Được
đăng ngày Thứ hai, 02 Tháng 11 2015 00:52
Nhân dịp
kỷ niệm lần thứ 52 ngày chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ và hai ông Ngô Đình Diệm
và Ngô Đình Nhu bị thảm sát – sau đó ít lâu ông Ngô Đình Cẩn cũng bị xử tử -
tôi đã đề nghị ban biên tập Thông Luận cho đăng lại hai bài
tôi viết trước đây. Đó là bài "Kinh
nghiêm Ngô Đình Diệm" viết năm 2004 và bài "Ông Ngô Đình Diệm đã lên cầm quyền
như thế nào?" viết năm 2005. Tôi giữ nguyên những ý kiến
trong cả hai bài này dù trong khoảng thời gian giữa hai bài đã xảy ra một sự kiện
quan trọng: đó là tôi có được hai tài liệu cho thấy rõ một cách không thể chối
cãi tiến trình đã đưa ông Diệm lên cầm quyền và cũng giải thích tại sao chính
quyền Ngô Đình Điệm đã hành động như họ đã làm.
Lần này
tôi công bố toàn bộ hai tài liệu này mà mười năm trước khi viết bài "Ông
Ngô Đình Diệm đã lên cầm quyền như thế nào?" tôi đã không có thì giờ để
đánh máy và dịch sang tiếng Việt. Đó là một thư của ông Ngô Đình Nhu viết cho
ông Jacques Bénet ngày 20 tháng 4 năm 1954 và một thư của ông Jacques Bénet viết
cho bà Ngô Đình Nhu ngày 18 tháng 10 năm 2004. Tôi xin nhắc lại một điều đã viết
trong bài này là ngay từ trước, khi được ông Ngô Đình Luyện (có sinh hoạt một
thời gian trong nhómThông Luận, tiền thân của Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên,
trước khi qua đời) giải thích rằng ông Diệm lên cầm quyền là do ý muốn của Bảo
Đại tôi đã thấy giải thích này không hợp lý.
Thư của
ông Jacques Bénet gửi bà Nhu trình bày một cách chi tiết tiến trình trong đó
người Pháp đưa ông Diệm lên cầm quyền và làm áp lực để buộc Bảo Đại phải chấp
nhận giải pháp này.
Thư của
ông Nhu gửi ông Jacques Bénet cho thấy rõ là chính quyền Pháp đã có cả một kế
hoạch ngầm để giúp ông Ngô Đình Diệm loại tướng Nguyễn Văn Hinh, dẹp quân Bình
Xuyên và các giáo phái để thu tóm quyền lực về một mối. Thư này cũng nói đến
"trận chung kết" là tổ chức bầu cử. Đó là cuộc trưng cầu dân ý ngày
23 tháng 10 năm 1955 lật đổ Bảo Đại. Sau đó chế độ Việt Nam Cộng Hòa được chính
thức công bố ngày 26/10/1955. Ông Nhu cũng nhấn mạnh về sự cần thiết của một
chính sách của Pháp tại Đông Dương.
Hai lá thư này cho phép kết luận rằng
ông Ngô Đình Diệm không phải do Mỹ đưa lên cũng không phải do ông Bảo Đại chọn
lựa mà là một giải pháp của chính quyền Pháp để triệt thoái một cách êm thấm khỏi
Việt Nam đồng thời giữ được tối đa ảnh hưởng chính trị và văn hóa cũng như các quyền
lợi kinh tế.
Như vậy phải hiểu rằng chính sách hợp tác với Mỹ và chống Pháp trong những năm
đâu của chính quyền Ngô Đình Diệm chỉ là bề ngoài. Bên trong thực sự là đi đêm
với Pháp và lợi dụng Mỹ.
Cũng
theo chủ trương của Pháp mà chính quyền Ngô Đình Diệm đã ngấm ngầm tiếp xúc với
phe cộng sản để tìm cách thỏa hiệp. Theo hồi ký của ông Nguyễn Phú Đức, cựu bộ
truởng VNCH, việc này bị Mỹ phát giác vì đại tá Hoàng Thụy Năm đã thông báo cho
tình báo Mỹ cuộc tiếp xúc giữa ông Ngô Đình Nhu và ông Phạm Hùng trên sông Sài
Gòn. Ông Nhu đã ra lệnh giết ông Hoàng Thụy Năm và đổ tội cho cộng sản ám sát.
Ông Nguyễn Phú Đức đã liên tục giữ những chức vụ rất quan trọng trong chế độ
VNCH nên những điều ông tiết lộ có mọi khả năng là đúng. Hơn nữa tiết lộ của
ông Nguyễn Phú Đức cũng rất phù hợp với một chuỗi sự kiện:
- Đầu
tháng 3/1961 ông Ngô Đình Nhu thay mặt chính quyền VNCH đi Maroc dự lễ tấn
phong vua Hassan II. Tại sao ông Nhu, một người không có chức vụ chính thức nào
lại thay mặt cho chính quyền VNCH trong một nghi lễ chính thức và long trọng
như vậy mà không phải là tổng thống Ngô Đình Diệm, hay phó tổng thống Nguyễn Ngọc
Thơ hay ngoại trưởng Vũ Văn Mẫu?
- Sau
đó, như một sự tình cờ, ông Ngô Đình Nhu được tiếp đón rất long trọng tại Pháp
và ở lại Pháp vài ngày dù lúc đó bề ngoài Việt Nam đang rất lạnh nhạt với Pháp.
Việc đi Maroc dự lễ đăng quang vua Hassan II có thể chỉ là một lý cớ để ông Nhu
hội ý với chính quyền Pháp.
