Nhina Le and Koh Swee Lean Collin - The Diplomat
Anh
Khôi chuyển ngữ, CTV Phía Trước
Posted
on Jun 1, 2015
Liệu
việc sử dụng vịnh Cam
Ranh tại Việt Nam của Nga có làm hỏng
quá trình cải thiện quan hệ Hà Nội-Washington?
Bởi
Nhina Le và Koh Swee Lean Collin
--------------------
Tất cả bắt đầu với hoạt động
dường như vô thưởng vô phạt được ghi nhận trên
cả báo chí Nga và
Việt Nam dẫn lời Bộ
Quốc phòng Nga vào mùng 4 tháng giêng.
Theo bài báo, các máy bay
chở dầu của Không quân Nga Il-78 Midas
đã được cấp quyền tiếp cận vào năm ngoái với
các căn cứ không quân của Việt Nam
ở
vịnh Cam Ranh, nằm ở tỉnh
Khánh Hòa. Các
máy bay Il-78 hỗ trợ việc tiếp nhiên liệu máy bay ném bom chiến lược Tu-95 “Gấu” của
Nga.
Mặt khác, các chuyến bay quân sự của Nga ở
khu vực châu Á-Thái Bình Dương được tăng cường, bao gồm cả các phi vụ “Gấu”
bay quanh tiểu đồn quân sự chính của Mỹ tại Guam.
Những chuyến bay này, được
tuyên bố là một màn trình diễn sức mạnh và
cho
các mục đích thu thập tin tức, đã được
coi là
“đòn khiêu khích” trong con mắt của
Washington. Một yêu cầu được
gửi tới Hà Nội “để đảm bảo rằng Nga không thể sử dụng tiếp cận của mình
với vịnh
Cam Ranh để tiến hành các hoạt động có thể gây
căng thẳng trong khu vực”,
theo Bộ Ngoại giao Mỹ. Moscow đã bác bỏ
những lo ngại của Washington
và bảo vệ mối quan hệ
quân sự với Việt Nam.
Các
quan hệ rắc rối?
Một số bình luận trên
các phương tiện truyền thông đã
liên kết vấn đề vịnh Cam
Ranh này với các khúc mắc bấy
lâu trong quan hệ Mỹ-Việt Nam. Nhưng điều này không thực sự là
vấn đề.
Tất nhiên, sẽ rất kỳ lạ nếu Hà Nội
không biết trước rằng các hoạt động như vậy sẽ không
thoát được sự chú ý của Washington. Bởi vì Việt Nam không vận
hành máy bay quân sự loại Illyushin, những
chiếc máy bay
đó ở Vịnh Cam Ranh với hình
sao đỏ riêng biệt và
các màu sơn tiêu chuẩn của Không quân Nga sẽ
rất khó để bỏ qua.
Nhưng đã có một sự bùng nổ gần đây
trong quan hệ song phương giữa
Việt Nam và Mỹ, một phần không nhỏ do
những căng thẳng đang hồi sinh
với Bắc Kinh về các tranh chấp ở Biển Đông. Washington
dỡ bỏ một phần lệnh cấm vận
vũ khí kéo dài hàng thập kỷ với Việt Nam, đồng
thời phát biểu chính thức rằng nó có thể
được hoàn toàn gỡ bỏ trong
tương lai. Mỹ cũng đồng ý cung cấp tàu tuần tra như một phần trong
một kế hoạch lớn hơn để hỗ trợ cho
Hà Nội nâng cao năng lực an ninh
hàng hải. Việt Nam cũng
thể hiện sự quan tâm với việc mua
máy bay tuần tra hàng hải tầm xa P-3 Orion cũ.
Chắc chắn, các mối quan hệ song phương
còn xa mới hoàn hảo, vẫn còn các vấn đề
đang tranh cãi, ví dụ, mối lo âu dai dẳng ở
Washington về báo cáo nhân
quyền của Việt Nam. Tuy nhiên, các
mối quan hệ này đã được di chuyển
theo một hướng tích cực.
