Thương
tiếc tiễn đưa “nhất phiến tài tình”: Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu
Nguyễn Tuấn Khoa | Báo Tiếng Dân
06/05/2025
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/09/1-100-1024x672.jpg
Điêu
khắc gia Nguyễn Thanh Thu. Nguồn: Nguyễn Tuấn Khoa
Điêu
khắc gia Nguyễn Thanh Thu tên thật là Nguyễn Văn Thu, sinh ngày 29 tháng 01 năm
1934, tức ngày 15 tháng 12 âm lịch, năm Quý Dậu, tại Gia Định. Ông là sĩ quan
Quân Nhu, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), cấp bậc Đại Úy (khi biệt phái năm
1969). Ông cũng là giáo sư Hội Họa trường trung học Võ Trường Toản, đồng thời
là giáo sư Điêu Khắc trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định.
Ông
Thu nói rằng: “Điêu khắc là nghề do thân sinh chọn, nghiệp giáo do tôi chọn,
còn binh nghiệp do tổ quốc đã chọn cho tôi. Tôi đã sống trọn cuộc đời cùng Nghề
và Nghiệp với lý tưởng TỔ QUỐC-DANH DỰ-TRÁCH NHIỆM”.
Nghề
Điêu Khắc và nghiệp Giáo Chức
Ông
Thu có năng khiếu hội họa đặc biệt khi còn nhỏ, nên được cha hướng theo nghệ
thuật. Năm 1949, học hết lớp Đệ Tứ (lớp 9), ông thi đậu trường Mỹ Nghệ Thực
Hành Gia Định (Ecole des Arts appliqués de Gia Đinh). Đây là ngôi trường
danh giá, thành lập từ 1913, do các họa sĩ Pháp giảng dạy nên ông có cơ hội tiếp
xúc ngay với mỹ thuật Phương Tây. Suốt bốn năm học, các thầy Pháp ngạc nhiên
trước tài năng của học trò nên khuyên ông theo con đường mỹ thuật cho đến trọn
đời.
Năm
1953 ông đậu vào trường Mỹ Thuật Gia Định, học cùng lúc hai ngành Mỹ Thuật và
Giáo Khoa Hội Họa trong 6 năm, mất gấp đôi thời gian. Họa sĩ Lê Văn Đệ, Giám đốc
trường, hướng ông theo lĩnh vực điêu khắc. Ông nói, trong sự nghiệp sáng tác của
mình có dấu ấn của thầy Đệ.
Tốt
nghiệp năm 1958, Ông được Bộ Quốc Gia Giáo Dục bổ nhiệm dạy tại hai trường:
Trung học Võ Trường Toản và Mỹ Thuật Gia Định. Nghiệp giáo chức được bốn năm
thì bị gián đoạn trong 7 năm do binh nghiệp. Năm 1969, ông được Biệt Phái Ngoại
Ngạch, trở lại dạy tại hai trường trên cho đến cuối tháng 4 năm 1975. Ông có
nhiều tác phẩm được lưu giữ tại trường Mỹ Thuật Gia Định nhưng tất cả đều biến
mất sau ngày Sài Gòn sụp đổ.
Nghề
Điêu Khắc và Binh Nghiệp
Ngày
17 tháng 2 năm 1962, ông nhập ngũ theo lệnh Tổng Động Viên. Ông học khóa 13 trường
Võ Khoa Thủ Đức, thuộc lực lượng Sĩ Quan Trừ Bị. Tốt nghiệp tháng 12/1962, ông
được bổ nhiệm tại “Trung Tâm Khảo Sát Kỹ Thuật Quân Nhu”, với chức vụ Chuyên
viên Đài Án Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa và Bốn Vùng Chiến Thuật.