- Sau
đó vài tháng là cuộc tiếp xúc Ngô Đình Nhu - Phạm Hùng. Người ta có thể hiểu rằng
cuộc tiếp xúc này đã do Pháp dàn xếp sau khi thuyết phục ông Nhu. Nhiều tài liệu
còn cho hay là ông Nhu còn gặp lại Phạm Hùng đầu năm 1963.
- Ngày
01 tháng 10 năm 1961 đại tá Hoàng Thụy Năm bị bắt cóc và bị giết. Sau này người
ta được biết ông Hoàng Thụy Năm không bị cộng sản ám sát mà do ông Nhu ra lệnh
giết.
Việc
tìm kiếm một thỏa hiệp với Hà Nội có đúng hay không là một vấn đề có thể bàn
cãi. Điều chắc chắn là nó rất trái ngược lập trường "diệt cộng" chính
thức của chính quyền Ngô Đình Diệm; nó đã khiến Hoa Kỳ cảm thấy bị phản bội và
quyết tâm lật đổ chế độ, nhất là sau khi hai ông Diệm và Nhu giết ông Hoàng Thụy
Năm. Việc chính quyền Ngô
Đình Diệm thiên vị Công giáo là có thật nhưng việc đàn áp Phật Giáo chỉ là lý cớ
dàn dựng của người Mỹ để lật đổ ông Diệm. Việc Dương Văn Minh giết hai
ông Diệm và Nhu sau khi họ đã đầu hàng rất có thể là theo chỉ thị của Mỹ. Khó
có thể tưởng tượng Mỹ chấp nhận để hai ông sang Pháp và chống đối lại chính
sách của họ tại Việt Nam.
Đây
cũng là dịp để nhìn lại những nét chính của chế độ Ngô Đình Diệm.
1.
Nhận xét đầu tiên là người có quyền lực lớn nhất trong chế độ là ông Ngô Đình
Nhu chứ không phải ông Ngô Đình Diệm. Chính ông Nhu đã vận động chính quyền
Pháp để đưa ông Diệm lên cầm quyền và sử dụng ông Diệm như một biểu tượng.
2.
Ông Nhu, và ông Jacques Bénet, đã rất chủ quan và sai lầm khi nghĩ rằng ông Ngô
Đình Diệm là một biểu tượng tốt. Quan điểm của tôi, như đã trình bày trong
bài "Kinh nghiệm Ngô Đình Diệm", là ông Ngô Đình Diệm
không thể là một biểu tượng cho Việt Nam trong thời đại độc lập. Ông đã hợp tác
tận tình với chế độ Pháp thuộc và đã tiếp tay đàn áp những người đấu tranh
giành chủ quyền dân tộc. Ông, và cả ông Nhu, cũng không phải là người hùng biện
và có viễn kiến để thu hút trí thức và quần chúng.
3.
Cách làm chính trị của ông Diệm và ông Nhu là cách làm chính trị nhân sĩ. Họ không xây dựng lực lượng đấu tranh
mà chỉ vận động hành lang để được một thế lực ngoại bang đưa lên cầm quyền.
Cách hoạt động chính trị này phải bị vất bỏ dứt khoát và vĩnh viễn. Kinh nghiệm
Ngô Đình Diệm cho thấy rằng cách làm chính trị này dù có "thành công"
trong nhất thời cũng chỉ là một tai họa cho đất nước và sau cùng cho chính
mình. Chính vì không có tổ chức mà khi cầm quyền hai ông Diệm và Nhu đã phải dựa
vào gia đình và một số người thân thuộc.
4.
Ông Nhu đã quá chủ quan khi nghĩ rằng có thể đánh lửa được dư luận Việt Nam và
chính phủ Mỹ khi bề ngoài tỏ ra chống Pháp trong khi vẫn liên hệ mật thiết ngấm
ngầm với Pháp. Sự chủ quan còn đi đôi với sự vụng về vì chính quyền Ngô Đình Diệm
là một sự tiếp nối quá lộ liễu của chính quyền bảo hộ Pháp. Tất cả các
quyền lợi của Pháp đều được duy trì, con cái các cấp lãnh đạo cao cấp đều chỉ học
trường Pháp, mọi viên chức thời Pháp thuộc đều được trọng dụng và thăng tiến,
các đảng phái chống Pháp bị đàn áp, dù được nhân dân tôn kính, như Việt Nam Quốc
Dân Đảng và Đại Việt.
5.
Thống nhất quyền lực vào giai đoạn 1954 - 1955 là một chủ trương đúng nhưng
tiêu diệt các lực lượng giáo phái như hai ông Diệm – Nhu đã làm là không đúng.
Họ là những lực lượng có cơ sở quần chúng và cũng có bản chất dân tộc hơn những
công chức, sĩ quan và hạ sĩ quan của bộ máy thuộc địa mà chính quyền Ngô Đình
Điệm trân trọng và lưu dụng. Vấn đề là phải thuyết phục và giáo dục được họ,
nhưng điều này vượt khả năng của các ông Diêm và Nhu, những người thuộc môi trường
quan lại sống tách biệt với xã hội Việt Nam.
6.
Trái với quan điểm của một số người, ông Ngô Đình Nhu không có bản lĩnh chính
trị cao. Chắc chắn ông có kiến thức chính trị cao hơn phần lớn những người lãnh
đạo phe quốc gia cùng thời đại với ông, nhưng ông chưa có khả năng chính trị phải
có ở tầm mức quốc gia. Chủ nghĩa nhân vị mà ông đề cao - và cũng không có dấu
hiệu gì là đã hiểu - trên thực tế chỉ là một chủ nghĩa cá nhân lúng túng không
dám tự xác nhận. Tôi đã có may mắn quen biết hai cộng sự viên gần gũi nhất của
hai ông Diệm và Nhu tại Dinh Độc Lập trong suốt thời gia họ cầm quyền là đại tá
Lê Văn Đức và giáo sư Tôn Thất Thiện. Cả hai đều xác nhận các tác phẩm của ông
Nhu chỉ là những bài diễn văn của ông Diệm. Nhưng bài diễn văn này không có gì
đặc sắc.
