Bắc vô Nam, từ Nam ra Bắc không sót hang cùng ngõ hẻm nào, miễn sao trong túi rủng rỉnh đô la (đừng bàn ra bàn vô chống đảng). Hắn phải làm theo “chỉ thị” vợ hắn ban ra: “Về thăm Mẹ già trước khi quá trễ!”
Hắn đành mắt nhắm mắt mở mà về, vì Mẹ!
Chiếc Toyota 4 cửa chạy chầm chậm để hắn nhìn đường sá. Ngang qua khu phố chợ Long Hoa, hình ảnh đầu tiên tại quê nhà đập vào mắt hắn, vẫn là con đường lầy lội, bùn đất đỏ tràn lan, những người đàn bà đang xoắn quần lội qua vũng bùn để vào chợ. Không biết bên trong khang trang, đẹp đẽ cỡ nào? Chứ hơn ba mươi năm rồi mà chung quanh chợ dơ vẫn hoàn dơ, sửa chữa vẫn hoài sửa chữa, làm hắn thất vọng vô cùng. Ngày xưa trong hoàn cảnh chiến tranh, bị “anh em” phía bên kia về phá hoại liên miên đã đành, chứ bây giờ sau mấy chục năm hòa bình rồi, sao vẫn còn lầy lội, bẩn thỉu như xưa?
Xe chạy ngang qua khu vực Tòa Thánh, trực chỉ về hướng nhà của hắn. Con đường này ngày xưa rộng rãi, quang đãng thoáng mát, lòng đường trải đá đỏ cũng lắm ổ gà, nhưng không ồn ào, lại có vẻ thơ mộng, bởi hai hàng cây gòn rợp bóng ven đường. Nhờ vậy những buổi đạp xe đi học ở trường tỉnh, con đường dù dài hun hút, vẫn không làm bọn hắn thấy mệt nhiều, nhất là những buổi trưa hè, đạp xe theo sau “áo trắng tan trường”, dù cả hai bên đều mồ hôi ướt đầm lưng áo, nhưng vẫn mang mang những nét tình tứ, mộng mơ. Sau này về Sàigòn đi học, con đường Duy Tân có nhiều cây dài bóng mát, cũng không nhiều bóng cây cao bằng con đường tuổi nhỏ hắn đi qua.
Nhưng bây giờ thì khác quá, làm hắn lại buồn lòng. Con đường xưa giờ đã hoàn toàn thay đổi, người ta đã chặt hết cây để nới rộng lòng đường, nhà cửa mọc lên san sát nhưng vô cùng mất trật tự. Quán xá, tiệm cà phê hát nhạc giựt râm ran, tiệm cắt tóc, tiệm sửa xe Honda, nhà may quần áo, nhà bán xi măng, v.v. đầy dẫy hai bên đường. Chẳng bù với ngày ấy, mỗi một gia đình là một vuông đất rộng thênh thang, sau vườn đầy ắp cây ăn trái, như nhà hắn có đến 4 cây mít, cứ đến mùa là quả nặng trĩu cành, trái nào cũng to đoàng ôm không hết vòng tay, chín lừng thơm nức mũi, chưa nói đến những “dái mít” non vừa bằng vài ngón tay đem chấm với muối ớt làm rỏ dãi những thằng bạn học dân phố chợ. Rồi thì mãng cầu, nhãn, sa-pô-chê, còn đu đủ là đồ bỏ v.v. Thế mà hôm nay, chỉ thấy nhà và người thế chỗ, xe cộ lên xuống nườm nượp, đất đỏ văng tung tóe, nhất là xe Honda 2 bánh với tiếng nổ ầm ầm văng khói mù trời đất. Người đâu mà xây cất nhà cửa nhiều quá vẫn là câu hỏi lởn vởn lờn vờn trong đầu hắn.
Xe chạy chầm chậm ngang qua khuôn viên trường tiểu học, hắn chợt mừng vì biết đã đến gần nhà, vì ngôi trường này là nơi đầu tiên thầy giáo dạy cho hắn biết cầm cây bút và đọc chữ a-b-c. Đã bao nhiêu năm rồi không có gì thay đổi ngoài bảng hiệu tên trường. Hình như học trò quá đông mà phòng ốc vẫn y nguyên, lớp sơn loang lổ, sân trường vẫn nền đất hoang sơ, chỉ hai cây cổ thụ bên hông trường là lớn thêm theo năm tháng. Hắn thở dài vì một thoáng so sánh vắt ngang qua bộ nhớ. Cạnh nhà hắn phía bên kia nửa vòng trái đất, cũng một trường tiểu học, mà sao nó đồ sộ, khang trang to lớn hơn cả một trường… đại học bên này. Hắn buồn.
