Thời bình nhưng vẫn giữ tư duy,
ngôn ngữ thời chiến
Chủ Nhật, 10/31/2021 - 12:32 — songchi
https://www.rfavietnam.com/node/7009
VNCH, VNDCCH, cùng
là tiếng Việt nhưng cách sử dụng ngôn ngữ vẫn rất khác nhau.
Trước khi cuộc chiến tranh VN kết thúc vào
ngày 30.4.1975, VNCH và VNDCCH đi theo hai con đường, hai mô hình thể chế chính
trị khác nhau, nên cũng khác nhau trong mọi lĩnh vực, kể cả ngôn ngữ, tuy cùng
là…tiếng Việt.
Cùng trong giai đoạn chiến tranh bom đạn khói
lửa hàng ngày, nhưng ngôn ngữ ở miền Bắc XHCN đậm đặc tuyên truyền, hừng hực
tinh thần “cách mạng”, tinh thần Mác xít, nhìn ở góc độ khác thì là rất hiếu
chiến, so với ngôn ngữ ở miền Nam dưới chế độ VNCH. Trong đời sống xã hội ở miền
Bắc lúc bấy giờ, nhà cầm quyền luôn luôn đề ra những phong trào, mục tiêu để
kích thích tinh thần con người, nào “Tăng gia sản xuất”, “Hũ gạo cứu
đói”, “Hai tốt” trong giáo dục, “Ba nhất” trong quân
đội...; nào “Ba sẵn sàng”, “Ba đảm đang”, “Ba quyết tâm” ở miền
bắc, “Năm xung phong”, “Ba xung kích”... ở miền nam v.v…
Việc tuyên truyền giáo dục nâng cao ý thức chiến
đấu, ý thức cách mạng là nhiệm vụ hàng đầu nên từ các cấp chính quyền, báo chí
truyền thông cho tới giáo dục thường xuyên sử dụng một thứ ngôn ngữ đậm tính
tuyên truyền, trực diện như vậy, chống lại tất cả mọi thứ ngôn ngữ bị cho là
"cải lương", phong kiến, ủy mị, màu mè kiểu cách của giai cấp phong
kiến, tiểu tư sản…
Về triết học thì chỉ có một thứ triết học duy
nhất là triết học duy vật Mác Lênin, về văn học thì chỉ đề cao duy nhất một thứ
văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa, nên ngôn ngữ cũng vậy, phải phù hợp với nền
triết học đó, văn chương đó. Không có một thứ văn chương triết học ngoại lai
nào của thế giới được phép du nhập vào, nếu không phải là những tác phẩm hoặc
được chọn lọc kỹ hoặc được trích dẫn từng phần để chỉ trích, phê phán; cộng với
ý chí sắt thép máu lửa của chủ nghĩa cộng sản thời chiến không cho phép bất cứ
cái gì được đi chệch ra ngoài, hay có những biểu hiện yếm thế, hoài nghi, xét lại…
Tất cả đã tạo thành sự đơn nhất, phiến diện, thể hiện sự “một chiều” trong tư
duy.
Ngược lại ở miền Nam VNCH, 20 năm đó không chỉ
là sự tiếp nhận, cập nhật mọi xu hướng triết học, thi ca, văn học trên thế giới,
những lý tưởng và trào lưu thời đại, đồng thời tìm tòi, thể nghiệm tự làm mới
mình từ báo chí cho tới văn học, mà còn là 20 năm của một xã hội phức tạp, bị
phân cực với nhiều xu hướng khác nhau, thậm chí đối kháng nhau, từ tôn giáo cho
tới chính trị, văn hóa, đã tạo nên những phong cách đa dạng, và một thứ ngôn ngữ
hết sức mới mẻ, hiện đại, phong phú. Cứ nhìn lại ngôn ngữ trên báo chí, tạp
chí, nguyệt san, bán nguyệt san, thi ca, truyện ngắn, tiểu thuyết, tiểu luận,
biên khảo, ca từ trong các ca khúc của những khuôn mặt âm nhạc đa diện khác
nhau, thì rõ.
Nhưng bài viết này không định đi sâu vào lĩnh
vực văn chương hay di sản của văn học miền Nam mà chủ yếu chỉ muốn nói lên sự
khác nhau trong cách sử dụng tiếng Việt giữa miền Bắc XHCN và miền Nam VNCH trước
30.4.1975.