7.
Sai lầm và trách nhiệm lớn nhất của chế độ Ngô Đình Diệm là đã đàn áp các đảng
quốc phái quốc gia. Các đảng này đã đóng góp xương máu giành độc lập dân tộc và
chống lại cộng sản. Họ có sự chính đáng hơn hẳn ông Ngô Đình Diệm. Chỉ có hợp
tác với họ mới có thể tranh thủ được sự ủng hộ của quần chúng.
8.
Nhiều người ca tụng hai ông Diệm và Nhu là có tác phong xứng đáng, có danh dự
cao và đã dũng cảm bảo vệ bằng tính mạng lập trường của mình. Đúng là ông Diệm
và ông Nhu đã có phong cách hơn hẳn nhưng người đã từng giữ vai trò lãnh đạo
trong gần một thế kỷ qua trong cả hai phe quốc gia cũng như cộng sản. Tuy vậy
cũng không thể quên là cuối cùng, khi thấy mình tuyệt vọng, họ đã đầu hàng nhóm
tướng lãnh đảo chính để rồi bị giết. Mặt khác theo lời của ông Kenneth Todd
Young, một viên chức cao cấp tại bộ ngoại giao Mỹ phụ trách về Châu Á, thì ông
Trần Văn Chương, thân phụ bà Ngô Đình Nhu, đã cho hay là một tuần trước khi bị
đảo chính hai ông Diệm và Nhu cũng đã có ý định đào thoát ra nước ngoài nhưng ý
định này không được thực hiện vì sự chống đối dữ dội của bà Ngô Đình Nhu. Ông
Diệm và ông Nhu không tuẫn quốc như nhiều người nghĩ. Họ đã lãnh đạo đất nước,
đã không thành công và bị giết, sau khi chính họ cũng đã thủ tiêu nhiều người
khác.
9.
Sau cùng nhân dịp này tôi thấy cần khẳng định dứt khoát một lần nữa là ông Ngô
Đinh Nhu không liên quan gì tới cuốn Chính
Đề Việt Nam. Tác giả cuốn sách này là ông Lê Văn Đồng một cựu công sự viên của hai ông Diệm và Nhu nhưng
đã chia tay ngay từ năm 1957 vì bất đồng quan điểm. Khi tham gia Tập Hợp Dân Chủ
Đa Nguyên năm 1988 (lúc đó chưa có danh xưng chính thức THDCĐN) ông Lê
Văn Đồng đã đem đến và trình bày cuốn Chính Đề Việt Nam. Chính
chúng tôi đã làm photocopy và phổ biến tới một số thân hữu. Lúc đó ông Ngô Đình
Luyện cũng sinh hoạt với chúng tôi và cũng có tham gia cuộc thảo luận về cuốn Chính
Đề Việt Nam với ông Lê Văn Đồng, và không ai đặt nghi vấn về việc Tùng Phong là bút hiệu của Lê Văn Đồng
cả. Giả thuyết ông Ngô Đình Nhu là tác giả cuốn sách này chỉ dựa trên dựa trên
một sự kiện rất mỏng manh là ông Cao Xuân Vỹ nhớ lại rằng có lần ông Ngô Đình
Nhu đã nhờ ông trao cho ông Lê Văn Đồng một tập tài liệu bằng tiếng Pháp mà ông
không nhớ là gì. Từ đó mà suy luận rằng đó là bản tiếng Pháp của Chính
Đề Việt Nam thì quả là quá phiêu lưu.
Một sự
thực đáng buồn là cho tới này phần lớn những bài viết về chế độ Ngô Đình Diệm
và anh em họ Ngô đều chỉ dựa vào một số sự kiện để phát biểu lập trường có sẵn
của mình. Người bênh anh em họ Ngô thì viện dẫn mọi lý do - kể cả những lý do rất
vu vơ như trong câu chuyện cuốn Chính Đề Việt Nam - để ca tụng,
người ghét thì cũng tìm mọi lý cớ để đả kích, trong khi thái độ phải có là cố gắng
hiểu rõ một giai đoạn lịch sử để có thể rút ra những kết luận đúng cho tương
lai.
Giai đoạn
Ngô Đình Diệm mới chỉ gần đây thôi. Còn khá nhiều tài liệu và nhân chứng. Nếu
chúng ta không có nổi một sự hiểu biết chính xác thì những sử liệu về các giai
đoạn trước có giá trị gì?