Một thoáng ngỡ ngàng khi chiếc xe dừng hẳn lại trước cánh cổng sắt màu đỏ, thằng cháu đi về cùng với người tài xế xe quen của nó, nhe răng cười và nói đã tới nhà rồi.
Hắn bước xuống xe mà chân loạng choạng, nửa muốn bước tới, nửa lại chùn. Sự ngại ngần trước căn nhà như xa lạ đã kiềm hãm sự thôi thúc muốn bương chạy ào vào nhà để gọi mẹ, để được ôm bà vào lòng, để được sờ nắn hình hài, vóc dáng thân yêu của người mẹ già sau ngần ấy năm xa cách, và cả người em gái của hắn nữa. Ngày hắn đi, con bé còn độc thân, bây giờ đã con đàn con đống. Nhưng cánh cổng sắt sơn màu đỏ đã chận ngang sự nôn nóng trong lòng hắn. Hắn chỉ đứng xa những chấn song và cất cao tiếng gọi mẹ sau lời gọi mở cổng của thằng cháu.
Người đàn bà đứng tuổi chậm chạp cầm cái chìa khoá tra vào ổ, cùng lúc ngó chăm chăm vào hắn, như muốn hỏi ai đây, thằng cháu cười cười hối thúc mở cổng lẹ lên.
Cổng mở. Hắn muốn nhào tới ôm lấy em gái hắn, nhưng không biết tại sao hắn không thể nào thể hiện tình cảm của mình, có lằn ranh vô hình nào đó đã hiện hữu trong tình thân giữa anh em hắn. Và người em đã làm thay hắn, khi biết người đàn ông đứng đó là anh ruột của mình đã trở về thăm nhà sau ngần ấy năm dài. Cô ta hét thật to và nắm tay hắn ù té chạy vào nhà gọi mẹ.
Mẹ hắn quờ quạng cầm cây gậy lần bước đi. Hắn đứng chết trân và khóc lớn tiếng. Mẹ hắn già nua bệnh tật như vậy sao? Hắn ôm chầm lấy mẹ, nhấc bổng bà lên và xoay bà mấy vòng với nước mắt nước mũi chảy dài, nụ cười nhăn nheo của bà làm hắn càng khóc to hơn nữa. Hắn khóc nhưng mọi người chung quanh, ngay cả mẹ hắn, đều cười vui.
Ngày về nhà đầu tiên của hắn đâu khác chi triệu người bỏ xứ ra đi ngày ấy. Hắn biết mẹ hắn là người vui nhất, bà cười nói huyên thuyên, bà hỏi trăm ngàn chuyện, hắn cứ để bà tự nhiên nói, hắn trả lời ít ỏi, vì đôi tai nghểnh ngảng nghe câu đựơc câu mất của bà. Hắn thương mẹ quá chừng chừng. Bà càng sờ soạng lên hình hài đứa con trai bao nhiêu, nỗi ân hận dày vò trong hắn lại cuồn cuộn trào dâng ngần ấy. Hắn hối tiếc, phải chi hắn về sớm hơn vài năm, thì mẹ hắn đã nhìn rõ dung nhan đứa con trai lớn của mình. Và bà đã nghe rõ được những lời yêu thương trìu mến từ cửa miệng đứa con một cách rõ ràng, thích thú.
Hắn vui lắm! hắn thầm nói lời cảm ơn tới vợ hắn đang ở bên kia nửa vòng trái đất. Cảnh mẹ và con gặp nhau, tình cảm chất chứa bao năm nó tuôn tràn như dòng suối mùa lũ, nó chảy cuồn cuộn, ào ào, liên tục làm quặn lòng thằng người luôn dùng lý trí để xét suy, hành xử mọi việc. Chỉ mới quá nửa ngày, mà mẹ con hắn đã đi lại một quãng đường của thời gian hơn ba mươi năm dài đăng đẳng.
