Tuấn
– Nhung bán con hay chỉ là cho con nuôi?
Thái
Hạo
04/02/2024
https://baotiengdan.com/2024/02/04/tuan-nhung-ban-con-hay-chi-la-cho-con-nuoi/
1.
Trong
vụ án hai Vợ chồng Tuấn – Nhung ở Trà Vinh bị kết án tổng cộng 23 năm tù vì
“bán con”, ngay từ đầu dù chưa có thông tin gì khác ngoài một số bài báo sơ sài
và đầy ác ý vô cảm, tôi đã cho rằng có thể Nhung – Tuấn chỉ thực hiện việc cho
con nuôi nhưng không đúng thủ tục pháp lý chứ không phải họ bán con. Thậm chí
tôi còn đoán đúng từng chi tiết về việc Nhung Tuấn đã đăng tin vào một nhóm cho
– nhận con nuôi nào đó trên mạng như đang tồn tại nhan nhản, và trở thành nạn
nhân do sự thiếu hiểu biết của mình. Đến bây giờ, khi thông tin về gia cảnh,
trình độ nhận thức và các tình tiết khác đã được hé lộ, điều tôi suy đoán đã có
cơ sở rõ ràng hơn. Bài suy luận và nhận định của tôi lúc chưa đọc được cáo
trạng và bản án: Cho — Nhận con nuôi và những tai họa rình rập
2.
Bây
giờ hãy xem Luật định nghĩa thế nào về tội “mua bán người dưới 16 tuổi”.
Theo
Khoản 1, Điều 151, ai thực hiện hành vi sau đây thì phạm vào tội mua bán người:
“Chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 16 tuổi ĐỂ giao, nhận tiền, tài sản hoặc
lợi ích vật chất khác, trừ trường hợp vì mục đích nhân đạo”.
Hãy
đặc biệt chú ý chữ ĐỂ trong câu định nghĩa trên, nó có nghĩa là MỤC ĐÍCH.
Chuyển giao (hoặc tiếp nhận) người nhưng là phải với mục đích nhận tiền thì mới
cấu thành tội mua bán người. Vậy vợ chồng Nhung – Tuấn có giao con nhằm mục
đích nhận tiền hay không?
3.
Giờ
hãy đọc Bản án của TAND tỉnh Trà Vinh (Số 4/2024/HS/ST, ngày 15-1-2024): “Sau
khi sinh Thảo Nhi được 50 ngày tuổi, bị cáo Nhung và bị cáo Tuấn bàn bạc thống
nhất với nhau tìm gia đình hiếm muộn có nhu cầu nhận nuôi trẻ để cho làm con
nuôi. Ngày 02/12/2022, bị cáo Nhung nhập vào mạng xã hội Facebook có tài khoản
tên “Hội nhóm cho và nhận con nuôi bốn phương” và đăng tin “Cần tìm gia đình
hiếm muộn để cho con nuôi, con em là bé gái, sinh được 50 ngày, em ở Miền tây,
muốn thì gặp trực tiếp”. Sau đó được Nguyễn Hữu Dương tiếp nhận tin nhắn và đề
nghị gửi hình ảnh của bị hại cho Dương xem. Sau khi xem, Dương nhắn tin đồng ý
tiếp nhận và hỏi cần bao nhiêu tiền thì bị cáo Nhung bàn bạc với bị cáo Tuấn
thống nhất nhận số tiền bằng 20.000.000 (Hai mươi triệu đồng), Dương đề nghị
giảm 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng), bị cáo Nhung và bị cáo Tuấn đồng ý. Rồi
hẹn nhau địa điểm giao nhận bị hại”.
Rõ
ràng, theo bản án này thì Nhung và Tuấn đã nhận tiền của Nguyễn Hữu Dương,
nhưng MỤC ĐÍCH của hai vợ chồng này là “Cần tìm gia đình hiếm muộn để cho con
nuôi”, Nhung cũng đòi hỏi được gặp trực tiếp người nhận con [để biết rõ gia
cảnh và con người của cha mẹ nuôi đứa trẻ?]. Căn cứ vào đây, không thể kết luận
mục đích “chuyển giao” con của Nhung – Tuấn là tiền được. Vì trên thực tế, việc
người nhận con nuôi mà “bồi dưỡng”/ “hỗ trợ” một khoản tiền cho cha mẹ ruột của
trẻ là phổ biến và đã thành thông lệ. Còn nữa, nếu là mục đích [bán] lấy tiền
thì Nhung – Tuấn sẽ không dễ dàng đồng ý với Dương giảm đi 2 triệu đồng (1 phần
10 tổng số tiền).