Nguyễn
Gia Kiểng
(01/11/2015)
(01/11/2015)
*
Phụ
đính 1:
Thư của ông Ngô Đình Nhu gửi ông Jacques Bénet
Le 20
Avril
Mon
cher Bénet,
Merci
infiniment de ta longue lettre du 8. C'est positivement étonnant cette unité de
vue entre toi et moi sur tous les aspectsdu problème qui nous
intéresse que cela touche les réalités politiques ou les hommes qui y
participent, y compris mes frères, M. Khiêm ou tes compatriotes. C'est à croire
que nous ne nous sommes pas quittés depuis 1949 et que nous travaillons côte à
côte dans le même bureau sous la vigilance de ta Simone. C'est te dire combien
je suis heureux de voir pareilles communion d'idées et de sentiments entre toi
et moi, séparés par des milliers de kilomètres. C'est vrai qu'après avoir
surmonté la crise Hinh nous nous apprêtions à démarrer avec l'affaires des
sectes qui se présentait on ne peut plus favorablement. Malheureusement nous
nous sommes coincés entre l'incompréhension française et l'inexpérience
américaine: une différence d'appréciation sur l'opportunité de briser de façon
ferme et décisive l'obstacle féodal pour libérer le pauvre peuple vietnamien et
le rallier à nous. Depuis l'avènement du Président la grande pensée du
gouvernement est de briser les deux obstacles, cercles de fer, qui séparaient
le peuple du gouvernement progressite. C'est l'armée
"nationale" et "les sectes". Nous avons gagné la première
manche, nous espérons gagner la seconde, la belle sera alors les élections que
nous sommes certains de gagner. Ajouté à cela ce "Temps harcelant"
qui ne nous permet pas de musarder en chemin et de pratiquer la bonne vieille
politique de compromis. L'heure est donc unique et décisive. Si nous ne
réussissons pas à convaincre les responsables du Monde Libre pour qu'ils nous
aident à neutraliser les colonialistes qui soutiennent les féodaux contre le
gouvernement national nous irons à la catastrophe. Car le peuple vietnamien
déçu définitivement nous abandonnera. Et le Monde Asiatique que nous avons
travaillé ces derniers mois et qui commençait à s'impatienter avec nous, se
détournera de nous, isolés alors en Asie et à la merci du Viet Minh. Car il ne
faut plus recommencer l'expérience de 1945 – 1954. Soutenus seulement par le
camp occidental nous sommes surs d'être battus par le communisme en Asie. Il
faut avoir le soutien du peuple vietnamien et la sympathie du Monde Asiatique,
pour que l'aide occidentale, dédouanée par la personalité du Président Ngô,
puisse être utile, ayant reçu l'étiquette asiatique. Cette conception est bien
comprise par des hommes intelligents et au courant des affaires d'ici, tels que
M. M Roux (affaires étrangères), A Risterucci (Etats Associés). Il faut
travailler de manière à ce que des instructions en ce sens qui sont, j'en suis
persuadés, déjà prêtes soient envoyés d'urgence à Saigon. Le général
Ely est un honnête homme, malheureusement il est de nature inquiet et
pessimiste (voir affaire Hinh = armée coupée en deux, guerre civile et … si le
Président touche à Hinh). Ce général est une espèce de "Docteur Tant
Pis" qui voit tout en noir ou plutôt tout en rouge. Rappelle toi les
velléités des communistes qui cherchaient à créer un état autonome en France à
l'époque de la libération et que le gouvernement français n'a pas hésité à
étouffé dans le sang. Il faut sacrifier quelques uns pour le bien de tous.
La
France n'a pas eu jusqu'ici de politique en Indochine. C'est le moment ou
jamais d'en avoir une.
A Dieu,
cher ami, et merci pour tes conseils et encouragements. Je reste toujours le
même sans quoi (les quelques mots de la fin sont illisibles, à moitié
coupés lors de la photocopie)
Chuyển
ngữ:
Ngày 20
tháng 4
Bénet
thân,
Vô cùng cảm ơn mày về lá thư dài ngày 8. Thật ngạc nhiên một cách thú vị khi
mày và tao đồng nhất quan điểm trên tất cả mọi mặt của
vấn đề mà chúng ta cùng quan tâm, dù là về những thực tại chính trị hay về những
người trong cuộc, kể cả các anh em tao, ông Khiêm (1) hay các đồng bào của mày.
Cứ như là chúng mình chưa từng chia tay từ 1949 khi còn làm việc với nhau trong
cùng một văn phòng dưới sự chăm sóc của bà xã Simone của mày. Để nói với mày rằng
tao hân hoan tới mức độ nào về sự đồng cảm và đồng ý giữa mày và tao dù cách
nhau hàng ngàn cây số. Đúng là sau khi đã vượt qua được cơn khủng hoảng Hinh
(2) chúng ta bắt đầu giải quyết vấn đề các giáo phái trong những điều kiện
không thể nào thuận lợi hơn. Rất tiếc là chúng ta bị kẹt giữa sự thiếu hiểu biết
của Pháp và sự thiếu kinh nghiệm của Hoa Kỳ: đó là sự đánh giá khác nhau về cơ
hội để đánh tan một cách quả quyết và dứt khoát trở ngại phong kiến để giải
thoát dân tộc Việt Nam xấu số và để gắn bó họ với chúng ta. Từ ngày ông Chủ Tịch
(3) lên cầm quyền, chủ trương lớn của chính phủ là đập tan hai trở ngại,
hai vòng sắt, tách biệt dân tộc Việt Nam với chính phủ Việt Nam cấp tiến, đó là
quân đội "quốc gia" và các "giáo phái". Chúng ta đã thắng
trận đầu, chúng ta hy vọng sẽ thắng trận thứ hai, trận chung kết sẽ là cuộc bầu
cử mà chúng ta tin chắc sẽ thắng lợi. Thêm vào đó là thời gian "thiêu đốt"
không cho phép chúng ta nhởn nhơ trên đường đi hay làm những thỏa hiệp như thói
quen. Thời điểm này vừa duy nhất vừa quyết định. Nếu chúng ta không thuyết phục
được Thế Giới Tự Do giúp chúng ta vô hiệu hóa đám thực dân ủng hộ bọn phong kiến
(4) chống lại chính quyền quốc gia chúng ta sẽ rơi vào thảm họa. Nhân dân Việt
Nam sẽ thất vọng và vĩnh viễn bỏ rơi chúng ta. Và Thế Gìới Châu Á mà chúng ta
đã vận động từ mấy tháng nay và đã bắt đầu có cảm tình với chúng ta sẽ quay
lưng lại với chúng ta. Lúc đó chúng ta sẽ cô lập và khốn đốn với Việt Minh. Chớ
nên lặp lại kinh nghiệm 1945-1954. Nếu chỉ được Phương Tây yểm trợ chúng ta chắc
chắc sẽ thua cộng sản Châu Á. Phải tranh thủ được sự hưởng ứng của dân tộc Việt
Nam và cảm tình của các nước Châu Á để viện trợ của Phương Tây, bạch hóa bởi
nhân cách của Chủ Tịch Ngô, có thể hữu hiệu sau khi đã mang nhãn Châu Á. Quan
điểm này đã được thấu hiểu nơi những người thông minh và hiểu rõ hiện
tình tại đây, như Ông M. Roux (bộ ngoại giao) ông Risterucci ( bộ Liên Hiệp
Pháp). Phải vận động để những chỉ thị theo chiều hướng này, mà tao
chắc chắn là đã chuẩn bị sẵn, được khẩn cấp gửi sang Sài Gòn (5). Tướng
Ely là một người chân thật nhưng bản tính lo âu và bi quan (nhìn vụ Hinh
= quân đội chia đôi, nội chiến v.v. nếu ông Chủ Tịch đụng vào Hinh…). Ông tướng
này là một loại "Bác sĩ Đành Vậy" nhìn cái gì cũng đen tối hay đúng
ra đỏ rực. Mày hãy nhớ lại những toan tính của những người cộng sản Pháp muốn
thành lập một nhà nước tự trị tại Pháp trong giai đoạn giải phóng (6), toan
tính mà chính phủ Pháp đã không ngần ngại đập tan trong máu. Phải hy sinh một
vài người vì lợi ích của mọi người.
