Thời đại Hồ Chí Minh khổ đến bao
giờ?
11/08/2023
https://www.danchimviet.info/thoi-dai-ho-chi-minh-kho-den-bao-gio/08/2023/29409/
https://www.danchimviet.info/wp-content/uploads/2023/08/nhung-tai-san-quy-nhat-thoi-bao-cap-1.jpg
Thời bao cấp (Ảnh mang tính minh họa)
Đó là câu hỏi thường trực trong đầu chú tôi,
cũng là câu nói thường xuyên xuất hiện trong cuộc sống hàng ngày của chú bao
nhiêu năm qua giữa bạn bè, người thân trong gia đình, cho dù thím tôi luôn can
ngăn: “có miệng thì cắp, có nắp thì đậy” ở tù một lèo mấy năm trời mà chưa chán
à? Nhưng như một phản xạ tự nhiên: Có bi thì phải phẫn, có phẫn thì phải phát,
miễn không phát ở giữa chốn đông người là được, nên thím can mãi cũng đành bỏ mặc
cho chú thích nói gì thì nói, đơn giản vì thím biết, dù thím có quỳ xuống lạy lục,
van xin, khuyên nhủ đến rách lưỡi, bắt chú phải im cũng không được vì trong
lòng chú lúc ấy là cả một khối bi phẫn hơn cả tấn thuốc nổ, nếu không để chú
phát ra thành lời theo kiểu quả bóng xì hơi, e rằng khối thuốc nổ sẽ biến thành
hỏa diệm sơn, hành hạ chú đến phát điên phát rồ, lại khổ thím và hai con…Cho
nên thím chỉ biết nuốt nước mắt vào lòng, tự an ủi mình, trừ khi chú quá đà, chửi
vung tí mẹt từ lão tổ trưởng ngu đần đến chính phủ lưu manh: “quản lý cái dạ
dày của dân chưa đủ, còn đòi quản lý cả tư tưởng, ý nghĩ, thông qua cái miệng của
dân nữa” thì thím mới dám giơ tay bịt miệng chú: “Ông nói ít thôi, từ 1945 đến
nay cả đất nước này bị hàm oan chứ chẳng riêng mình ông đâu. Thời đại chó nhảy
lên bàn độc, trị người tử tế lương thiện này, cho dù ông không hộc lên như lũ
chó, hay làm chó như lũ chúng nó thì ông vẫn phải sống chung với chó kia mà, đừng
tạo cớ để lũ chó đầu đàn đến nhà thộp cổ, xích tay ông như lần trước…”
Thuộc thế hệ con cháu, sinh ra giữa lòng Đảng,
Bác, chứng kiến bao cảnh bi hài, lộn ẩu, tội ác chất chồng của lũ lãnh đạo hèn
hạ, bạc nhược nhưng chuyện của chú kể thì tôi tin có một không hai trên đời
này, cho dù là chế độ xã hội chủ nghĩa nhưng tất cả các nước anh em khác như
Liên Xô, Tiệp Khắc, Hungary, Cu ba , Bắc hàn v.v không đâu có được .
Giọng kể đều đều và gương mặt thất thần, già
nua, hai ánh mắt đượm buồn của chú còn ám ảnh tôi mãi. Chú kể:
“Chú sinh năm 1954 đúng ngày giải phóng thủ
đô, ngày mà ông nhục sĩ Phạm Tuyên phạm tội tày đình là xuyên tạc lịch sử Hà Nội
qua bài hát: “Năm cửa ô đón chào, đoàn quân tiến vào, Hà Nội vang tiếng quân
ca” * thì chú oa oa cất tiếng khóc chào đời. Tưởng sinh ra giữa ngày trọng đại,
đầy ý nghĩa ,lại là tuổi ngựa, tha hồ bay nhảy, ai ngờ mắc phải chứng lý lịch
cuồng của lũ lãnh đạo dốt nát, cả gia đình chú bị lãnh đạo đảng và chính phủ
quàng vào cổ vòng sắt “Tiểu tư sản” ( tiếng lóng là tạch tạch sè) nên mãi tận
cuối cấp 3 chú mới vinh dự được kết nạp đoàn theo diện áp chót, nghĩa là ngày
31 tháng 5 tốt nghiệp ra trường thì 26 tháng 3 – ngày thành lập đoàn thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh) chú và một cô bạn “tạch tạch sè” cùng trường mới trở
thành đoàn viên, còn danh dự Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam thì có phấn đấu đến
mờ mắt, còng lưng cũng không bao giờ đạt được, cho dù gia đình cả hai bên từ đời
ông bà nội, ngoại đã phải hiến hàng trăm lượng vàng cùng năm, bảy căn nhà to vật
giữa phố cổ để đổi lấy danh hiệu “tiểu tư sản yêu nước” hòng yên thân với chính
quyền mới- do những ông bà chủ bần cố nông: ba đời củ chuối, măng mai ,quét
rác, đi ở, bán xôi, chuối hay bán bấc đèn ngoài vỉa hè, trước các cửa trường học
của Pháp, lên cầm đầu. Khác với cô bạn “tạch tạch sè”, cha mẹ chú chỉ vì giấu
hơn một chục lượng vàng trong bầu xoay của chiếc quạt trần cũ kỹ mà bị lũ gia
nhân mách lẻo, bị tịch thu luôn cả vàng với quạt, chưa đủ còn bị lão tổ trưởng
dân phố ghi vào lý lịch cụm từ : “cố tình biển thủ, không trung thực” nên bị
xóa vĩnh viễn hai chữ “yêu nước” chỉ còn lại cụm từ “tiểu tư sản” trần trụi.