Sau 30.4.1975,
ngôn ngữ của miền Bắc, của “phe thắng cuộc” áp đảo cả nước
Sau khi cuộc chiến VN kết thúc, có rất nhiều
điều mà người miền Nam phải tập làm quen khi sống dưới chế độ mới, trong đó có
vấn đề về ngôn ngữ.
Đối với người miền Nam lúc bấy giờ, ngôn ngữ từ
miền Bắc XHCN đưa vào và nhanh chóng được áp đặt trên mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, là một thứ ngôn ngữ rất lạ tai. Người miền Nam hồi đó hay truyền miệng
nhau chế diễu lối nói có phần lên gân, và vẫn đầy tinh thần chiến đấu đó,
nào “báo cáo đồng chí”, “báo cáo thủ trưởng”, nào “khẩn trương”, “quyết
liệt”, “nhất trí”, “đồng ý”, “triển khai”…
Nhưng rồi theo năm tháng, dưới sự thống nhất
áp đặt từ các cấp chính quyền, báo chí truyền thông cho tới trường lớp, sách
giáo khoa, người miền Nam cũng quen dần. Đến bây giờ, gần nửa thế kỷ qua đi, đã
kịp thời cho hai thế hệ lớn lên sau cuộc chiến, ngôn ngữ, cách dùng từ của miền
Nam VNCH cũ dần dần bị biến mất, chỉ còn lại trên báo chí truyền thông của người
Việt lưu vong ở hải ngoại, nhường chỗ cho ngôn ngữ, cách dùng từ dưới chế độ do
đảng cộng sản lãnh đạo.
Song, dù ngôn ngữ bây giờ có phần nào được mềm
hóa đi so với thời kỳ ở ngoài Bắc hay giai đoạn đầu sau khi thống nhất, người
ta nhận thấy trong cách dùng từ của báo chí cho tới các cấp chính quyền, quan
chức cộng sản vẫn là thứ ngôn ngữ của thời chiến.
Chiến tranh kết
thúc gần nửa thế kỷ, vẫn giữ lối tư duy, ngôn ngữ thời chiến
Không khó để nhặt ra vô số ví dụ về điều này.
Tư duy, ngôn ngữ thời chiến thể hiện trước hết
trong lĩnh vực báo chí truyền thông, bởi đối với nhà nước cộng sản, “Báo
chí là một mặt trận; Cán bộ báo chí là chiến sĩ cách mạng; cây bút, trang giấy
là vũ khí sắc bén của họ; bài báo là tờ lịch cách mạng...”, Hồ Chí
Minh viết trong Thư gửi lớp học viết báo Huỳnh Thúc Kháng (1949), phát biểu tại
Ðại hội II (1959) và Ðại hội III (1962) Hội Nhà báo Việt Nam.(bài “Báo
chí là mặt trận, nhà báo là chiến sĩ”, báo Nhân Dân), Và cho đến bây
giờ thì nhà cầm quyền vẫn công khai khẳng định báo chí là công cụ tuyên truyền,
là “mặt trận” của đảng, nhà báo vẫn là những “chiến sĩ cách mạng”.
Mới đây, tại hội thảo khoa học "Báo
chí với nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng" do Báo điện tử
Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Vụ Báo chí - Xuất bản, Ban Tuyên giáo Trung
ương tổ chức, ông Nguyễn Trọng Nghĩa, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương
nói “mỗi cơ quan báo chí phải là “pháo đài” chính trị tư tưởng vững chắc
trong đấu tranh, phản bác quan điểm sai trái, thù địch” (bai “Báo chí phải là
'pháo đài' vững chắc trong phản bác quan điểm sai trái” (báo Chính phủ)
Một ví dụ gần đây nhất là trong đại dịch
COVID-19.