Nước Pháp cho tới nay chưa có một chính sách Đông Dương, đây là cơ hội cuối
cùng để có một.
Chào mày, thằng bạn thân. Cảm ơn mày về những lời khuyên và khích lệ. Tao vẫn
là tao nếu không thì… (một vài chữ cuối cùng không đọc được vì bị cắt
khi làm photocopy)
Chú
thích:
Phạm
Duy Khiêm, anh ruột nhạc sĩ Phạm Duy, đaị sứ Việt Nam tại Pháp vào lúc
đó, do ông Diệm bổ nhiệm.
1)
Tướng Nguyễn Văn Hinh (1913-2005), tổng tham mưu trưởng Quân Đội Quốc Gia Việt
Nam từ 1949, mâu thuẫn với thủ tướng Ngô Đình Diệm và bị cất chức. Ông trở lại
phục vụ trong quân đội Pháp và lên đến cấp trung tướng, tham mưu trưởng lực lượng
không quan chiến lược (nguyên tử) Pháp.
2)
Ông Ngô Đình Diệm lúc đó là thủ tướng và chủ tịch hội đồng bộ trưởng Quốc Gia
Việt Nam.
3)
Ở đây ông Nhu muốn nói tới các nhóm giáo phái Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo được
Bảo Đại bảo trợ. Sau khi các giáo phái đã bị dẹp thì từ "phong kiến"
được chính quyền Ngô Đình Diệm dùng để chỉ chế độ quân chủ.
4)
Trong cuộc gặp gỡ với tôi cuối tháng 11-2004, với sự hiện diện của hai anh Trần
Minh Châm và Nghiêm Văn Thạch, ông Bénet cho biết những chỉ thị đó nằm trong kế
hoạch giúp ông Diệm gồm thu quyền lực về một mối, trước hết là giải tán quân đội
của các giáo phái.
5)
Giai đoạn sau 1945 khi Paris được giải phóng, lực lượng võ trang của Đảng Cộng
Sản Pháp rút về khu Rambouillet định thành lập một khu tự trị nhưng bị dẹp tan.
*
Phụ
đính 2:
Thư
của ông Jacques Bénet gửi bà Ngô Đình Nhu
Jacques
Bénet
5 rue
Vavin, 75006
Paris
Paris le 18 octobre 2004
Chère
Madame,
Depuis
que je suis passé vous voir chez vous, voici une dizaine de jours, j'ai remis
la main dans "mes" papiers sur une lettre que vous m'avez adressée le
22 août 1976, vraisemblablement de Rome.
Je
joins à ce courrier l'original de cette lettre. Vous y faites état de ce que je
vous ai annoncé que j'avais retrouvé le dossier confié par vous en 1963.
En 1976
j'étais fonctionnaire en poste au Ministère de la Coopération et j'ai
pris mon congé annuel en juillet ou en août. J'avais repris mon service au
plutard au 1er Septembre.
Il
n'est pas pensable que votre fils Quỳnh ne soit pas parvenu à me joindre pour
que je lui remette ce dossier chez moi ou à Suffren.
Et,
pourtant, il ne semble pas vous être parvenu ce dossier puisque vous le
demandez maintenant. Mystère total, dans le quel je ne suis pas le seul
impliqué!
Je
comprends maintenant que ce dossier que je vous ai remis la semaine dernière
n'ait pu vous satisfaire.
Il a
vraisemblablement été constitué par des copies de lettre anciennes, datées de
la période 1963 – 1964, mais que vous m'avez remises par la suite en même temps
que les copies de lettres à Andréotti et au Pape qui ont été écrites par vous
plus tardivement.
Dans la
période de 1976 à 1980, où je venais de me remarier, j'ai envoyé en Normandie
quelques meubles, objets, livres ou documents, parce que je remettais à neuf
mon appartement et que les documents, que je vous ai remis l'autre jour, après
les avoir récupérés en Normandie ont dû m'apparaître dans ces années 1976 -1980
comme des documents "pour mémoire" sans utilisation immédiate
possible et ne contenant pas d'nformations "brûlantes".
Vous
m'avez dit lors de cette dernière recontre que vous aviez trouvé
"désinvolte" la réponse que je vous aurais faite lorsque, pour la
première fois, vous m'avez redemandé le dossier confié fin 1963.