Cũng may, nhờ số vàng khổng lồ cống hiến trước đó, kèm cả căn nhà đang ở cũng
biến thành trụ sở hợp tác xã may mặc mà bố chú trở thành tổ trưởng tổ cắt may,
sau sự cố không ngờ đó, bố chú bị giáng chức thành nhân viên, hưởng đồng lương
bố thí của chế độ mới. Từ ăn trắng, mặc trơn, tiền tiêu không tính đếm thành ăn
đói, mặc rách, tiền lúc nào cũng túng thiếu. Theo lời mẹ chú kể : “Phải ăn gạo
mậu dịch hôi rình, trấu sạn nhiều không kể xiết…Vì vậy ngoài 8 giờ vàng ngọc tại
hợp tác xã còn một giờ vàng mắt nhặt trấu, sạn trước khi vo gạo nấu cơm, kèm
vài chục giờ mỗi tháng dùng để chen lấn, xô đẩy, xếp hàng mua thực phẩm từ gạo
nước, mắm muối, rau quả…tất tật (chỉ trừ có chất đốt và rau được mua vào ban
trưa- lúc vắng người, còn tất cả các loại khác đều phải dạy từ hai đến ba giờ
sáng để xếp hàng chờ đợi được… phát chẩn).
Nghệt mặt như để tự giải thích mọi vô lý đang
hiện hữu sẵn trong đầu từ lúc mới sinh ra cho đến lúc này , nghèo vẫn hoàn
nghèo mà không biết đến bao giờ chữ nghèo mới không “kề vai, sát cánh” cùng chữ
khổ để thoát khổ đây ? Chú lạnh lùng kể tiếp:
– Đến đời chú thì tất cả đều nhẵn như chùi, hợp
tác xã giải tán vì hàng cũ bị tồn kho vì thời đại đã sang trang, tất cả đều cào
bằng, một năm 4 mét vải thô, người Hà Nội phải tằn tiện, chắp vá, đắp điếm lên
người sao cho khỏi tô hô giữa thanh thiên bạch nhật là tốt chán ra rồi, làm gì
còn vải mà đi may đo quần áo mới ? Cũng may bố chú là người nhanh trí, chuyển cả
gia đình nhỏ của mình lên gác 2, coi như đánh dấu chủ quyền để lãnh đạo hợp tác
xã cùng lãnh đạo thành phố(dưới sự điều hành của các hung thần thời đại là lũ
công an) không gây khó dễ hoặc tạo áp lực đuổi năm người gồm hai vợ chồng, hai
con nhỏ và ông nội của chú ra khỏi nhà…
Không chịu nổi áp lực của cuộc sống dưới chế độ
mới, ông bà nội chú lần lượt quy tiên. Trong khi thơ Tố Hữu ngợi ca: “ Chín năm
làm một Điện Biên. Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng” thì gia đình chú cũng
như bao nhiêu gia đình “tạch tạch sè” khác , khóc ngặt trong vuốt đảng. 9 năm
làm cuộc đảo điên, bao vành tang nhỏ đặt trên mái đầu”. Mẹ chú kể: “Trước khi
nhắm mắt xuôi tay, ông nội ốm ròng rã cả tháng trời, chỉ thèm ăn bát cháo gà
hay đĩa xôi lạp sườn mà khắp Hà Nội bói không ra. Không hiểu lãnh đạo thành phố
tài giỏi, uy quyền đến thế nào mà khắp thành phố không còn bóng dáng hàng ăn
quen thuộc? Tất cả chỉ là mậu dịch, đặc biệt những món ăn nức tiếng bình dân của
người Tàu như Tào phớ, lạp xường, lồ mai phàn, lốc biểu, bát bảo lường xà, phá
sang, Xực tắc, Chê gì chê, Cấy chúc, v.v** cũng mất tăm mất rạng…Chịu đựng mãi
, dường như không kiềm chế được sự thèm khát cứ dâng mãi trong đầu, do cơn thúc
hối của dạ dày, ông đưa đôi mắt thèm khát lên nhìn mẹ, cái nhìn van nài tha thiết:
-“ Ông thèm ăn bát phở bò quá, mẹ mày có giúp
ông được không’?
Như mọi khi, đôi mắt mẹ ầng ậc nước thay cho
câu trả lời: “ Ông ơi, tất cả đều quốc hữu hóa hết rồi, nhà nước cấm tất cả các
quán ăn, nhà hàng vì sợ vi phạm chính sách tiết kiệm lương thực. Vợ chồng con biết
tìm đâu ra bát phở bò đúng ý của ông đây? Lần trước chúng con bấm bụng mua phở
mậu dịch không người lái , à không nhân về để ông ăn, ông chê nước dùng mặn,
không nấu bằng xương hoặc thảo quả, bánh phở cứng quèo, chỉ béo hai thằng cháu
nội của ông thôi…Cả đời chưa biết mùi vị phở là gì, lại đang tuổi ăn, tuổi lớn
nên cứ trộn cơm nguội vào hít hà vị phở kèm hành, mùi thơm nồng vào là đánh
chén no kềnh bụng, như thế cũng là vi phạm chính sách tiết kiệm lương thực của
nhà mình và nhà nước đấy ông ạ. Ai đời tiêu chuẩn nhân dân có 15 ký gạo, 1 lạng
thịt một tháng , mà ăn một bữa hết bay ô tem phiếu 225 mg( tương đương một bát
phở mậu dịch) kèm cả bơ gạo đầy tú hụ , lại còn chất đốt, than củi, thời gian
cho gạo trong nồi chuyển hóa thành cơm nữa chứ ?