Suốt
bảy năm trong quân ngũ, ông dành phần lớn thời gian để sáng tác đề tài người
lính VNCH, tất cả là những tuyệt tác của nền điêu khắc quốc gia đang vào thời cực
thịnh. Đó là tượng Ngày Về (giải thưởng Văn Học Nghệ Thuật Ngô Đình Điệm), tượng
Quyết Thắng, tượng Chiến Sĩ Vô Danh (bùng binh Tổng Đốc Phương), tượng Trung Liệt
(Nghĩa Trang Quân Đội Gò Vấp)… Trong đó bức tượng Thương Tiếc đặt tại Nghĩa
Trang Quân Đội Biên Hòa là một kiệt tác nghệ thuật mà người đời sau vẫn còn nhắc
mãi.
Các
đồng nghiệp nước ngoài đánh giá ông Thu là Điêu khắc gia xuất sắc nhất ở Việt
Nam. Đại tá H.G. Fuller, Bộ Chỉ huy Lục Quân Hoa Kỳ ở Việt Nam (USARV) đã viết:
“… xét về đề tài tượng đài chiến tranh, tôi trân trọng đặt tượng Thương
Tiếc và các tác phẩm khác của ông ngang hàng với bức ảnh nổi tiếng ‘Raising The
Flag on Iwo Jima’ (Dựng Cờ Trên Đảo Iwo Jima) ở Arlington” – sau này được dựng
thành tượng “Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ”.
Cuộc
bể dâu chấm dứt nghề điêu khắc
Sau
khi Sài Gòn sụp đổ, ngày 16/5/1975 một nhóm người đột nhập vào nhà ông Thu lúc
2h đêm, bắt ông đi. Ông bị giam, đánh đập tàn nhẫn đến gần chết rồi thả ra sau
7 ngày. Hành động này chỉ là một sự trả thù của nhóm người “bên thắng cuộc” chứ
không nhằm điều tra gì cả. Vào cuối tháng 6/1975, một nhóm người hung hãn đã
xông vào nhà ông đập nát các bức tượng, có bức cao 4m về người lính VNCH, đó là
bức Quyết Thắng và bức Thương Tiếc (bằng bê-tông là khuôn đúc của bức Thương Tiếc
bằng đồng). Bức Ngày Về nằm khuất sau những cây dây leo nên đã thoát hiểm.
Không
chứng kiến cảnh đập phá này vì một tuần trước đó, ngày 23/6/1975, ông đã nhập
trại tập trung để bắt đầu một cuộc tù đày giống như bao sĩ quan VNCH phải chịu
sau ngày chiến tranh kết thúc. Những ngày đầu tại trại Hàm Tân, biết ông là tác
giả tượng Thương Tiếc những người cai ngục đã dùng nhục hình, làm cho thính lực
của ông bị mất hoàn toàn. Tiếp theo là 7 tháng cùm chân rồi hai năm biệt giam
trong conex. Để khuất phục ông, những người quản lý trại giam đã bắt ông tạc tượng
ông Hồ Chí Minh để đánh đổi thoát khỏi biệt giam trong conex. Sau hai tháng
hoàn tất, ông đã cho ra đời bức tượng cao 4m… tượng ông Nguyễn Văn Thiệu!
Ngày
02/09/1977, trại giam Hàm Tân không có tượng Hồ Chí Minh để làm lễ mà thay bằng
sự ồn ào từ các tù nhân và sự nổi giận của các giám thị rồi biến thành trận đòn
thù dã man giáng lên tác giả của bức tượng.
Với
hành động bất khuất này, Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu đã tạo nên một tiếng
vang lan truyền ra khỏi biên giới quốc gia đang bị thế giới cô lập và mãi mãi
trở thành “một pho tượng” người lính VNCH bất tử.
Đào
thoát
Ngày
24/6/1983 ông được trở về với gia đình sau 8 năm tù và bị giam lỏng tiếp tại
nhà trong bốn năm. Ông đã sử dụng thời gian này để hồi phục sức khỏe, dạy điêu
khắc để chờ ngày vượt biên.