Suy
nghĩ của Việt Nam
Hà Nội cho thấy vẫn giữ nguyên chính sách ngoại giao hậu chiến tranh lạnh được thừa nhận
bấy lâu. Trong đó, họ nhấn mạnh một số
nguyên lý quan trọng, chẳng hạn
như
sự độc lập, không liên minhvà
không liên kết.
Cách tiếp cận này nhấn mạnh
cả hợp tác và đấu tranh
chống lại nền chính trị thống trị và
loại trừ (vừa hợp tác, vừa đấu
tranh). Đó cũng là
tiền đề thích nghi với những thay đổi
về địa chính trị sau chiến tranh Lạnh
và để trợ giúp trong tiến
trình đổi mới. Điều này có nghĩa là
không chỉ tiếp xúc với những người bạn mới
mà cũng giữ gìn tình bạn truyền thống.
Mối quan hệ lâu dài với Nga
nằm trong loại thứ hai.
Từ
năm 1991, Hà Nội nhất quán với nguyên tắc “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”. Xu hướng
này bắt nguồn từ thực tế là chủ nghĩa yêu nước của người Việt Nam loại trừ các
nỗ lực để “bán” đất nước cho lực lượng ngoại bang, và rất nhạy cảm với những
cáo buộc rằng Việt Nam là một bộ phận của bất kỳ một Siêu Cường cụ thể nào. Tới
nay, Hà Nội đã kiên trì chống lại các nỗ lực ảnh hưởng đến việc hoạch định
chính sách từ bên ngoài.
Ví dụ, trong năm 1990, Bộ trưởng Ngoại
giao
Nguyễn Cơ Thạch
khẳng định: “Vịnh Cam Ranh là
một căn cứ của Việt Nam
và không liên quan với
Liên Xô,” và rằng
các đối tượng khác, trong đó có Hoa Kỳ,
có thể tiếp cận với căn cứ này nếu
họ sẵn sàng bình thường hóa quan hệ với
Việt Nam. Phát biểu của ông mang ý nghĩa là
một phản ứng với nỗ lực
của Moscow để biến vịnh
thành chỗ đứng quân sự của mình trong
khu vực Đông Nam Á.
Tham
gia rộng hơn, xa hơn
Tin tức về các máy bay Il-78 của
Nga không có gì mới, mặc dù
báo chí truyền thông
có xu hướng liên kết nó với cuộc khủng hoảng Ukraine đang diễn ra. Nhưng sự
hiện diện
của máy bay chở dầu
có thể được xem như là một phần của
hỏa thuận lớn hơn, theo đó Moscow hưởng
quyền tiếp cận với căn cứ quân sự của Việt Nam
tại vịnh Cam
Ranh bao gồm có thể cả phần quan trọng nhất
– căn cứ hải quân.
Tuy nhiên, Moscow không lạ gì với điều đó. Theo
một thỏa thuận 25
năm ký kết vào năm 1979,
Hạm đội Thái Bình Dương của Hải quân
Liên Xô đặt Trung tâm Hậu cần số 922
của mình và duy trì
một đội tàu chiến trong vịnh
Cam Ranh. Kể từ khi rút
lực lượng cuối cùng từ các
đơn vị đồn trú vào tháng 5 năm 2002,
trong gần một
thập kỷ, sự hiện diện quân sự của Nga
thiếu vắng tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương, đặc biệt là khi Moscow
trở nên tập trung nhiều hơn vào
châu Âu.
Bây giờ, Nga muốn làm sống lại
quyền tiếp cận của mình với vịnh Cam Ranh, với
khu vực neo đậu nước sâu
được đánh giá cao và
tính chiến lược của nó, lối vào trực tiếp
vùng biển Đông. Thực tế là
nó đã nằm dưới sự kiểm soát của
cả hai siêu cường chiến tranh lạnh tại
các thời điểm khác nhau, đầu tiên Hoa Kỳ và
sau đó Liên Xô, minh chứng cho tầm quan trọng địa chiến lược lâu dài
của Cam Ranh. Vịnh này chắc chắn là một điểm dừng chân
lý tưởng cho các tàu chiến của Nga
vượt sóng đến và đi từ vùng
Viễn Đông Nga
và Vịnh Aden. Nó sẽ tương tự như các cảng
của Syria tại Tartus,
nơi mà lực lượng đặc nhiệm của Hải quân
Địa Trung Hải của Nga đã
có quyền tiếp cận thường xuyên.