Ai ngờ chỉ sáng hôm sau là ông đi, gương mặt nửa
mếu nửa cười của mẹ khi trò chuyện với ông hôm trước, nay trở thành gương mặt mếu
xuệch, mếu xoạc. Tuy là phận làm dâu, khác máu nhưng không tanh lòng, vì mẹ
luôn thương và nể ông. Từng là tiểu tư sản nức tiếng một thời trên mảnh đất Hà
Thành mà không hề trịch thượng, quan cách, ngược lại ông luôn nhắc vợ và con
trai phải biết thương con dâu trong cảnh bĩ cực này: Về nhà chồng khi mọi thứ
đã sạch bách, bao nhiêu giường tủ, tràng kỷ, câu đối, hoành phi bị tổ trưởng dân
phố sai dân phòng bảo vệ khuân đi sạch, cả nhà chỉ còn đúng cái tủ xộch xệch kê
ở xó bếp đựng vài thứ lặt vặt của gia nhân, người ở còn xót lại, cơm ăn cũng chỉ
rau muống luộc kèm đĩa rạm rang muối mặn chát. Mỗi bữa, mỗi người được tiêu chuẩn
một con rạm để ăn cùng ba bát cơm gạo hẩm…Cả tuần, quanh đi quẩn lại cũng chỉ
có rau muống luộc và rạm tái xuất giang hồ trên mâm cơm…
Dù nghèo khổ, dù chỉ còn danh hão “tiểu tư sản”
(thực chất là vô sản dưới mức vô sản) thịt ba lạng, cá biển nửa ký, 13 kg gạo mỗi
tháng, trong khi các quan chức nhà nước thịt 1,2 ký, gạo 21 ký, nhà ở từ 48 đến
120 mét vuông , đi xe Volga bóng lộn, cha mẹ chú vẫn cố thắt lưng buộc bụng để
đầu tư cho hai anh em chú ăn học bằng người và hơn người. Cụ thể mùa đông buốt
giá hay mùa hè nóng bức, trời mưa bão chết cò hay sương mù đặc quánh, tuần nào
cũng đi xếp hàng sớm để mua thịt thủ, chân giò theo quy định một gấp đôi cho
hai con có miếng thịt, mẩu xương mút mát, còn cha mẹ chỉ “ăn mày quá khứ” nghĩa
là chỉ có đậu phụ, lạc rang mà vẫn nghĩ là ăn chả quế, chân giò từ trước ngày
giải phóng thủ đô. Cứ “con ăn ngon mẹ” nhường nhịn từ mẩu tóp mỡ , miếng bì lợn,
giọt mỡ cho con , hai vợ chồng chỉ chống đũa nhìn hai đứa con ăn hết bát này
sang bát khác là vui vẻ, hạnh phúc rồi. Vậy mà… chú kể, giọng bùi ngùi, chan chứa
:
– Nhiều khi thấy bố mẹ chia nhau mảng cháy ( hồi
đó phải đun củi hoặc mùn cưa chứ chưa có bếp dầu hay bếp điện, bếp ga, nồi cơm
điện như bây giờ) cứ tưởng ngon nên hai anh em lại tranh nhau nốt tảng cháy của
bố mẹ , đã thế thằng em chú lại đòi hỏi quá quắt: – Ứ ừ, con chã ăn cháy đâu, mẹ
phải phết mỡ, rưới xì dầu vào cháy con mới ăn cơ. Mà khổ, hồi đó có nửa cà mèn
mỡ nước trong nhà là cả một sự đầu cơ, tích trữ lớn, vài tháng có khi nửa năm mới
dành dụm được, trong khi ông bà chỉ có dưa chua nấu với mấy quả cà chua lõng
bõng, mỡ chỉ để dành xào rau, rán cá mỗi tháng một lần cho hai con, mà thằng bé
đòi hỏi quá đáng. Trong khi mẹ chú chống gối đứng dậy làm theo ý con thì bố chú
rơm rớm nước mắt đứng bên cạnh dìu mẹ:
-Để tôi giúp mình, khổ ăn như sư, ở như phạm
thế này, lấy đâu ra chất dinh dưỡng mà tồn tại, lại còn nhịn miệng cho con nữa,
làm gì chẳng hoa mắt, chóng mặt…
Lập tức mẹ chú quay mặt lại, đặt một ngón tay
lên miệng bố chú, sụyt nhẹ:
– Nói nhỏ thôi, mình cứ nghĩ đi, ngày xưa bằng
tuổi chúng nó, bố mẹ nuôi mình bằng cơm tấm, chả lụa, xôi lạp sườn, nào có tiếc
gì… Ngày nay con lên 10, 12 cả rồi mà cả hai thằng có biết hạt gạo tấm, miếng
chả giò, hay lạp sườn là gì đâu?
Ấy đấy, cứ tưởng cả nước gồng mình cho kháng
chiến trường kỳ, thắng giặc Mỹ, thống nhất đất nước rồi sẽ theo lời cụ Hồ:
“đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Dẫu không gấp mười lần xưa thì ít nhất bữa ăn
trong mỗi gia đình cũng phải đàng hoàng hơn, sang trọng hơn, không còn phải độn
khoai, độn mì, độn sắn nữa. Ai ngờ cứ đến bữa là bố mẹ chú phải đùn đẩy nhau:
-Thôi bà ăn cơm với các con đi, sắn khoai để đấy
tôi tải cho.
– Không được, đến mẻ không ăn cũng chết nữa là
người. Mình là trụ cột mà, mình phải ăn để có sức chăm lo cho tôi và hai con chứ?
Vào tận giảng đường đại học rồi, chú mới thấm
thía câu nói của bố mình :
“Sắn khoai khô cũng nuôi nổi con người.
Trí tuệ nghèo nàn không làm nên sự nghiệp”
Vì thế, muốn trí tuệ hai con được sáng suốt,
mong có ngày làm nên sự nghiệp lớn cho gia đình, dòng tộc, bố mẹ chú không tiếc
công sức, thời gian để bù đắp, đầu tư cho hai búp măng non trong nhà. Mang tiếng
“lớn lên trong lòng cách mạng” mà bị cách mạng trực tiếp bóc lột trắng trợn từ
của cải, niềm tin , từ đời ông cha, còn bạo tàn, mãnh liệt hơn đời cụ kỵ sống
dưới chế độ cai trị của thực dân Pháp (chỉ máu đỏ mà da không vàng, tóc cũng
không đen, mũi cũng không tẹt như chế độ hiện hành)
Thấy chú cứ con cà, con kê mãi, thím phải nhắc:
– Thôi trưa rồi, hai chú cháu đi ăn cơm kẻo muộn.