Như
chúng ta đã thấy trong Bản án, tiền bạc xuất hiện trong việc cho nhận con nuôi
này là do Dương đề xuất, chứ không phải vợ chồng Tuấn – Nhung đề nghị. Trong
hoàn cảnh đói khổ, ba đứa con lớn bữa đói bữa no, đau ốm không có tiền đi viện
chữa bệnh, công việc thì bấp bênh và thu nhập thấp, thì việc vợ chồng Tuấn –
Nhung trước đề xuất nhận tiền của Dương mà đưa ra con số 20 triệu đồng (cũng là
một con số gần như đã thành thông lệ) là điều dễ hiểu và tự nhiên.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2024/02/1-10.jpg
Ảnh:
Ba đứa con còn lại của vợ chồng Nhung – Tuấn. Nguồn: Ảnh trên mạng/ Thái Hạo
Bây
giờ ta hãy giả sử rằng, nếu bên nhận không đề xuất đưa tiền và cũng không có
đồng nào để “bồi dưỡng” thì Tuấn – Nhung có đồng ý giao con không? Chúng ta
không biết được vì tình huống ấy không diễn ra trên thực tế, nhưng theo logic
thì xác suất là có. Tôi tin rằng với những gì đã biết về hoàn cảnh gia đình
Nhung – Tuấn cũng như tình thế lúc quyết định cho đi đứa con của mình và nguyện
vọng của họ là “cần tìm gia đình hiếm muộn để cho con nuôi” thì họ sẽ không cần
đòi tiền.
Riêng
việc Nhung – Tuấn không tìm hiểu để biết rõ về người nhận và gia đình người
nhận mà đã giao con thì ai cũng có thể hiểu được nếu có chút kinh nghiệm thực
tế: rất nhiều gia đình khi nhận con nuôi đã không muốn cha mẹ ruột của đứa trẻ
biết thông tin về mình, vì ngại/ sợ những rắc rối sau này. Trước hoàn cảnh bi
đát của gia đình mình, việc Tuấn – Nhung (dù đã đề nghị được gặp trực tiếp
người nhận con nuôi) nhưng đành chấp nhận “không biết gì” về nhân thân người
nhận, âu đó cũng là điều mà ai cũng hiểu được. Và phải hiểu rằng không phải họ
không tìm hiểu mà là do bên nhận “không cho phép”, và họ đành phải chấp nhận.
Và
chúng ta thấy, rõ ràng, chỉ cần dừng lại ở đây thôi cũng thấy rằng không đủ căn
cứ để kết luận rằng đây là hành vi (mua) bán người. Bởi cái quyết định ở đây
không phải là có nhận tiền hay không mà là MỤC ĐÍCH CÓ PHẢI LÀ TIỀN hay không.
Và chúng ta thấy MỤC ĐÍCH “chuyển giao” con của Nhung và Tuấn không phải là để
lấy tiền.
4.
Trên đây là phân tích câu chữ trong luật và
đối chiếu với hành vi của vợ chồng Tuấn – Nhung để xác định bản chất của hành
vi ấy có phải “bán con” hay không. Và ta đã đi đến nhận định rằng không đủ căn
cứ để kết luận rằng họ bán con.
Tuy
nhiên, vụ án này còn nhiều khía cạnh khác phải xem xét một cách sâu sắc, như
hoàn cảnh gia đình bi đát của Nhung – Tuấn, trình độ học vấn và năng lực nhận
thức thấp kém của họ, v.v… Tất cả những yếu tố này đã được công khai ngày càng
đầy đủ từ Luật sư Minh Thọ, và từ các tổ chức và cá nhân từ thiện đã đến tận
nơi tìm hiểu. Chỉ một bài của cựu nhà báo Lê Thu Hiền, người đã đến tận nơi để
ghi chép lại hoàn cảnh gia đình và câu chuyện của Nhung dưới đây thôi cũng đủ
để ta có được bức tranh và nhìn nhận tương đối đầy đủ về những khía cạnh ấy.
Bài 1: Về vụ án người mẹ trẻ 4 con ở Trà Vinh. Và bài
2: Sự kinh khủng của cái gọi là cư dân mạng nhân danh “hiểu biết”
và nước mắt đàn ông.
Phải
thấy rằng Nhung – Tuấn là nạn nhân: Nạn nhân của sự nghèo đói và thiếu vắng các
chính sách an sinh xã hội vốn thuộc trách nhiệm của nhà nước; và là nạn nhân
của bọn lừa đảo (môi giới cho và nhận con nuôi). Lạ thay, nạn nhân đã bị kết án
tù, nhưng tất cả các bên còn lại đều đang bình yên vô sự.
Luật
pháp sinh ra là để bảo hộ cuộc sống của con người, chứ không phải để hủy hoại
nó. Một lần nữa, tôi mong muốn và đề nghị TAND tỉnh Trà Vinh xem xét lại toàn
bộ bản án này để có một phán quyết công bằng, nhân văn, “hợp lý hợp tình”.
Tránh vận dụng luật pháp một cách cứng nhắc, dẫn đến sai lầm mà tạo thành tội
ác.
No comments:
Post a Comment