Trong thực tế, sự quan tâm của Nga trong phục hồi quyền tiếp cận với vịnh
Cam Ranh có trước
sự bùng nổ cuộc khủng hoảng Ukraine.
Những sự kiện ở Crimea
và căng thẳng tiếp theo
ở châu Âu chỉ xúc tác cái nhìn
“theo hướng đông” của Nga sang
châu Á-Thái Bình Dương và đã
làm nổi bật hơn vị trí của vịnh
này. Giao dịch trước đó với
Việt Nam, ví dụ như việc bán
tàu ngầm lớp Kilo trong năm 2009, là
một bước đệm cho quá trình này. Trong
rất nhiều sự tương tác quốc phòng cấp cao diễn ra
trong năm 2012-2013, Nga và Việt Nam
đã nhất trí về các phương thức mở rộng
vịnh Cam Ranh. Đổi
lại việc cho phép tàu chiến
Nga tiếp cận nhiều hơn, Việt
Nam
sẽ nhận được sự hỗ trợ
của Moscow trong việc phát triển cơ sở hạ tầng
trong vịnh, kể cả những đội tàu
Kilo của Hà Nội và
có lẽ quan trọng hơn,
một trung tâm dịch vụ
lớn cho các tàu dân sự và quân sự nước ngoài. Hiệp định song phương tiếp theo
đã không đi lệch khỏi
thỏa thuận này.
Trong 2013-2014, khi cuộc khủng
hoảng
Ukraine còn đang âm ỉ, một số người trong tổ chức
của Nga - bao gồm cả
các nhà lập pháp nổi tiếng
- đã nói về việc mở lại
căn cứ hải quân của Nga tại
vịnh Cam Ranh
như một phần của các kế hoạch lớn của Moscow
để tăng cường cơ sở quân sự toàn cầu.
Báo chí Nga
thậm chí đã báo cáo về
khả năng mở một trung tâm
duy trì sự sống của Hải quân
Nga trong vịnh. Tuy nhiên, vấn đề khôi phục lại cơ sở của Nga
trong vịnh Cam Ranh
đã không được đưa ra bởi một trong hai
bên.
Bất
cứ giá nào cũng không thể làm như vậy bởi chính sách đối ngoại
sau Chiến tranh Lạnh của Hà Nội
hiện nay. Rõ ràng muốn xóa bỏ bất cứ
suy đoán nào về việc vịnh
Cam Ranh được
phục hồi như một căn cứ quân sự nước ngoài, quan chức Việt Nam đã nhiều lần nhấn mạnh rằng tất cả các nước đều có thể hỗ trợ
trong việc phát triển cơ sở hạ tầng
của vịnh. Họ cũng nhắc lại rằng vịnh
Cam Ranh không có mục
đích trở thành một cảng quân sự, mà
là một trung tâm sửa chữa
và phục vụ tàu quốc tế
mở cửa cho tất cả khách hàng dân
sự và quân sự nước ngoài.
Chưa đầy hai tháng trước khi báo viết về Il-78, vào ngày 25 tháng 11 trong chuyến thăm Nga của Tổng thư ký Ủy ban
Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng, một thỏa thuận liên chính
phủ được ký kết cho phép các thủ tục tiếp cận đơn giản cho tàu chiến của Nga đến thăm căn cứ hải
quân Cam Ranh của Việt Nam. Theo thỏa thuận này, các tàu Nga tiếp cận các cảng
chỉ cần thông báo cho các nhà chức trách sau khi nhập cảnh. Quyền nhập cảnh sẽ được tự động
thông qua.
Một
“trục Nga – Trung” tại châu Á – Thái Bình Dương?