Nghe hai từ “ăn cơm” tôi vội từ chối vì ở nhà
thì thôi, chứ hễ bước chân ra cửa là mẹ lại dặn:
-Đi đâu thì đi, ở đâu thì ở, cứ đến bữa là phải
về nhà nghe con. Thời buổi tất cả sống bằng đồng lương bố thí này, có khéo co đến
mấy cũng chỉ đủ hai đến ba tuần thôi còn bảy đến mười ngày còn lại là cháo
loãng cầm hơi con ạ. Vì thế đừng để ai khó xử nghe con, bớt bát mát mặt con ạ.
Nhìn đồng hồ mới 11 giờ kém, chú năn nỉ:
– Ơ hay cái bà này, nó là cháu tôi, tôi biết
rõ tính nết nó chứ. Nó không ăn không, ăn hỏng của bà một hạt cơm, một mẩu thịt
nào đâu mà bà lo . Cứ để tôi nói nốt đến 12 giờ sẽ tự giải tán, bà có đói thì
ăn trước đi.
Nhấp một ngụm trà chú nhăn mặt:
-Rõ là chè Ba Đình của ông mậu dịch có khác,
chè này bố chú bảo ngày trước chỉ để ướp xác người chết hoặc tắm cho ngựa không
bị ghẻ mà thôi. Thời buổi Đảng lãnh đạo, nhà nước làm chủ có khác , cái gì cũng
thành của ngon, vật lạ đem phân phối, à bố thí cho cán bộ công nhân viên nhà nước
được, giỏi thật…
Tôi đắng miệng, nhấp nhổm đứng lên ra về, chợt
chú giữ tay tôi lại:
-Để chú kể đoạn trường đứt ruột của chú cho
cháu nghe, xem tất cả các tội phạm từ trước đến nay từ thường phạm, hay hình sự
có ai giống chú không nhé? Tất cả chỉ từ sự nghèo nàn, khổ ải, túng kiết mà ra.
Hồi ấy đầu thập niên 80, thống nhất năm , bảy
năm rồi mà cả nước vẫn vật lộn trong những ô tem phiếu, cả nước húp chung một
niêu cháo loãng, còn khổ hơn thời kỳ trước 1975 cháu ạ. Thời trước, ít nhất
cũng sống bằng hy vọng, niềm tin: “ Đói khổ chỉ là giai đoạn nhất thời, ngày một
ngày hai, chỉ cần đất nước, chính quyền về tay nhân dân là tha hồ độc lập, tự
do hạnh phúc, đúng như câu khẩu hiệu chăng kín trong nhà, ngoài ngõ, trên mỗi đề
từ của các loại mẫu, đơn do nhà nước quy định, ban hành…Ai ngờ cuộc sống càng
ngày càng bế tắc, ăn đã khổ à… đồng hóa đã khổ mà dị hóa còn khổ hơn (Đang là
sinh viên đại học nên tôi biết: Con người muốn tồn tại phải trải qua quá trình
trao đổi chất, gồm đồng hóa :ăn vào và dị hóa : Thải chất cặn bã ra). Ăn như
chú kể: Khổ hơn sư trong chùa, vì sư còn được ăn rau tươi do tự tay mình trồng,
còn tầng lớp nhân dân lao động hay cán bộ công nhân viên thì phải ăn rau mậu dịch,
dập nát do quăng quật, vận chuyển từ các hợp tác xã nông nghiệp nơi ngoại thành
xa lơ lắc, dưới trời oi bức, mỗi lần xuất, nhập là phải lưu kho cả ngày hay vài
ngày trời mới đến tay người tiêu dùng… ở thì chẳng khác gì tội phạm trong nhà
tù nhỏ xã hội chủ nghĩa so với quy định ngặt nghèo của nhà nước: Cố gắng phấn đấu
đạt mức trung bình mỗi đầu người từ 2 đến 3 mét vuông diện tích… Sự thiếu thốn
khi ấy biểu hiện trong từng chi tiết, thiếu từ mẩu giấy đi vệ sinh thiếu đi (
Nhăn mặt, chú thốt ra một lời bình luận làm tôi chết lặng: Hình như đảng và
chính phủ cho rằng con người mới Xã hội chủ nghĩa, chỉ cần ăn, không cần …thải
hay sao ấy? Mọi vật dụng thiết yếu trong sinh hoạt hàng ngày như khăn mặt, bàn
chải, thuốc đánh răng, xà phòng vv , dù có thiếu, nhưng vài tháng đến nửa năm
còn được cấp phát một lần hoặc có thiếu vắng cũng chẳng sao, cho dù dùng một
tháng khăn đã rách tướp mà chưa có khăn mới thì cứ tiếp tục dùng đến khi nào
không thể rách hơn được nữa thì thôi, lại dùng tay rửa mặt như chú mèo lười
trong lời bài hát vậy: “ Meo meo meo rửa mặt như mèo. Xấu lắm nhé chẳng được mẹ
yêu. Khăn mặt đâu mà ngồi liếm láp, đau mắt rồi lại khóc meo meo” Còn bàn chải
đã mòn vẹt mà chưa có thì lại mòn tiếp, có méo mó hơn không, không có thuốc
đánh răng thì súc miệng nước muối , có sao đâu, khổ mãi thì cũng quen rồi,
nhưng kẹt nhất là giấy vệ sinh, vốn không thuộc trương mục cấp phát của nhà nước,
nên báo Đảng, báo ngành, tập san các loại được tận dụng tối đa ở các cơ quan
nhà nước. Cứ hở ra tờ nào là 15 phút hoặc nửa tiếng sau biến mất, ai cũng nghĩ
toàn nghị quyết, giáo điều, lừa mị, sáo rỗng, ai đọc ? Mình không nhanh mắt,
nhanh tay thì thằng khác cũng lấy mất. Trong trường học, ngoài khoản báo Đảng,