Hết
hạn quản chế, ông đã đào thoát qua ngã Kompongsom. Sau hai ngày lênh đênh trên
biển, ngày 28/12/1987 ông đã đặt chân lên đảo Ko Kut (Thái Lan) cùng với bức tượng
mẫu Thương Tiếc bằng thạch cao, cao 50cm đã được TT Nguyễn Văn Thiệu duyệt. Ông
lần lượt qua các trại tị nạn Leam Ngob, Panat Nikhom.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2021/09/1-101-1024x824.jpg
Điêu
khắc gia Nguyễn Thanh Thu với bức tượng mẫu Thương Tiếc bằng thạch cao, cao
50cm
Tại
Panat ông đã tạc bức Phật Bà Quan Âm, cao 4m theo yêu cầu của Hoàng Gia Thái
Lan và cũng để tạ ơn Người đã giúp ông thoát nạn. Cùng với bức tượng trong
trại tù Hàm Tân kể trên, đây là tác phẩm thứ hai của ông sau ngày 30/4/1975 và
cũng là tác phẩm cuối cùng trong sự nghiệp sáng tác ngắn ngủi của ông. Những
ngày sau đó ông chỉ tạc những bức tượng theo yêu cầu của bạn bè.
Sau
hai năm ở đảo, ông được định cư tại Hoa Kỳ.
Với
thính lực gần bằng không, ông thấy ngày càng bế tắc trong việc mưu sinh nơi xứ
người. Trong 15 năm sống ở Mỹ ông hy vọng từng ngày cộng đồng giúp ông phục dựng
lại bức tượng Thương Tiếc, nhưng điều đó đã không bao giờ đến. Không sống được
bằng nghề điêu khắc, ông không biết làm gì khác. Ông không tìm thấy niềm vui ở
chốn này và lặng lẽ trở về Việt Nam, bỏ lại cảnh cô độc cùng sự ngưỡng mộ của
muôn vạn người đồng hương tỵ nạn.
Trở
về mái nhà xưa
Cũng
với tâm trạng u uất như ngày trở về từ trại tù Hàm Tân, Ông âm thầm đến thăm từng
bức tượng trong sân nhà như kể lể:
“Ta
về như bóng ma hờn tủi.
Lục lại thời gian kiếm chính mình” – Tô Thùy Yên
Ông
linh cảm rằng, những linh hồn đang lẩn khuất quanh đây nay lại nhập vào tượng
đá để đón mừng cố nhân. Ông sống kín đáo, cô độc trong một căn phòng nhỏ ở cuối
mảnh đất rộng bằng một nửa sân bóng đá. Ông may mắn có sự quan tâm của người
cháu và một vài học trò cũ Võ Trường Toản lớp 6/5 khóa 1971. Tụi nó giúp ông vượt
qua những thiếu thốn trong sinh hoạt và sửa lại căn phòng khang trang với những
tiện nghi tối thiểu.
Ngày
Ông đào thoát khỏi Việt Nam và cả sau này, Bà Giáo dặn Ông luôn niệm để được Phật
Bà phù hộ lúc sinh – tử. Bà cũng luôn nhắc ông buông bỏ hận thù để tâm được an.
Trong ba
năm cuối đời, sức khỏe ông suy dần để rồi Ông đã ra đi vĩnh viễn vào ngày 6
tháng 5 năm 2025 tại tư gia, cũng là xưởng sáng tác năm xưa ở Gò Vấp. Giờ đây
Ông nằm xuống và đã cởi bỏ oán thù. “Anh nằm xuống cho hận thù vào lãng quên”
– Trịnh Công Sơn.
Thương Tiếc
Ông, một Tượng Đài bất khuất!
HÌNH
:
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/05/2025-05-06-20.32.46.jpg
Cáo
phó ông Nguyễn Văn Thu. Ảnh từ gia đình ông Nguyễn Văn Thu
Học
trò Võ Trường Toản sẽ mãi nhớ đến Ông và tìm thấy hình ảnh Ông qua bức tượng Đức
Hiệu Tổ Võ Trường Toản mà ông đã tạc năm 1974, hiện vẫn còn đặt tại ngôi trường
xưa.
Nguyễn
Tuấn Khoa (VTT
1971)
No comments:
Post a Comment