Je ne
me rappelle pas avoir eu envers vous, cette fois là ou une autre, une attitude
de désinvolture. Mais si vous en gardez le souvenir c'est que je vous ai paru
alors effectivement "désinvolte". Et je vous pris de bien vouloir
m'en excuser.
Mais
j'ai remarqué depuis de nombreuses années que, de votre côté, vous avez fait
montre d'une désinvolture certaine, vis-à-vis du président Ngô Đình Diệm, de
votre mari, de moi-même et de quelques autres en ne vous souciant jamais de
savoir comment le futur président Ngô Đình Diệm avait accédé au pouvoir en 1954!
La
Providence, certes oui, car Dieu gouverne toutes choses, mais il se sert bien
souvent de modestes relais humains pour concrétiser ses desseins.
Or
votre mari, Ngo Dinh Nhu, a eu l'intuition géniale - dictée bien sûr par la
Providence - que le moment était arrivé, en mars 1954 pendant la bataille de
Đien Bien Phu, d'essayer de convaincre le gouvernement français d'alors
(gouvernement Laniel – Bidault – Reynaud), qui disposait encore de quelques
atouts déterminants quant au destin de l'ancienne Indochine pour permettre
d'urgence la venue au pouvoir de son frère, Monsieur Ngo Đinh Diem,
personnalité nationaliste vietnamienne d'une réputation sans tâche et d'une
notoriété évidente, afin de prendre la tête du gouvernement vietnamien non
communisé.
Du même
coup, Nhu décide l'envoi à Paris pour facilité la prise de contact avec le
gouvernement français son camarade du combat nationaliste Tran Chanh Thanh –
revenu totalement de ses illusions communistes. La mission première que Nhu
donne à Tran Chanh Thanh est de me joindre afin que je l'aide à faciliter cette
prise de contact. Nhu, que j'ai reçu à la maison à Paris en 1949 avant le décès
de ma première femme, savait que je disposais de relations avec divers hommes
politique français.
Une
lettre personnelle de Nhu m'annonce d'ailleur la mission de Thành.
Bien
que vous n'aimiez guerre Trân Chánh Thành, ce dernier s'est révélé être, lui
aussi, un homme "providentiel", dans la chaine de ceux qui ont
permis, en fin de compte, à Monsieur Ngo Dinh Diem d'être reçu successivement
par le président Laniel et par le Ministre des Affaires étrangères Georges
Bidault.
Il
s'est trouvé, entre temps, que j'ai été moi aussi,
"providentiellement", un maillon indispensable dans la chaine qui a
conduit à ce fait.
Ma
confiance totale en mon cher ami Nhu et la certitude acquise par moi qu'il
était plus que temps, en ce moment de 1954, de voir conférer au Vietnam non
communiste son indépendance totale, jointes à l'évidence que Monsieur Ngo Đinh
Diem était bien l'homme "providentiel" pour assumer la charge de
diriger cette indépendance, m'avaient déterminé à agir.
Et j'ai
pu passer toute ma conviction à un de mes meilleurs amis français, Antoine
Ahon, qui avait ses entrées personnelles au cabinet au Président René Laniel
par le directeur de cabinet, le préfet Germain Vidal, et auprès du Secrétaire
d'Etat à la Présidence Bougenot passé directement sous les ordres du Président
Laniel. Mon ami Ahon, d'autrepart, connaissait bien personnellement le Ministre
des Affaires Etrangères Georges Bidault.
Homme
"providentiel" à son tour, Antoine Ahon a été l'introducteur
parfait de Trân Chánh Thành auprès des deux personalités précitées du cabinet
du Président Laniel et auprès de Geoges Bidault.
L'intelligence,
la fidélité et le sens de l'efficacité de Trần Chánh Thành des ont fait
l'essentiel du reste. En plusieurs entretiens espacés de la fin mars à la mi
mai 1954 il a eu loisir d'exposer la situation d'alors au Vietnam, d'un
authentique point de vue nationaliste vietnamien, et les qualités exceptionnelles
de Monsieur Ngô Đình Diêm pour assurer le pouvoir au Vietnam du Sud en ces
temps particulièrement critiques.
C'est
ainsi que le Président Laniel et le Ministre Bidault accueillirent, dans les
meilleures dispositions d'esprit Monsieur Ngô Đinh Diêm.
Et,
"providentiellement" encore, ces deux personalités responsables,
après hésitation et réflexion, comprirent que, à l'approche de la chute de leur
gouvernement, il s'imposait pour sauver le Vietnam en grand danger
d'engloutissement dans le Monde Communiste, et tenter de la sorte de préserver
les futures relations franco-vietnamiennes d'obtenir d'urgence de l'empereur
Bao Đai, encore officiellement Chef d'Etat du Vietnam la nomination de Ngo Đinh
Diem à la tête du gouvernement vietnamien.
Cela
fut fait par décret de Bao Đai pris au début de juin 1954, quelques jour
seulement avant que le gouvernement Laniel – Bidault – Reynaud fasse place au
gouvernement Mendès France.
Cela
fut possible parce que le gouvernement français d'alors disposait vis-à-vis de
Bao Đai, particulièrement de divers moyens de pression déterminants.
Et
cette décision, qui fut majeure et "providentielle" pour le Vietnam
n'aurait jamais été prise par le gouvernement Mendès France totalement sous
l'influence de courants politiques français décidés à s'en tenir à la lettre
des accords de Genève de juin 1954 qui envisageaient la tenue d'élections
législatives étendues à tout le Vietnam, Nord et Sud.
De
telles élections auraient abouti, selon toute vraisemblance, à installer le
pouvoir communiste, dès ce moment là sur tout le Vietnam, fermant toute
perspective à Ngo Đinh Diem d'accéder un jour au pouvoir.