Ngày ấy, trong căn phòng hành quân của phi đoàn ở vùng IV chiến thuật, nơi mà có những vị Tướng anh hùng, tuyên bố sẵn sàng chọn địa thế này làm căn cứ địa “tử thủ” để chống bọn cộng sản xâm lăng, nếu thủ đô lỡ lọt vào sự kiểm soát của quân địch. Hắn nhìn thấy “bảng phi vụ” có sẵn tên phi hành đoàn, số máy bay, nhưng thiếu giờ bay và nơi làm việc, nên cứ ngồi chờ (stand-by), mà không biết rằng đã có những cấp chỉ huy cũng như vô số bạn bè đà bỏ ngũ trốn đi. Câu: “Không bỏ anh em, không bỏ bạn bè” mà hắn vẫn thường nghe người ta ca tụng, đối với hắn, thật mỉa mai và chua xót, nhiều lúc muốn hét toáng lên và chửi đổng. Anh em không bỏ, nhưng đã không thông báo cho nhau khi rời căn cứ. Bạn bè không bỏ, nhưng đa số đã âm thầm, lặng lẽ tìm đường thoát thân cho riêng cá nhân và gia đình mình. Chỉ có hắn và một số ít đồng đội là triệt để tuân hành kỷ luật, dù pháo địch đã bắt đầu bắn vào phi trường. Mãi đến khi nghe “Thông điệp” tuyên bố đầu hàng cộng sản của Tổng thống Dương Văn Minh từ chiếc radio nhỏ trên bàn, làm bọn hắn rụng rời, chết điếng. Thế là hết!
Ngày ấy, trong cơn hỗn loạn, hoang mang cùng tột, hắn đã cùng mấy đồng đội chạy bay tóc băng qua phi đạo, nơi đang bị đạn pháo của địch bắn nổ rền trời. May quá còn chiếc trực thăng nằm im lìm trong “ụ” như chờ đợi bọn hắn đến để phục vụ lần cuối. Tiếng nổ của máy và cánh quạt quay đều, bình xăng còn đầy làm hắn cảm thấy nhẹ người, vội cất cánh bay lên. Ngồi trước cần lái, người đầu tiên hắn nhớ đến là mẹ. Hắn đã muốn quay đầu chiếc trực thăng bay về với mẹ, rồi sẽ ra sao thì ra. Nhưng những đồng đội trên tàu đã ngăn không để hắn làm theo điều hắn nghĩ. Nước mắt lưng tròng, hắn đã gọi thầm tên mẹ để nói lời từ giã và điều khiển con tàu quay mũi về hướng Côn Sơn theo yêu cầu của đa số.
Để rồi cuối cùng, dưới cơn mưa tầm tã, những giọt mưa buồn hay là giọt nước mắt tức tưởi của những người lính, mà suốt thời trai trẻ đã gắn liền với chiếc áo lính và những cuộc hành quân. Chiếc trực thăng của hắn đang bay, cũng cùng số phận của nhiều trực thăng đơn vị bạn, khi đáp xuống sàn tàu chiến hạm Mỹ. Hắn đâu còn đủ can đảm để tự mình “đập tàu xuống nước”, nên chỉ biết đứng nhìn con tàu đã cưu mang mạng sống của chính mình và biết bao nhiêu người trong ngần ấy năm tháng bị xô xuống biển sâu mà lòng quặn đau như bị mũi dao nhọn xoáy vào, càng nhìn càng buồn nẫu ruột. Nhưng nỗi buồn cũng bị xé nát từng mảnh nhỏ trước cảnh tượng ồn ào, hoang mang lo lắng của rất nhiều người đồng cảnh ngộ.
Điều an ủi đã được yên bình cho bản thân, không làm hắn quên đi nỗi uất hận thương đau. Nhất là khi tàu cặp bến “Subic Bay” của nước Phi Luật Tân, Tổng thống Marcos của nước đồng minh VNCH mới tuần trước, giờ đã quay ngược kim đồng hồ 180 độ, ra lệnh… lột hết những bộ đồ trận, nón, giày của những người đang còn khoác bộ đồ Lính trên người. Hắn cởi bỏ bộ đồ bay mà hồn vía cũng bay theo, người lâng lâng muốn ngã quị. Người ta trao cho hắn chiếc áo thun trắng và quần màu xanh đậm của “US Navy” rộng thùng thình để mặc vào người, che dấu một nỗi tủi nhục cùng tột. Trong hắn lúc đó là nỗi buồn, sự giận dữ và niềm uất hận đang chen lấn nhau qua từng hơi thở. Hắn hận cho chính mình bất lực, cuối cùng cũng “trốn chạy”, bị sỉ nhục vì làm người Lính thua cuộc, dù rằng trong những năm khoác chiếc áo bay, hắn cũng đã vào sinh ra tử, lê lết trên thân tàu từ vùng II tới vùng IV chiến thuật, đã hai lần bị đạn phòng không của địch bắn rớt phải vào quân y viện. Để cuối cùng phải ra đi trong tức tưởi không lời từ giã. Hắn xa hẳn mẹ từ những ngày tháng đó.