báo ngành do hiệu trưởng, hiệu phó tranh thủ đọc những lúc cơ thể tăng cường
trao đổi chất, “bể phốt” rộng toang hoác, tống các chất cặn bã ra, thì các thầy
cô cũng áp dụng phương pháp : Làm nghề gì, ăn nghề ấy. Thợ may ăn vải, thợ vẽ
ăn hồ, thì thợ chữ ăn… giấy đã qua sử dụng, nói chính xác hơn là các bài kiểm
tra của học sinh, cô hoặc thầy chỉ trả bài cho các em xem chỗ đúng, chỗ sai
trên phần bài của mình rồi lớp trưởng, tổ trưởng, lớp phó phụ trách học tập thu
lại để cô cho điểm vào sổ bộ môn cuối năm hoặc cuối học kỳ tổng kết( thực chất
là cô đem về nhà để con cái gấp máy bay, tàu thủy, còn chồng cô sẽ lặng lẽ xếp
gọn vào góc bàn, hộc tủ, hoặc ngăn kéo nào đó để hàng ngày đi vệ sinh. Người
thành phố văn minh, lịch sự, được thừa hưởng văn hóa Đảng thì như vậy, còn ở chốn
thôn quê hẻo lánh, chưa có hố xí hai ngăn do Đảng sáng lập, kêu gọi thì tiện
đâu bậy đấy, bờ ruộng, đường tàu, ven hồ, bãi rác … không có báo Đảng phục vụ
thì vơ cỏ quệt lỗ đít, hoặc dùng que quệt ngang quẹt dọc cho hết phần chất thải
còn sót trong ruột đi. May mắn nhất là dùng các loại lá cây hoặc nước mương, nước
suối rửa sạch…Chỉ vì không muốn xa rời các nghị quyết, chính sách của Đảng mà
chú – vốn là một nhà khoa học chân chính, đang làm việc tại một viện nghiên cứu,
cũng luôn tay năm tay mười nhặt hết các loại tạp chí chuyên ngành đến các tài
liệu báo cáo khoa học đã quá thời gian sử dụng cho vào cặp để đem về phục vụ
cho nhu cầu tự thân của cả nhà, vừa nhóm bếp, vừa chùi đít sau khi đi vệ sinh.
Trong các loại giấy chú đem về, cả nhà thích nhất là các báo cáo khoa học đánh
máy chữ bằng giấy pơ lya mỏng, mềm, vừa êm lỗ đít, vừa ít mực xanh đỏ lòe loẹt
và dày cộp như báo nhân dân, Hà Nội mới . Tuy vẫn phải dùng tay vò nhưng độ vò
cũng ít hơn mà độ mềm thì tuyệt đỉnh, không có loại giấy vệ sinh nào vào thời
điểm 1975- 1990 ấy sánh được. Biết chú tuy vợ con đề huề, nhưng có ông bà nội
ngoại giúp sức và cô vợ đảm đang tháo vát lo việc thức khuya dậy sớm đong gạo,
lấy nước từ vòi công cộng, nên hay nán lại cơ quan mày mò “ngâm cứu”, mơ hão đến
một ngày nào đó sẽ ra được một phát minh mới xứng tầm thời đại để báo cáo tại
viện hoặc cấp nhà nước, hay bên ngoài biên giới …ông bảo vệ, vốn là một sĩ quan
quân đội bị thải loại vì tội hách dịch, coi thường lính, bắt lính phải phục
tùng mệnh lệnh theo kiểu “nước sông, công lính” khi đầu quân vào làm bảo vệ ở một
viện nghiên cứu khoa học, vẫn “non sông dễ đổi, bản tính khó rời” liền bẩm báo
với cấp trên về tội “đi sớm về muộn”, không tôn trọng thủ trưởng cũng như coi
thường cấp dưới, một mình một kiểu, không hòa đồng với đồng nghiệp, nhân viên
trong viện, lại có tính hay nhặt nhạnh, vơ vét. Nhiều khi ông trực từ 5:00 chiều
đến 12:00 đêm, trong khi cả viện vắng ngơ vắng ngắt, buồn tình ông mò lên các
phòng ban, vừa mang tính kiểm tra, vừa lấy báo để theo dõi tin tức cho đỡ buồn
mà phòng nào phòng nấy trống trơn, sang phòng chú thấy chú đang tay năm tay mười
thu gom hết từ báo cáo khoa học đến các loại báo giấy, tập san cho vào cặp, đến
mức bồ đựng rác trống rỗng, không còn một mẩu giấy vụn. Đáng lẽ thấy có người
vào thì phải niềm nở, đón ý, hay chí ít cũng là thanh minh cho việc làm vụng trộm,
không mấy hay ho của mình, đằng này cứ coi như không có chuyện gì xảy ra, còn
mai mỉa, thóc mách:
-À cụ đấy à. Khỏe không? Chịu khó leo mấy tầng
cầu thang lên đây làm gì vậy ? Không sợ tiêu hao năng lượng vô ích à ?…Thời buổi
đồng lương tháng chém người như chém cá này, phải biết quý trọng từng calo năng
lượng cũng như dè xẻn từng hào, từng xu lương thưởng đấy cụ nhé, “quẫy nước” vừa
phải thôi.
Giải thích việc trút cả đống giấy vụn trong bồ
đựng rác của cơ quan vào cặp đem về cho vợ nhóm bếp, chú cười lạnh:
– Ồ Thời đại nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ
thì người người tận dụng, nhà nhà tranh thủ , tăng xin, giảm mua, tích cực cầm
nhầm” phải không cụ?