Ce
dernier étant tellement convaincu de cela qu'il est venu chez moi me remercier
de mes efforts et de ceux de mon ami Ahon, au cours des quelques jours qui ont
séparé la sortie du décret de Bao Đai de son départ en avion pour rejoindre son
poste à Saigon
J'en
suis toujours à m'étonner, chère Madame, que vous n'ayez jamais cherché à
connaître le processus de l'ascension au pouvoir du Président Ngo Đinh Diem.
Il est
vrai que mon ami Nhu était particulièrement discret. Mais une épouse décidée ne
parvient-elle pas généralement à percer les secrets entretenus par son mari?
Je vous
prie d'agréer, chère Madame, l'expression de ma très respectueuse considération.
(Signature
de Jacques Bénet)
Ci-joint
votre lettre du 22 août 1976
Chuyển
ngữ:
Jacques
Bénet
5 rue
Vavin, 75006
Paris
Paris le 18 octobre 2004
Thưa
Bà,
Từ khi
tới gặp Bà tại tư gia cách đây khoảng mười hôm tôi đã tìm lại được trong những
giấy tờ "của tôi" một thư Bà đã gửi cho tôi ngày 22 tháng 8-1976, có
lẽ từ Rome.
Tôi gửi
kèm theo thư này bản chính của thư đó. Bà viết trong thư rằng tôi đã thông báo
với Bà là đã tìm lại được tập hồ sơ Bà đã giao cho tôi năm 1963.
Năm
1976 tôi còn là công chức ở bộ Hợp Tác và tôi nghỉ hè tháng 7 hoặc tháng 8. Tôi
đi làm trở lại trễ lắm là ngày 01 tháng 9.
Khó có
thể nghĩ là anh Quỳnh con trai Bà lại không thể liên lạc được với tôi để tôi
trao lại tập hồ sơ này, tại nhà tôi hay tại Suffren.
Và dầu
vậy tập hồ sơ này đã không tới tay Bà, bằng chứng là bây giờ mà còn hỏi tôi. Bí
ẩn hoàn toàn, trong đó tôi không phải là người liên can duy nhất!
Bây giờ
tôi hiểu là tập hồ sơ mà tôi đã trao cho Bà tuần trước đã không làm Bà hài
lòng.
Nó có lẽ
gồm những bản sao của các thư cũ, viết trong giai đoạn 1963 – 1964, mà Bà đã
trao cho tôi sau đó cùng lúc với các bản sao các thư gửi Andreotti và Đức Giáo
Hoàng do Bà viết sau đó.
Trong
những năm từ 1976 đến 1980, lúc tôi vừa tái hôn, tôi đã gửi đi Nordmandie một số
giường tủ, vật dụng, sách và tài liệu vì tôi tân trang căn hộ của tôi, và những
tài liệu mà tôi trao lại Bà hôm trước sau khi tìm thấy tại Nordmandie có vẻ là
những tài liệu mà trong giai đoạn 1976 -1980 tôi cho là chỉ "giữ để nhớ"
chứ không có công dụng tức khắc nào. Và không chứa đựng một dữ kiện "nóng
hổi" nào.
Bà đã
nói với tôi trong lần gặp cuối rằng Bà thấy tôi đã trả lời Bà một cách "vô
tư" khi lần đầu tiên Bà yêu cầu tôi hoàn lại tập hồ sơ mà Bà đã nhờ tôi giữ
hộ năm 1963.
Tôi không
nhớ đã có thái độ vô tư đối với Bà lúc đó hay một lúc nào khác. Nhưng nếu Bà vẫn
còn nhớ như vậy thì chắc là tôi phải đã tỏ ra vô tư. Và tôi xin Bà thứ lỗi cho.
Tuy
nhiên tôi đã nhận thấy từ nhiều năm rồi chính Bà tỏ ra rất vô tư đối với Tổng
Thống Ngô Đình Diệm, đối với chồng Bà, đối với chính tôi và đối với vài người
khác khi không bao giờ chịu tìm hiểu vào năm 1954 vị tổng thống tương lai Ngô
Đình Diệm đã lên cầm quyền như thế nào.
Dĩ
nhiên là do Chúa muốn (1), bởi vì Chúa điều khiển tất cả, nhưng Người cũng dùng
những con người làm những trung gian khiêm tốn để cụ thể hóa ý muốn của Người.
Vì thế
mà chồng Bà, Ngô Đình Nhu, đã có trực giác thiên tài, chắc chắn do Chúa khiến,
là đã đến lúc, vào tháng 3-1954, khi trận Điện Biên Phủ đang diễn ra, để thử
thuyết phục chính phủ Pháp (chính phủ Laniel –Bidault – Reynaud) lúc đó vẫn
còn một vài con bài quyết định đối với số phận của Đông Dương cũ để khẩn cấp
đưa anh mình là ông Ngô Đình Diệm, một nhân vật quốc gia không vẩn gợn và có uy
danh rõ rệt, lên cầm dầu chính phủ Việt Nam không cộng sản.
Cùng
lúc Nhu quyết định gửi sang Paris người chiến hữu quốc gia của mình là Trần
Chánh Thành - vừa hoàn toàn hồi phục khỏi những ảo tưởng cộng sản- để tiếp xúc
với chính phủ Pháp. Sứ mạng đầu tiên mà Nhu giao phó cho Trần Chánh Thành là
tìm gặp tôi để nhờ tôi giúp bắt liên lạc. Nhu đã từng tới nhà tôi năm 1949 trước
khi người vợ đầu của tôi qua đời và biết rằng tôi có quan hệ với nhiều chính
khách Pháp.
Nhu có
viết thư riêng cho tôi báo trước chuyến công tác của Thành.