Mẹ hắn, như có mắt thần soi thấu tâm can phèo phổi của đứa con, nên hiểu được tâm trạng của hắn từ lâu đã không trở lại nhà. Trước khi đưa miếng trầu với cau vào miệng, xỉa cục thuốc, thói quen của bà cụ hằng ngày, bà đã mò mẫm cầm tay hắn, bóp bóp mấy cái rồi chậm rãi:
- Bay đã dzề rồi, má gặp lại một lần như dzầy trước khi đi gặp ba bay là tao mãn nguyện. Tao biết, bay có khó khăn, khó xử. Nhưng thôi con à, chuyện gì cũng qua lâu quá rồi, có để mãi trong lòng cũng chẳng được gì đâu. Thiệt ra, nhà này được bình an là cũng nhờ nó, nếu không có nó đứng ra đỡ đần, che chở, thì tao với em gái bay làm sao chịu thấu, suốt ngày chúng nó cứ kêu lên xã để “làm việc” hỏi cung tra khảo, có làm ăn gì được đâu. Rồi bắt tao đi tìm, kêu bọn bay dzề, đi đâu kêu? Bao tháng năm dài có biết gì tin tức tụi bay đâu? Sống hay chết còn không biết mà, tao với em bay cuối cùng đành chấp nhận nó, để mà sống sót con à! Có Đấng Chí Tôn thương xót, sau đó bay nhắn tin dzề, còn sống ở bển. Má mừng. Từ khi thấy người ta dzề nước nhiều, tao dzà em bay cũng có mong bay dzề, nhưng bay cứ hẹn qwài mà không thấy dzề. Cũng may bay có gọi điện thăm thường xuyên, dzà gửi tiền dzề nuôi nấng gia đình đầy đủ, thôi dzậy cũng được. Cuối cùng bay cũng đã dzề, giờ má có chết cũng mãn nguyện!
Buổi chiều, hắn và người em đang ngồi tâm sự trước cửa nhà, có người mở cánh cổng sắt đi vào trên tay cầm mấy lá “cờ đỏ sao vàng”. Hắn khựng lại và nhìn trân trối vào người đàn ông trông gầy gò, đen đủi, ốm yếu, được em hắn giới thiệu là “ba của mấy đứa nhỏ”.
Người đàn ông niềm nỡ bắt tay hắn. Bàn tay xương xẩu, lạnh ngắt, tự nhiên làm hắn rùng mình.
Bữa cơm chiều đơn sơ, đạm bạc đầu tiên trong căn nhà mới, trên nền đất cũ của bao nhiêu năm tuổi nhỏ làm hắn chạnh lòng. Hắn trệu trạo những hạt cơm cứng ngắc, có cái gì đó ngăn chận, làm những hạt cơm như muốn dừng lại nửa chừng ở cuốn thực quản. Hắn gần như mắc nghẹn, khi người đàn ông là em rể hắn bắt đầu vào chuyện :
- Nước nhà đã “giải phóng” lâu lắm rồi, đã hơn 3 chục năm rồi, nhưng sao mãi đến bây giờ anh Hai mới dzề?
- Ừ thì bận lo làm ăn nuôi con vậy mà!
- Tôi không nghĩ đó là lý do chính đáng. Chắc anh Hai lo sợ một điều gì? “Đảng và nhân dân ta” lúc nào cũng coi “Việt kiều” là những “khúc ruột xa ngàn dặm”. Ngày trước lỡ ra đi thì bây giờ hãy trở về để xây dựng quê hương, Đảng và nhân dân ta rất “khoan hồng” và kêu gọi “xoá bỏ hận thù” lâu rồi mà, chắc ở nước ngoài anh cũng đã biết?
Rất bực bội, hắn ngó mẹ hắn, nhưng bà đâu có nhìn thấy nét mặt khó coi của hắn. Người em gái hắn, có lẽ “vô tâm” nên cứ ép hắn ăn, thằng cháu thì nín thinh ngó lơ chỗ khác. Tìm cớ thoái thác, hắn ậm ờ:
- Cũng có ý định về thăm nhà, nhưng bận làm kiếm tiền để lo cho mấy đứa nhỏ ổn định việc học hành tới nơi tới chốn.
- Thiếu gì người có con phải lo, nhưng người ta vẫn dzề hằng năm!