…Thủ trưởng đơn vị mang danh là phó tiến sĩ
nhưng đúng kiểu “một con bò dắt qua Nga khi về cũng thành phó Tiến sĩ , một chữ
Pháp, Anh không biết, tiếng Nga thì “nhì nhằng biết chữ, biết chữ nhì nhằng”. Mỗi
lần có đoàn cán bộ từ Nga sang phải cầu cạnh chú giao tiếp, phiên dịch hộ, bị
chú bỉ mặt trước toàn Viện: “ Ô hay, anh là đảng viên, lại đảm nhận trọng trách
lớn, được đào tạo tại Liên bang Xô viết, còn tôi thành phần tiểu tư sản trần trụi,
có được bước chân lên máy bay hoặc sang Nga lần nào đâu, sao lại bắt tôi phải
tiếp đón giao dịch với họ, nhỡ có chút sơ xuất hoặc nhầm lẫn nào thì tội trời
ai mang, nắm thằng có tóc, chứ ai nắm kẻ trọc đầu?
Tất nhiên miệng đe, tai nghe thôi chứ công việc
dịch thuật thì chú vẫn làm và như một nghịch lý, sau mỗi lần tiếp đón như vậy,
người được mời sang nước bạn làm việc để ký kết các hợp đồng quan trọng lại là
Thủ trưởng, còn chú cứ tiếp tục ca bài ca “tạch tạch sè”( tịt tịt rồi) muôn
năm.
Để trả thù cái thói kiêu ngạo không đáng có của
chú, cả hai quyết định bày binh bố trận cho chú vào tròng. Cụ thể một xấp giấy pơ lia giày cộp đóng dấu
mật và tối mật chi chít được nhét vào ruột của tờ tạp chí chuyên ngành cũng như
báo đảng được bí mật chuyển lên bàn làm việc của chú vào cuối giờ chiều, khi mọi
người trong phòng đã lần lượt ra về còn chú bị gọi lên phòng sếp phó giao việc
như mọi khi…
Việc không may ngay lập tức đã xảy ra, đầu tuần sau Viện trưởng đi báo cáo khoa học
tại một hội nghị quan trọng, khi mở cặp ra thì tài liệu đã không cánh mà bay ,
thư ký hớt hải đạp xe thục mạng về cơ quan lục từ ngăn kéo bàn đến chiếc tủ đựng
tài liệu mật…Thủ trưởng sau vài câu nói
vo nhằm vớt vát thể diện cũng là để xin lỗi các vị đại biểu có mặt trong phòng
liền vội vàng theo một nhóm công an của cục Phản Gián( gọi tắt là P35) leo lên ô tô co măng ca về lại viện triệu tập
cuộc họp khẩn cấp để truy tìm thủ phạm. Vốn nghĩ mọi việc chỉ là sự sơ suất, do
hiểu lầm nên chú mạnh dạn nhận lỗi về mình, hi vọng sẽ kịp về nhà để sửa sai, lấy
lại tập tài liệu mật, phục vụ cho công tác
điều tra …Suốt 4 tiếng đồng hồ lục soát, tập tài liệu đã lặng lẽ biến mất, mẹ
chú ngơ ngác thú nhận:
-Trời! Đêm qua mất điện, nóng nực khó ngủ nên
sáng sớm mẹ đã cẩn thận dọc giấy báo thành những mảnh nhỏ, phần thì giành nhóm
bếp, phần để đi vệ sinh như mọi khi, chắc
mấy buổi sáng, con vợ mày nhóm lò, do phần mùn cưa mua của xưởng mộc còn
ướt, khó cháy nên đốt hết rồi. Còn bố mày có sử dụng vào việc “tẩy trần, xổ ruột”
như thói quen mỗi sáng rồi ném vào hố xí công cộng hay không thì tao không biết
nữa. Còn…
-Còn… còn
gì hở mẹ? Giọng chú thúc hối, ánh
nhìn van nài, khẩn thiết:
-Lúc 6:00 sáng nay, mẹ biết con Ngân nấu mì sợi
với cà chua cho cả nhà ăn sáng như mọi khi, nhưng cả tuần ăn mì sợi không mỡ với
muối trắng mãi cũng đớ, nên mẹ lén ra đầu
phố mua hai gói xôi trắng, muối vừng cho hai ông bà già ăn, vừa no đến tận trưa, vừa rẻ hơn các loại phở,
bún, miến khác vì bà bán xôi vốn là mẹ của thằng Huy, bạn học cấp III với con.
-Trời ơi,
chú kêu to, việc khẩn cấp thế này
mà mẹ cứ cà kê, dê, ngỗng mãi. Bác Mai,
mẹ thằng Huy Lấm Chân à Lâm Chấn Huy thì liên quan gì đến đây?
-Thì bác ấy than không đủ giấy gói xôi, chỗ
người quen lại ngay đầu ngõ nên Bác ấy bảo chịu khó quay về lấy bát xứ hoặc đĩa
men ra bác ấy xới cho, trông còn ngon và lịch sự hơn mọi khi gói trong giấy bản. Thấy bác ấy là người quen
biết lâu năm nên mẹ về vơ hết chỗ báo còn lại cho bác ấy .
-Trời ơi! Bố chú chỉ còn biết thốt lên: – Bà
giết con rồi, báo Đảng chỉ lưu hành nội
bộ, từ phòng khách xuống nhà bếp đã là
thiếu ý thức rồi, mà bà còn đem cho bà
bán xôi tận đầu ngõ, giờ biết thu hồi làm sao đây?