Dù Bà
không ưa Trần Chánh Thành, ông này đã tỏ ra là một người "Chúa ban"
trong chuỗi sự kiện đã khiến ông Ngô Đình Diệm tuần tự được thủ tướng Laniel và
bộ trưởng ngoại giao Bidault tiếp.
Tình cờ
là trong thời gian đó chính tôi cũng "do ý Chúa" đã là một mắt xich
không có không được trong diễn tiến dẫn tới kết quả này.
Lòng
tin hoàn toàn vào bạn Nhu và nhận định chắc chắn là tình thế đã quá chín muồi
vào thời điểm đó, 1954, để trả lại độc lập hoàn toàn cho Việt Nam, cùng với điều
hiển nhiên là ông Ngô Đình Diệm đúng là nhân vật "Chúa khiến" để lèo
lái nền độc lập này, đã thúc đẩy tôi quả quyết hành động.
Và tôi
đã chia sẻ được lòng tin của mình với một trong những người bạn Pháp thân nhất
của tôi, ông Antoine Ahon, một người có liên hệ mật thiết với văn phòng
Chủ Tịch René Laniel (1), qua trung gian của ông chủ nhiệm văn phòng, tổng
đốc Germain Vidal, và có liên hệ với bộ trưởng tại phủ chủ tịch Bougenot, trực
tiếp dưới quyền Chủ Tịch Laniel. Anh bạn Ahon, mặt khác cũng quen thân với bộ
trưởng ngoại giao Georges Bidault.
Cũng là
một người "Chúa khiến", Antoine Ahon đã là người trung gian tuyệt vời
cho Trần Chánh Thành với hai nhân vât kể trên (Vidal và Bougenot) trong văn
phòng Chủ Tịch Laniel và Geoges Bidault.
Trí
thông minh, sự trung thành và giác quan hiệu quả của Trần Chánh Thành đã là
hoàn thành cốt lõi phần còn lại. Qua nhiều trao đổi trong thời gian từ cuối
tháng 3 đến giữa tháng 5-1954 ông ta đã trình bày tình trạng Việt Nam lúc đó với
nhãn quan quốc gia chân chính cũng như những đức tính xuất chúng của ông Ngô
Đình Diệm để cầm quyền tại miền Nam Việt Nam trong giai đoạn khẩn trương này.
Chính
vì thế mà chủ tịch Laniel và bộ trưởng Bidault đã tiếp ông Ngô Đình Diệm một
cách thuận lợi.
Và cũng
nhờ "ơn Chúa", hai vị lãnh đạo này, sau khi đắn đo suy nghĩ đã hiểu rằng,
vào lúc chính quyền chính phủ của họ sắp đổ, bắt buộc phải cứu Việt Nam đang đứng
trước hiểm họa lớn là bị nuốt trửng vào Thế Giới Cộng Sản, và phải cố cứu vãn
quan hệ Pháp Việt bằng cách khẩn cấp khiến Hoàng Đế Bảo Đại, lúc đó vẫn còn là
quốc trưởng Việt Nam chính thức, bổ nhiệm Ngô Đình Diệm đứng đầu chính phủ.
Điều
này đã được thực hiện bằng dụ (sắc luật) của Bảo Đại đầu tháng 6-1954, chỉ vài
ngày trước khi chính phủ Laniel –Bidault – Reynaud bàn giao quyền hành cho
chính phủ Mendès France.
Điều
này đã có thể thực hiên được vì chính quyền Pháp lúc đó có nhiều phương tiện để
gây áp lực quyết định trên Bảo Đại (2).
Và quyết
định tối quan trọng và "theo ý Chúa" này đối với Việt Nam chắc chắn
đã không thể có với một chính phủ Mendès France hoàn toàn chịu ảnh hưởng của
khuynh hướng chính trị Pháp đòi thực hiện y chang Hiệp Định Genève tháng
6-1954, theo đó sẽ có tổng tuyển cử trên toàn cõi Việt Nam, Bắc cũng như Nam.
Cuộc tổng
tuyển cử này hầu như chắc chắn sẽ dẫn tới kết quả là thiết lập chế độ cộng sản
trên cả nước Việt Nam và triệt tiêu mọi hy vọng cầm quyền của Ngô Đình Diệm.
Ông này
đã hiểu rất rõ như vậy nên ông đã đến nhà tôi để cảm ơn tôi và bạn Ahon của tôi
trong khoảng thời gian vài ngày từ khi ông được Bảo Đại bổ nhiệm đến khi ông lên
máy bay về Sài Gòn nhận chức.
Tôi
luôn luôn ngạc nhiên tại sao Bà chưa bao giờ bận tâm tìm hiểu tiến trình đã đưa
Tổng Thống Ngô Đình Diệm lên cầm quyền.
Đúng là
anh bạn Nhu của tôi rất kín đáo. Nhưng một người vợ quyết tâm không lẽ lại
không khám phá ra được những bí mật của chồng mình?
Xin gửi
Bà lời chào rất trân trọng.
(ký
tên Jacques Bénet)
Đính
kèm thư của Bà ngày 22 tháng 8-1976
Chú
thích:
1)
Bà Ngô Đình Nhu tin rằng việc ông Ngô Đình Diệm lên cầm quyền là hoàn toàn do ý
Chúa.
2)
Nước Pháp lúc đó theo chế độ đại nghị, thử tướng là chủ tịch hội đồng bộ trường.
3)
Khi tôi hỏi ông trong bữa ăn trưa cùng với hai anh Trần Minh Châm và Nghiêm Văn
Thạch áp lực nào thì Jacques Bénet mỉm cười nói rằng Bảo Đại ăn chơi cờ bạc nên
luôn luôn có nhiều vấn đề, kể cả tài chính.
-------------------------------------
Cập nhật
lần cuối ngày Thứ hai, 04 Tháng 11 2013 00:59
Nov 29,
2004
No comments:
Post a Comment