- Ừ thì…
Hắn bỏ lửng câu trả lời, sự uất nghẹn đang dấy lên, muốn thoát ra nhưng cứ bị chặn lại nên nó càng muốn bứt, sự bực bội dồn trên khuôn mặt. Hắn đang tự hỏi có nên nói ra những điều hắn nghĩ từ bấy lâu nay, hay nghe lời mẹ hắn mà bỏ qua tất cả, mua sự im lặng trong những ngày còn ở lại để mẹ hắn vui lòng? Thằng cháu nhìn mặt hắn, hình như đã hiểu đôi phần bèn gỡ rối:
-Ba để cho cậu ăn cơm, đi từ sáng giờ, cậu đói lắm rồi.
Mẹ hắn biết được tâm trạng hắn, cũng góp lời:
-“Trời đánh tránh bữa ăn”, đứa nào muốn nói gì thì ăn xong hãy nói.
Bữa cơm đầu tiên trong gia đình hơn ba mươi năm gặp lại, rồi cũng trôi qua. Hắn cố gắng nhìn kỹ người đàn ông, bây giờ là em rể hắn. Người đàn ông này mà là “kẻ thắng trận sau cuộc chiến?”
Với vóc dáng gầy gò, ốm yếu, con người khắc khổ trông già nua trước tuổi, nhưng nét mặt nhìn kỹ cũng không mấy thay đổi với người thanh niên ngày trước hắn gặp cũng tại nhà này.
Ngày đó, trong “Thánh thất”, nơi Ba hắn thường đi lễ, Ông đã gặp và động lòng trắc ẩn nên dễ dãi cho người thanh niên này đến nhà ở nhờ, vì nghe đâu hắn bị “mồ côi cha mẹ”, không nơi nương tựa nên phải vào chùa ở. Người thanh niên trông bề ngoài rất “ngoan đạo”, biết chữ nghiã và chơi đàn tranh rất hay, được mọi người trong đạo có cảm tình. Biết ba hắn thích đờn tranh, nên đã không ngần ngại đến gần làm quen và hứa đến dạy đờn cho ông Cụ. Mục đích anh ta đã đạt được trong mấy năm dài, khi mà nhà hắn trở thành một nơi chốn an toàn, và nơi mọi tin tức hành quân gì của “phe ta” đều được người thanh niên thâu lượm hết. Bao nhiêu bạn của hắn đã đến nhà thăm chơi, bao nhiêu người có chức sắc trong cảnh sát, trong quân đội, đều tạt ngang qua nhà hắn nói chuyện với ba hắn râm ran, vô tình khai vanh vách nay “tảo thanh” chỗ này, mai đi hành quân chỗ kia, nhất là những “căn cứ địa” của bọn cộng sản nằm vùng. Hắn không biết rõ ngày đó có bao nhiêu cuộc hành quân của “phe ta” bị thất bại? Nhưng rõ ràng là hắn cảm thấy giật mình khi nhớ lại. Một “thằng phi công” về thăm nhà, ngồi nói chuyện với tên “cộng sản nằm vùng” mà không hề hay biết.
Nhìn quanh một lượt, hắn đặt câu hỏi:
- Tại sao nguyên cả xóm mình, không nhà nào bị bom, bị cháy, mà chỉ có nhà mình bị? Hắn muốn chính tai nghe được câu trả lời thỏa đáng.
Người đàn ông suy nghĩ một chút rồi trả lời:
-Không giấu gì anh Hai, trước khi cả nước được “giải phóng”, nhà mình được chọn làm căn cứ cho “cách mạng” đặt bộ chỉ huy cơ sở, nên “bọn Nguỵ” nó chấm toạ độ pháo kích vào. Lúc đó thì mẹ và nhà em đã được “cách mạng đưa sơ tán” vào Chùa ở rồi.
Hắn tức muốn lộn ruột lên khi phải ngồi nghe những từ ngữ “cách mạng, nhân dân, giải phóng, khoan hồng v.v.”, mà từ lâu hắn ghét cay ghét đắng. Hắn muốn hét thật to cho vơi đi sự nghiệt ngã, trớ trêu. Thì ra chính hắn và gia đình hắn cũng đã góp phần vào việc làm “mất nước!” Dù vô tình, nhưng đã lơ là không truy xét “hồ sơ lý lịch” của đối phương. Mà làm sao xét được, khi mà trong phủ Tổng thống cũng đầy dẫy những tên “cộng sản gộc nằm vùng”, ngay cả trong binh chủng không quân của hắn, cũng có khối binh sĩ, hạ sĩ quan, ngay cả sĩ quan mặc quân phục không quân Quốc gia mà hoạt động cho cộng sản như tên pi-lốt Nguyễn Thành Trung chẳng hạn. Hắn nghĩ vừa giận vừa thương cho những người quốc gia quá trọng tình người, quá nhân bản, quá dễ dãi để cuối cùng làm người bị thua cuộc một cách tức tưởi, thảm hại.