Thay vì chống dịch bằng tư duy khoa học như
nhiều quốc gia dân chủ phát triển, thì nhà cầm quyền VN lại chống dịch bằng tư
duy thời chiến, bằng tinh thần duy ý chí, bằng những khẩu hiệu, chẳng hạn một
khẩu hiệu được lặp đi lặp lại khắp nơi suốt thời gian qua là “chống dịch như chống
giặc”, rồi nào suốt ngày "thần tốc" với "quyết thắng", đưa
sinh viên, thầy giáo Hải Dương vào hỗ trợ Sài Gòn chống dịch thì hô hào
"giải phóng miền Nam"…
Hãy thử đọc ngôn ngữ trên báo chí nhà nước thời
dịch:
“Chiến lược chống dịch của TPHCM chuyển từ “đánh chặn”
sang “2 mũi giáp công, trong đánh ra, ngoài đánh vào”. Mỗi người dân là một chiến
sĩ, mỗi gia đình, khu phố là một “pháo đài”. Thi đua giữ chặt “vùng xanh”, quyết
liệt cắt đứt chuỗi lây nhiễm ở “vùng đỏ”, làm sạch địa bàn, từng bước mở rộng
khu vực an toàn…” (bài “Quyết liệt
cắt chuỗi lây nhiễm, làm sạch địa bàn, mở rộng vùng xanh vững chắc”, báo
Dân tộc &Phát triển)
Ngôn ngữ của quan chức:
“Từ thực tế chống dịch của TP HCM, Phó Giám đốc Sở Y
tế TP HCM nêu ra 10 bài học kinh nghiệm.
Thứ nhất, huy động cả hệ thống chính trị, phối hợp
chặt chẽ thực hiện hiệu quả chiến lược "mỗi phường, xã, thị trấn là pháo
đài, mỗi người dân là một chiến sĩ" (bài “10 bài học từ những hạn chế trong chống dịch của TP
HCM", báo VNExpress)
“Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam: Thực tế virus COVID-19 đã
xâm nhập vào nước ta, “đang âm thầm mai phục”. Nếu chúng ta không làm tốt sẽ gặp
tình huống “trong đánh ra, ngoài đánh vào” (ông Vũ Đức Đam phát biểu khi còn là Trưởng ban Chỉ đạo Quốc gia về
phòng chống dịch COVID-19, bài “Cuộc chiến” chống COVID-19: Bắt đầu chiến
dịch mới", báo Công An Nhân dân)
Ông Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn
Kim Sơn: “Mỗi trường học, mỗi cơ sở giáo dục là một pháo đài chống dịch;
mỗi giáo viên, giảng viên, nhân viên, học sinh, sinh viên là một chiến sĩ”… Những
nội dung này được Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn nhấn mạnh trong lễ phát động phong
trào thi đua đặc biệt của ngành Giáo dục được tổ chức chiều 1.9”, bài "Bộ
trưởng Nguyễn Kim Sơn: Mỗi trường học là một pháo đài chống dịch", báo
Lao động).
Sơ sơ vài ví dụ như thế để thấy chiến tranh đã
kết thúc từ lâu nhưng từ trong tư duy, ngôn ngữ của quan chức cộng sản vẫn là
cái tư duy, ngôn ngữ thời chiến, hơn thế nữa, nhìn đâu cũng chỉ thấy thù địch: “Nhận
diện thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng
– văn hóa”, Học viện Lục quân), “Các thế lực thù địch đang lợi dụng
dịch Covid-19 để chống phá Đảng, Nhà nước”, VOV, “Các thế lực thù địch
sử dụng công nghệ mới chống phá rất tinh vi”, trang thông tin điện tử Hội đồng
Lý luận Trung ương) …
Trong cái nhìn của họ, nhân dân cũng là những
kẻ thù tiềm tàng cần phải được kiểm soát chặt chẽ, hở ra câu nào không vừa ý đảng
hay chỉ trích đảng, nhà nước là phải bắt nhốt ngay, và kết án nặng nề để phòng
ngừa mọi sự phản kháng.
Nếu đất nước đang có chiến tranh mà nhà cầm
quyền cho tới báo chí, sách vở có tư duy, ngôn ngữ thời chiến thì còn có thể hiểu
được, nhưng thời bình mà họ vẫn không từ bỏ được cái lối tư duy, ngôn ngữ, hành
xử như vậy. Sự thực là chỉ có một đảng cầm quyền thiếu tự tin vì không có tính
chính danh, không do dân bầu lên, được xây dựng và tồn tại không phải bằng một
mô hình, học thuyết, lý tưởng... thuyết phục nhân tâm mà chỉ bằng bạo lực
và dối trá, mới có cái lối tư duy, ngôn ngữ cho tới từng chủ trương, chính
sách hung hăng, hiếu chiến như thế. Thứ hai, ngôn ngữ bộc lộ bản chất của
chế độ. Và đó là thứ ngôn ngữ của một chế độ độc tài, hoàn toàn thiếu vắng
tính nhân bản.
No comments:
Post a Comment