Mẹ chú phân trần:
-Ngày nào bà ấy cũng ngồi bán ở ngay đầu ngõ
nhà mình, nơi có nhiều trường học, bệnh viện đông người qua lại nên chỉ 9:00 là
hết hàng, hôm nào muộn nhất cũng chỉ 10 giờ …
-Đi thôi! Mời bác, viên công an ra lệnh:
Chiếc co măng ca khó khăn lắm mới thoát ra khỏi
hàng rào người tò mò chen lấn đông đặc, ai cũng bảo : “cán bộ nhà nước, làm ở viện nghiên cứu khoa học thì chỉ có chữ…
Kiểu này là tội tiết lộ các bí mật nghiên cứu do nhà nước quản lý đây, các ông các bà ạ. Rõ khổ!
Cái ngõ nhỏ đông người qua lại nhưng bóng dáng
bà bán xôi đã không còn, liếc nhìn đồng hồ đã 11:00 giờ trưa,
viên công an hạ lệnh:
-Đề nghị bác gái xuống xe đi bộ về nhà, còn anh Huân ở lại làm việc với cơ quan an
ninh chúng tôi!
Nghe thủng câu chuyện, nó thở hắt ra một hơi nặng chịch:
-Thế là chú bị đi tù ạ? Quả thật nếu không
nghe tận miệng chú kể và sự xác nhận của cô, cháu không tin là trong xã hội chủ
nghĩa ưu việt lại có những chuyện dở mếu, dở cười như thế.
– Ừ người chú chán ngán đáp : – Đau một cái là
tù cao su không án mới chết chứ. Thời ấy Hà Nội còn nghèo nàn, xơ xác lắm, nhà
nhà đi bộ, đồ đạc quý giá nhất chỉ là cuốn sổ hộ khẩu, đôi dép tổ ong dưới
chân, vài ba bộ quần áo cũ thay đổi, nếu
có cái xe đạp cà tàng để đi là may mắn lắm
rồi, vì
xe đạp cũng phải có biển số và đăng ký tại cơ quan công an kia mà, vì thế
những thằng tù chuyên ăn cắp vặt như mũ
cối, dép râu, xe đạp , móc túi v.v chỉ bị
từ 3 đến 6 tháng, thậm chí một năm là kịch đường tàu, bởi xét cho cùng,
đến viên chức, cán bộ nhà nước còn đói
nhăn răng, lấy đâu ra lương thực mà nuôi chúng nó? Còn chú chưa đến mức quy tội phản động nhưng
điều tra viên cũng chán ngán bó tay:
– Tội của anh -xuất thân trong gia đình tiểu
tư sản, lại có người theo địch vào Nam từ 1945,
30 năm sau, khi nước nhà thống nhất lại theo chân thực dân, đế quốc, định
cư ở Pháp. Bản thân anh chưa có tiền án,
tiền sự gì , nhưng lý lịch không rõ ràng, động cơ cũng không xác định được, anh biển thủ các báo cáo khoa học bí mật của
viện, cũng là của nhà nước để làm gì? Nếu hôm lục soát nhà, chúng tôi thu được
bằng chứng thì anh có thể bị đưa ra tòa kết án. Sau thời gian thụ án, anh có thể về. Tiếc rằng vật chứng đã bị phát
tán qua tay bố mẹ và vợ anh cùng với bà
bán xôi đầu ngõ, rồi từ đó lan ra khắp
thành phố nên rất khó để chúng tôi buộc
tội hay khép lại vụ án… Tất cả bây giờ trông vào sự thành khẩn của anh thôi.
– Trời! tôi ngửa cổ kêu: – Đúng là bé xé ra
to, vô tội thành có tội. Thật không hiểu cái nhà nước này ưu việt ở chỗ
nào nữa?
Kim Đồng hồ đã chỉ sang số 12, ông chú mệt mỏi
đứng lên:
-Ờ nỗi oan của chú hệt như cụ tiên Điền Nguyễn
Du viết trong truyện Kiều ấy:“tiếng oan dậy đất, án ngờ loà mây”, đành sống để dạ, chết mang theo thôi cháu ạ.
Biết giới hạn của cuộc nói chuyện đã kết thúc,
tôi hỏi vớt vát một câu:
-Thế cuộc sống của chú sau khi ra khỏi tù ra
sao? chả lẽ từ đầu thập niên 1990 đến nay chú chỉ sống bằng tiêu chuẩn nhân
dân, tháng một lạng thịt, 13 kg gạo hay sống nhờ vào vợ con ạ ?
Vịn tay vào mép bàn thô mộc, đã gần hết giá trị
sử dụng, trên mặt loang lổ các vệt đen ,
đỏ do ngấm nước chè, mực xanh, mực tàu…chú khó nhọc thú nhận:
-Cuối năm 1986, nhà nước tiến hành đổi mới tư
duy, nhưng đời sống vẫn khốn khổ bấp bênh lắm, nhất là gia đình nhỏ của
chú, bố mẹ mất cả , con cái thiếu sự
chăm sóc của người cha nên học hành được chăng hay chớ, chỉ có mỗi cái may mắn
là thím mày không bỏ chú thôi… Ngày chú ra khỏi tù gày đen như quỷ đói, ghẻ lở mọc đầy thân, hai
đứa con phải vừa dìu, vừa xốc nách bố , đi bộ từ Hỏa lò về nhà chứ chẳng có tiền mà đi xích lô, hoặc
có xe đạp mà đèo nhau cháu ạ.
Từ ngoài cửa, bóng một thanh niên gầy nhẳng
lao vào, tôi nhận ra đó là thằng Hoàng, nhân viên tổ hợp sản xuất lọ mực nhựa
không đổ cho học sinh, biết tôi quan tâm đến câu chuyện không may của gia đình,
nó kể:
-Chẳng ai như bố em, người ta làm khoa học, nếu
không may phải “Bút sa gà chết” đã đành, còn bố em chỉ vì tham mấy tờ giấy lộn
mà…thâm hết cuộc đời luôn. Nếu không có mấy bác ở Viện thương tình, bí mật nhường
cho phần phiên dịch tài liệu từ Tiếng Việt sang tiếng Nga và ngược lại, thì
đúng là ăn cám, như lão bảo vệ thối mồm
, rách chuyện ở viện tuyên bố.