Người đàn ông tiếp lời:
-Anh Hai đã dzề tới nhà rồi, cả nhà đều đoàn tụ, cũng nhờ ơn “cách mạng”. Bao nhiêu năm nay tui lo cho gia đình này, hôm nay anh có mặt ở đây, nên ngày mai tui mời anh Hai lên thăm “cơ sở ủy ban nhân dân hành chánh xã”, dù gì tui cũng từng là “bí thư chi bộ đảng”, không lẽ tui không “động viên” được “Việt kiều” về nước “đóng góp” cho xã ta.
Như thế này là quá rồi. Hắn muốn “tranh luận” với người đàn ông đang nhân danh “cách mạng” mà ra điều kể ơn. Rằng thì là: Nếu không có cái tên Hồ tặc du nhập cái đảng cộng sản hắc ám vào nước Việt Nam, và không có những tên nằm vùng, những tên cộng sản miền Bắc xâm lấn miền Nam, thì làm gì có chiến tranh giặc giã, để hắn phải làm người lính bảo vệ miền Nam với hai lần suýt chết, làm gì có cảnh ly tan, cửa nhà hắn đâu bị đạn pháo cày tan nát, mẹ và em gái hắn đâu lâm vào cảnh bị chèn ép để anh ta nhảy ra làm “ân nhân cứu mạng” rồi bây giờ đi kể công? Nhưng hắn nhìn mẹ hắn, nhớ lời bà vừa dặn hồi xế trưa, lại nhớ thêm lời vợ căn dặn trước khi lên máy bay:
- Về nhà, dượng Ba có nói gì thì cũng cố mà nhịn, mục đích là về thăm mẹ. Anh không có ưu thế nào để đi tranh cãi với một tên cộng sản còn gắn chặt hình ảnh đôi dép râu, cái nón tai bèo. Dượng ấy bị đầu độc quá lâu rồi, từ khi sống chui sống nhủi trong hóc hiểm trên núi Bà Đen chờ đêm đêm lẻn đi “giựt cầu, phá đường”. Nơi mà trên đầu suốt ngày trực thăng bay lên xuống xành xạch, dưới đất là lính đi lùng ban đêm. Mãi đến khi vô chùa làm tên “hiền huynh tu sĩ giả” mới dễ thở (?). Dưới mắt dượng ấy, anh cũng vẫn là một “tên giặc lái, tay sai đế quốc Mỹ”, và vẫn là “người thua trận nên bỏ chạy”. Dù anh có hét toáng lên rằng anh đi chiến đấu để bảo vệ miền Nam, chống bọn cộng sản xâm lăng từ miền Bắc, thì hãy coi chừng, chuốc họa vào thân. Nhớ mục đích là về thăm mẹ, không phải lúc để làm công tác đấu tranh! Bọn chúng thù dai và tiểu nhân lắm, chuyên xài luật rừng, chúng mà kêu lên xã để “làm việc” là không có ngày về, nếu không đưa nhiều tiền ra để “đấm mõm” bọn chúng, một hành động “làm tiền” rất có hệ thống, lớp lang với đầy đủ vũ khí trong tay. Hãy nhớ, mỗi người một hoàn cảnh, hoàn cảnh nhà mình nó trớ trêu, phức tạp, miễn mình đừng làm gì trái với lương tâm, đừng đứng dưới lá cờ máu của họ mà tuyên bố vung vít như tên tướng hèn râu kẽm của binh chủng anh, là không ai phiền trách gì đâu…
Hắn thở dài, tập vài hơi thở theo bài tập khí công để điều hoà lại nhịp đập con tim. Có ở trong cảnh ngộ mới thấm được nỗi đau, sự bực bội. Làm sao hắn có thể nói chuyện bình thường với người “cộng sản giáo điều” này, dù trong gia đình, có vị thứ anh vợ - em rể, nhưng hai ý thức hệ vẫn là hai lằn ranh cách biệt, hắn ghét cay ghét đắng lá cờ máu kia, lý do chính trong nhiều năm nhất định không về thăm mẹ, vậy mà phải nhìn ngồi người em rể vác về để sờ sờ trước mắt.
