Dien Luong - The
New York Times
DCVOnline
dịch
Posted
on December 1, 2017 by editor Posted in Chính Trị Xã Hội, Quan Điểm — 0
Comments
Thành
phố Hồ Chí Minh,
Việt Nam | Khi Messenger của Facebook chập chờn liên tục trên khắp Việt Nam vào
ngày 4 tháng 11 – một sự bất thường, ngay cả tại một quốc gia nhiều áp bức
này – cư dân mạng đã bị một cú sốc xây xẩm mặt mày. Một số người bạn Facebook của
tôi hỏi, “Đã xong rồi à?”
Nguồn:
Dom McKenzie
Messenger
ở những nước khác cũng không khá hơn, và vào ngày hôm đó, cơn bão Damrey đã đổ ập
vào bờ biển miền Trung Việt Nam. Tuy nhiên, một số bạn bè của tôi đã cho rằng sự
chập chờn của Messenger là do một nguyên nhân khác: một dự luật về an ninh
không gian mạng, đã là tin trang nhất ngày hôm trước.
Dự
luật này được đưa ra để tham khảo ý kiến công chúng từ tháng 6 nhưng chỉ mới được
mọi người quan tâm đến trong thời gian gần đây khi Quốc hội vừa họp lại, Phòng
Thương mại đã tuyên bố phản đối. Dự thảo luật này yêu cầu các công ty khổng lồ
nước ngoài về kỹ thuật như Google, Facebook và Skype lập văn phòng và đặt máy
chủ ở Việt Nam. Mặc dù Quốc hội không dự định biểu quyết dự luật này cho đến giữa
năm 2018, viễn tượng của nó đã khiến người sử dụng internet sợ hãi, và cộng đồng
doanh nghiệp và ngay cả một số dân biểu cũng lo ngại.
Chính
phủ cho rằng mối quan tâm ngày càng tăng về an toàn trên không gian mạng và tin
giả mạo là những lý do cần kiểm soát mạng xã hội nhiều hơn. Nhưng truy cập
internet cũng đã phục vụ như là một ngõ thoát để giới hoạt động chính trị tố
cáo tham nhũng và những hành vi sai trái của chính phủ.
Việt
Nam là nước có tỷ lệ sử dụng mạng xã hội cao nhất trong số các nước có thu nhập
bình quân đầu người tương đương. Hiện có khoảng 52 triệu trương mục Facebook hoạt
động ở Việt Nam, với số dân khoảng 96 triệu. Google và YouTube cũng rất phổ biến.
Giống
như Trung Quốc, Việt Nam muốn kiềm chế Internet ngay từ đầu. Vào năm 2009, họ
cũng đã cố gắng ngăn chặn Facebook bằng cách ra lệnh cho các dịch vụ lớn ở địa
phương không được cung cấp ứng dụng này cho người sử dung mạng. Nhưng chính phủ
đã không dám thẳng thừng lập một bức tường lửa, vì sợ giới kinh doanh internet
và thương mại điện tử bỏ chạy; họ cho phép truy cập một số trang web nhất định
thay vì dựng tường lửa ngăn chận tất cả như Trung Quốc, vì nghĩ rằng có thể
thuyết phục được những trang web đó hợp tác khi cần thiết. Nhân dịp này, chính
phủ Việt Nam đã yêu cầu giới cung cấp dịch vụ địa phương chận một số các trang
web nhất định trong danh sách đen của chính phủ, nhưng việc đó rất dễ dàng có lối
thoát bằng cách đổi tên miền.
Trung
Quốc xây dựng cơ sở hạ tầng trên mạng và kiểm soát là yếu tố họ quan tâm đế trước
nhất; hệ thống mạng ở Trung Quộc hiện nay là một mạng intranet (toàn quốc) hơn
internet (toàn cầu). Cách kiểm soát nhẹ nhàng hơn của Việt Nam đã tạo ra một cơ
sở hạ tầng ghép phát triển và thích ứng nhanh hơn khả năng ra quy định và kiểm
soát của chính phủ.
Một
điểm khác biệt ở Trung Quốc, một quốc gia có dân số lớn hơn và nền kinh tế của
thị trường lớn trong nước, cho phép các hệ thống mạng xã hội nội địa như Weibo
hoặc WeChat phát triển. Ở Việt Nam không được như thế vì đơn giản là không có đủ
tiền hoặc sự gan lỳ chính trị để cạnh tranh với những công ty công nghệ cao hiện
đại ở Silicon Valley. YouTube và Facebook hiện chiếm 2/3 thị trường truyền
thông kỹ thuật số ở Việt Nam.
Giỏi
lắm chính phủ cũng chỉ có thể chặn Facebook vào những thời điểm nhạy cảm, chẳng
hạn như khi Tổng thống Barack Obama viếng thăm Việt Nam vào tháng 5 năm 2016 hoặc
trong các cuộc biểu tình phẩn đối một thảm hoạ môi trường. Nhưng cũng chỉ chặn
được trong một thời gian ngắn, vì người sử dụng Internet Việt Nam có hiểu biết
kỹ thuật luôn có những giải pháp khác để truy cập và chuyển tải thông tin.