Nhìn đứa con, giống vợ hơn giống mình cả về
tính nết, cách ăn nói, chú thở dài, thú nhận.
-Đảng triệt tiêu mọi đường sống của chú nhưng
trời thương, nên ngay sau khi thành trì xã hội chủ nghĩa của các nước anh em sụp
đổ, tiếng Nga vẫn được coi là ngoại ngữ chính thống cháu ạ, vì thế ông Viện trưởng
mới, biết chú oan mười mươi nên bí mật
nhờ người đến nhà giao tài liệu nhờ chú dịch hộ và trả tiền đều đặn mỗi tháng 80
đồng, vừa đủ mua 10 cân gạo mậu dịch giá 40 đồng và 10 kg rau, kèm chất đốt cháu ạ,
không phải sống nhờ vào sự tần tảo, nhịn ăn nhịn mặc của thím và hai thằng lỏi
con là may rồi. .. Việc làm ý nghĩa nhất
của chú trong thời gian ấy là dịch cuốn “những cây thuốc và vị thuốc Việt
Nam” của Tiến sĩ Đỗ Tất Lợi từ tiếng Việt sang tiếng Nga, nhờ thế mà nhà chú mới bắt đầu có của ăn của
để.
-Của ăn, của để gì? Tiếng bà thím từ trong bếp
vọng ra: – Nhờ công thức ngày, thức đêm của ông ấy mà bản thảo cả nghìn trang đổi
bằng một cà mèn đựng mỡ mỗi tuần, thay vì chỉ rau muống luộc, dưa cà quanh năm như trước thì tôi có thêm tiền
để mua thêm chục cân gạo mậu dịch cho hai thằng quý tử nhà này, ngoài ra mỗi bữa có thìa mỡ để xào dưa chua và ngoáy
vào đĩa lạc rang muối để ăn cho có chất cô ạ, chứ tiền để đi học thêm cho hai đứa,
mỗi tháng 40 đồng cũng có đâu, cả hai đành chịu cảnh trượt đại học, đi làm công
nhân cả đấy chứ.
– Thế là quý lắm rồi , chú kể: – Lần đầu tiên
trong đời chú đi thăm bạn bè mà có nải chuối cầm tay, còn đầu giờ chiều được cô
pha cho một cốc nước chanh đường để uống mới có sức mà cầy tiếp. Khẩu phần ăn tuy chỉ dưa chua, lạc
rang, đậu phụ, nhưng năm thỉnh muời thoảng
cũng chạy qua hàng gà, à trứng gà, một bữa hai quả hẳn hoi chứ không phải một
quả mỏng dính, khi gắp cũng không lo chạm mắt vợ hay mắt hai thằng con háu đói,
đang tuổi ăn, tuổi lớn nữa.
Nhấp ngụm chè cám cho phải phép, tôi cất tiếng
xin phép ra về và đang đà cảm xúc liền nhịn ăn để ngồi viết luôn câu chuyện có
thật kèm câu cảm thán của người chú tội nghiệp : Thời đại Hồ Chí Minh khổ đến
bao giờ? Cho dù là nhà khoa học có tài, giỏi chuyên môn, ngoại ngữ, biết nắm bắt
vận mệnh nước nhà giữa cơn xoay chuyển của lịch sử, thế giới, ông mạnh dạn chuyển từ tiếng Nga
sang tiếng Anh và nhanh chóng làm chủ tiếng Anh để sống bằng nghề dịch thuật và
đi dạy ở các trung tâm ngoại ngữ…Nhưng cuộc sống đâu chỉ có cơm ăn và áo mặc,
đâu chỉ thỏa mãn bần cố nông theo kiểu con người mới xã hội chủ nghĩa: “cơm ba bát, áo ba manh” mà cấm kêu nghèo, kể
khổ, cấm nói xấu Đảng và Nhà nước, dù chỉ nói sự thật trên cơ sở cái xấu đã lộ
lộ phơi bày. Cuộc sống mà theo chú nhận định: “Chỉ là sự tồn tại, bản năng chứ
không thể là sống theo đúng nghĩa của từ này…
Hà Nội mùng 1 tháng 10 năm 1995
(Ngày rời khỏi báo Cựu chiến binh, chuẩn bị đầu
quân vào văn hóa văn nghệ Công an)
T.K.T.T
——
*Hà Nội có 21 của ô, gồm Ô Chợ Dừa, Ô Quan Chưởng,
Ô Đồng Lầm, Ô Yên Phụ, Ô Yên Hoa , Ô Yên Tĩnh , Ô Thạch Khối, Ô Phúc Lâm , Ô
Thanh Hà ,Ô Trừng Thanh, Ô Mỹ Lộc , Ô Đông An , Ô Tây Luông , Ô Nhân Hòa, Ô
Thanh Lãng, Ô Yên Ninh , Ô Kim Hoa, Ô Thịnh Quang, Ô Thanh Bảo, Ô Thụy Chương
vv.. Nhục sĩ Phạm Tuyên ví Hà nội có năm cửa ô ứng với ngôi sao vàng năm cánh ,
khiến lớp trẻ hiểu sai về lịch sử Hà Nội.
** Một số món ăn phổ biến của người Tàu tại Hà
Nội trước năm 1954: lồ mai phàn (xôi lạp xường), lốc biểu (mía hấp), bát bảo lường
xà (trà thuốc bắc), phá sang (lạc rang húng lừu)… Xực tắc (mỳ vằn thắn) Chê gì
chê (bánh cuốn nóng) Cấy chúc … (cháo gà) v.v
No comments:
Post a Comment