Hắn tự hỏi: Chẳng lẽ mình cũng là một người hèn? Không! ngày đó hắn “anh hùng” lắm chứ. Có những cuộc hành quân tiếp tế, chứng kiến trực thăng bạn bị cháy ngay trong vùng trời trước mặt, nhưng hắn vẫn bay qua dàn phòng không của địch để lao vào đạp những ống chứa nước bằng đạn pháo binh cho tiền đồn mà binh sĩ gần như sắp chết khát, hoàn thành phi vụ. Có những chuyến bốc quân, địch nã pháo gần ngay bãi đáp, nhưng hắn vẫn đưa con tàu xành xạch sà xuống để lính nhảy lên. Nhiều chuyến tản thương, mà bộ đồ bay dính toàn là máu, túi áo bay lúc nhúc những “dòi bò” vì không kịp kéo kín “phẹc-mơ-tuya”. Những ngày ở xứ người, hắn cũng đã tích cực đóng góp, tham gia vào những cuộc biểu tình, mít-tinh để chuyển lửa về trong nước, ủng hộ những người đấu tranh dân chủ v.v.
Nhưng bây giờ, ngồi đây, ngồi để nhìn một người đàn ông gầy gò, đen đủi, già nua “lên lớp” mà không thể mở lời đối đáp được sao? Hắn bèn gạt qua một bên lời mẹ và vợ dặn, phản ứng lại thật mạnh dạn sau khi nhờ thằng cháu nấu ấm trà nóng với mấy cái tách để ngồi… đối ẩm tâm sự.
Hắn bắt đầu với giọng nói chậm mà rõ:
- Bây giờ tôi không nói chuyện với anh (hắn lịch sự gọi người đàn ông) về cái đảng cộng sản, về nhân dân, về cách mạng gì ráo, ba chuyện đó đối với tôi chỉ là sự tuyên truyền láo khoét. Chỉ có ngần ấy chữ mấy anh cứ nói tới nói lui như con vẹt. Tôi chỉ hỏi anh một câu đơn giản, và hãy thành thật trả lời: Bao nhiêu năm nay nhà này làm sao có tiền để sinh sống, xây cất lại nhà cửa và con anh có thể lên Sàigòn học đại học?
- Thì do anh chị ở bên ngoài gửi về giúp.
- A ha! Vậy tiền đó là tiền Mỹ hay tiền Hồ?
Người đàn ông khựng lại, hắn được thể nói tiếp những điều rất thực tế, dễ hiểu may ra giúp người em rể, người cộng sản quanh năm suốt tháng lẩn quẩn lần quần trong cái xã xa thành phố, có thể “tỉnh ngộ”. Hắn đang làm công tác “tư tuởng” ngược? Có lẽ từ trước đến giờ chưa ai nói, không dám nói hoặc không thèm nói cho anh ta nghe, cứ nhịn mãi như mẹ hắn và cả em gái hắn nên anh ta không nhìn rõ được thực hư?
- Tôi nói cho anh nghe, bao nhiêu năm anh đi “làm cách mạng”, gây tang tóc điêu linh cho bao nhiêu người, cuối cùng anh được cái gì đâu, chỉ tôi xem? Chung quanh làng xóm của anh được cái gì, hay cũng còn nghèo xơ, nghèo xác? Lúc nào mở miệng ra cũng cách mạng, cũng nhân dân, mà không đủ sức nuôi nổi một gia đình. Anh còn mơ ngủ, hay không chịu sáng mắt ra. Mấy thằng cộng sản chóp bu, lãnh đạo cái đảng của anh, chúng nó giàu nứt đố đổ vách do ăn cướp của nhân dân, ăn hối lộ không nương tay, con chúng nó vung tiền ăn chơi như rác. Còn anh, suốt ngày cứ khư khư cách mạng, nhân dân, ôm ba cái lá cờ đỏ, lá cờ hại dân hại nước, tôi ghét cay ghét đắng. Anh khư khư giữ nó có thể thế cơm no bụng được không? Hay no bụng nhờ cơm áo gạo tiền từ xứ Mỹ?
Người đàn ông rướn mặt lên ngó chăm bẳm vào hắn, sự ngạc nhiên hiện rõ lên nét mặt. Được thể đứa cháu tiếp:
- Cậu nói đúng đó Ba à, bao nhiêu lâu nay con muốn nói cho ba hiểu ra, nhưng con sợ ba buồn. Người ta làm “cách mạng” giàu có, còn ba thì cứ ôm cứng bác Hồ, cái đảng cộng sản của ba, sợ bị phê bình là hủ hoá, sợ kiểm điểm gì đó, rốt cuộc nhà mình nghèo rớt mồng tơi, may mà con xuống thành phố học hành rồi làm việc cho công ty nước ngoài, nên cũng đỡ khổ. Nếu không có cậu mợ giúp đỡ thì nhà mình làm sao được như dzầy.