Vào
năm 2015, ông Nguyễn Tấn Dũng, lúc đó là Thủ tướng của Việt Nam, nói rằng không
thể cấm các phương tiện truyền thông xã hội và thay vào đó, chính phủ nên sử dụng
những phương tiện như vậy để truyền bá thông điệp của riêng mình. Sau khi ông
Dũng rơi khỏi chính trường năm 2016, chính phủ Việt Nam vẫn tiếp tục để cho dân
dùng Facebook trong khi cố gắng theo dõi thông tin trên mạng.
Một
nỗ lực dường như đáp ứng được những mối quan tâm của công chúng, vào năm 2015,
chính phủ Việt Nam đã lập các trang Facebook chính thức để thông tin về những
cuộc hộp báo sau các cuộc họp nội các và thông báo chính sách và quy định mới của
chính phủ. Đồng thời, nó đã đưa một đội ngũ gọi là “các chuyên viên hướng dẫn
dư luận” để tuyên truyền quan điểm riêng của họ và bảo vệ nhà nước chống lại những
người bị gièm pha, hoặc cái mà họ gọi là “các thế lực thù địch”.
Đầu
năm nay, Bộ Thông tin đã yêu cầu các trang web, mạng xã hội và các ứng dụng di
động với hơn một triệu người dùng ở Việt Nam “hợp tác” với chính quyền và xóa nội
dung “có ý định và độc hại”, từ những quảng cáo bán hàng lậu hoặc động vật
hoang dã được bảo vệ đên bí mật quốc gia. Bộ Thông tin Việt Nam cũng yêu cầu
Google lấy 2.300 clip trên YouTube xuống vì họ cho là những video clip đó phỉ
báng giới lãnh đạo Việt Nam; Google đã đồng ý một phần, xóa bỏ gần 1.500 clip.
Có
lẽ được khuyến khích với thành công này, và bằng những tăng cường đàn áp
internet ở các quốc gia Đông Nam Á, nhà chức ở đó trách muốn đi xa hơn. Nhưng
đã quá trễ. Dự luật này hiện đang được thảo luận, dường như mô phỏng theo luật
Trung Quốc được thông qua hồi đầu năm nay, sẽ chỉ đem lại kết quả ngược lại sự
mong đợi.
Vào
tháng 8, Chủ tịch Nước Trần Đại Quang – từng lãnh đạo Bộ Công an, người ủng hộ
chính của dự luật – cho rằng sở dĩ có nhu cầu “ngăn chặn các trang tin tức và
blog có nội dung xấu và nguy hiểm” một phần là do những cuộc vận động trực tuyến
“làm suy giảm uy tín của lãnh đạo đảng và nhà nước”. Tuy nhiên, ngay chính dự
luật này có thể làm tổn thương uy tín của nhà nước nhiều hơn nữa.
Như
một số chuyên gia pháp luật đã nói, dự luật này quá bao trùm, đáng chú ý vì nó
vượt xa khỏi mục đính bảo vệ an ninh mạng mà chính là để thực sự kiểm soát nội
dung. Facebook và Google cũng đã lập luận rằng có rất nhiều cơ chế có sẵn để cảnh
cáo người dùng và xóa nội dung vi phạm luật địa phương; và do đó không cần phải
lưu trữ dữ liệu ở Việt Nam, và hệ thống của họ cũng không thiết kế như thế.
Việt
Nam thường bị quốc tế chỉ trích về hồ sơ nhân quyền tồi tệ, đặc biệt là tự do
ngôn luận – vì họ kiểm soát chặt chẽ các ấn phẩm, tin trên đài phát thanh và
truyền hình, và bịt miệng những người viết blog. Thông qua dự luật internet này
khó có thể giúp Việt Nam được tiếng tốt. Luật này cũng sẽ đi ngược lại những
cam kết của Việt Nam trong những nhiều hiệp định thương mại đã ký kết, gồm cả Tổ
chức Thương mại Thế giới, và có thể sẽ làm giới đầu tư nước ngoài bất mãn.
Tháng
11, Việt Nam kỷ niệm 20 năm ngày ra đời của Internet. Thời nay, ngăn chặn các ứng
dụng truyền thông xã hội phổ biến có vẻ như là một bước thoái hoá – và họ cũng
chưa bao giờ kiểm soát được hết. Luật an ninh mạng này cũng chắc chắn sẽ gây ra
một phản ứng dữ dội trong cộng đồng mạng.
Chính
phủ coi internet là nguồn gây mất ổn định, nhưng kiểm soát nó gay gắt hơn cũng
có thể là một nguồn gây bất ổn – ngay ở một quốc gia độc tài như Việt Nam, sự ủng
hộ nào đó của quần chúng vẫn là điều cần thiết cho sự sống còn của chế độ.
©
2017 DCVOnline
Nếu
đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ
DCVOnline.net
*
Nguồn: Vietnam Wants to Control Social Media? Too Late. By Dien
Luong. The New York Times. NOV. 30, 2017. Dien Luong một nhà báotại thành phố Hồ
Chí Minh.
------------------------------
XEM THÊM :
No comments:
Post a Comment