- Sao con ăn nói “phản động” dzậy?
- Ba với mấy đồng chí của ba cứ hay dùng từ phản động để áp đặt lên “tư duy” của người khác! Đứa cháu tiếp: Con và lũ bạn con từ lúc hiểu biết sự đời, tụi nó đâu có thèm để ý đến “Bác, đảng, cách mạng” gì đâu, miễn sao khi ra khỏi trường đại học, tìm được một chỗ làm tốt, thường là các công ty nước ngoài, sống thoải mái là được. Đứa nào mà vô đảng, chẳng qua chúng nó là con ông cháu cha, học dốt lại muốn làm ông to, bà lớn. Lớp nữa muốn tiến thân bằng con đường tắt, đâu có đứa nào còn tin đảng nữa, nhưng chúng không ngu gì nói thật, sợ công an tới nhà còng tay dẫn đi, chụp cho đủ tội lỗi nào là âm mưu chống đối đảng, phá hoại cách mạng, xâm phạm đến quyền lợi của nhân dân, mặc dù không người nào có một cây đinh ở trong tay, rõ ràng ai cũng biết cái “đảng của ba” đã dùng “bạo lực cách mạng” để đàn áp người ta mà!
- Nhưng mà…
- Không nhưng nhị gì cả! Hắn bồi thêm: nước Việt nam bây giờ đâu còn “xã hội chủ nghĩa” nữa, tụi nó theo tư bản hết rồi, mà bày đặt gọi “kinh tế thị trường” cho khác chế độ trước. Chúng đem “Bác Hồ” ra làm bình phong, dùng công an trị để doạ nạt, bắt bớ, bỏ tù những ai không a-dua theo bọn chúng. Ngày mai, anh thử lên xã ghi tên nghỉ mấy ngày, tui sẽ đưa anh và cả gia đình lên Sàigòn, để anh nhìn thấy bọn cán bộ chóp bu cái đảng của anh sống như thế nào, hay là nhờ có “cách mạng, nhân dân” mà tên nào cũng ở nhà lầu, đi xe hơi sang trọng, sống như ông hoàng bà chúa. Còn anh và một số đảng viên quèn cứ đem cái đảng ra dọa, ai nói đụng tới là bắt bớ giam cầm, làm khó dễ bà con…
Hắn nói xong một hơi, cảm thấy thoải mái vô cùng, nhưng cũng giật mình thót bụng. Bao nhiêu năm ở xứ sở tự do, muốn nói gì thì nói, nhiều khi có kẻ khơi khơi kêu tên “tổng thống” ra xài xể chơi, nhưng cũng chẳng bị gì. Có điều ở đó hắn nói, mà người nghe cũng đồng cảnh với hắn. Ở đây, trước mặt hắn là người cộng sản chính cống, dù chỉ là một tên cộng sản tép riu. Nhưng sự “bằng mặt không bằng lòng” sẽ khiến hắn bị công an còng tay bỏ vào tù, tẩn cho một trận, hoặc bắt “làm việc” liên miên để khủng bố tinh thần là điều có thể xảy ra. Hắn lại càng không muốn làm “người hùng nổi tiếng”, khiến vợ con hắn ở bên kia phải chạy đôn chạy đáo để kêu cứu, nhờ sự giúp đỡ, để cứu hắn ra. Mới nghĩ đến điều đó, hắn đã ớn xương sống. Thôi thì đàng nào hắn cũng đã có mục đích “về thăm mẹ”, không thể làm phiền đến gia đình, vợ con và những người đang đấu tranh chống cộng. Cả nước gần tám chục triệu người còn “ớn” hai triệu đảng viên (???), hơn hai triệu người đi tị nạn, cũng chưa thấy làm gì để dẹp hẳn được lá cờ đỏ kia, liệu một mình hắn, với vài câu nói bình thường, đâu đáng để “tàn đời trong ngõ hẹp?”. Nếu có bị chê là hèn, cũng đành!
Thế là hắn đã đưa mẹ và em gái lên thành phố ở cho đến khi hắn về lại Mỹ, dứt lòng rời xa, từ giã luôn căn nhà có cánh cổng sắt sơn màu đỏ, dù đó là nơi chôn nhau cắt rốn và rất nhiều kỷ niệm của tuổi ấu thơ.
Lê Thị Hoài Niệm
Nguồn: Sáng tạo
Nguồn: Sáng tạo
.
.
.
No comments:
Post a Comment