Nhìn lại những phát triển này,
hiển nhiên rằng vịnh Cam
Ranh có đặc tính nổi bật
trong chiến lược quân sự toàn cầu mới của Moscow. Sự quan tâm của Nga trong việc quay lại vịnh
có trước khủng hoảng Ukraine. Cuộc khủng hoảng
này chỉ đơn thuần là tạo động lực
lớn hơn thúc đẩy Moscow
tiến hành chiến lược. Nếu không có
cuộc khủng hoảng đó, hành động của Nga cũng sẽ không thay
đổi nhiều.
Nhưng với sự khẳng định quân sự ngày càng tăng của Nga ở châu Âu và
châu Á-Thái Bình Dương, bề ngoài là nhằm vào Mỹ
và các đồng minh, chúng ta có lý do
để lo lắng. Hơn nữa, các
chuyến bay
chở dầu của Nga tiến hành ngoài vịnh Cam
Ranh có thể được hiểu như là
một sự vi phạm nguyên tắc của Việt Nam không cho phép nước
khác duy trì các căn cứ quân sự
hoặc sử dụng lãnh thổ của mình để thực hiện các hoạt động quân sự
chống lại các nước khác. Bởi vì
Hà Nội chưa đưa ra bất kỳ
lời giải thích rõ ràng nào về điều này, Washington phải tự hỏi liệu Việt Nam
có nhất quán với các chính sách của mình và liệu Hà Nội có thân thiện với Nga hơn các đối tác khác, trong
đó có Mỹ, với
các mối quan hệ đã được tăng cường trong thời gian gần đây.
Washington rất mong muốn đảm bảo quyền
tiếp cận lớn hơn tới vịnh
Cam Ranh như một phần của chiến lược tái cân bằng đến châu Á, do căng thẳng trong tranh chấp hàng hải
nóng bỏng ở biển
Đông và biển Hoa Đông. Rất
hợp lý khi Washington có thể cảm nhận được
Bắc Kinh là kẻ hưởng
lợi nếu
vịnh Cam Ranh trở thành
một chất xúc tác nguy hiểm
cho
mối quan hệ Mỹ-Việt và buộc Mỹ
xoay trục khỏi khu vực. Khi ai
đó nhìn lại không chỉ
động thái gần đây mà cả sự phát triển
trong quá khứ của quan hệ Trung-Nga, một bức tranh khá
thú vị xuất hiện.
Cả Trung Quốc và Nga có lợi ích chung trong một trật tự thế giới đa cực, như được minh chứng trong
một số tuyên bố chung
mà họ đã ký kết từ những năm 1990. Sự
tập trung chiến lược này càng thêm
nổi bật hơn sau
các cuộc tấn công khủng bố
vào nước Mỹ ngày 11 tháng 9 năm 2001 và
các chiến dịch quân sự của Mỹ sau đó ở Afghanistan
và Iraq. Tầm nhìn Trung-Nga của một trật tự thế giới đa cực
đang gián tiếp ám chỉ
quyền bá chủ toàn cầu của Mỹ.
Căng thẳng leo thang giữa Mỹ
và Nga về Ukraine
cung cấp một cái cớ lý tưởng
cho sự hợp tác rộng hơn và sâu hơn
của Trung-Nga. Thỏa thuận khí đốt 400
tỷ đô ký tháng 5 năm 2014 cho thấy
Trung Quốc sẵn sàng hỗ trợ
Moscow tại một thời điểm đầy thách thức, ngay khi phương Tây đang cố gắng cô lập Nga qua
Ukraine. Trong khi đó, Moscow
đã khuyến khích Trung Quốc đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển vùng Viễn Đông của Nga. Bất chấp những lo ngại dai dẳng
về hành vi xâm phạm quyền sở hữu
trí tuệ quân sự-công nghệ của
Trung Quốc, Nga
đã thúc
đẩy tăng cường hợp tác quốc phòng-công nghiệp với Bắc Kinh, bao gồm cả cung cấp
một số vũ khí mới nhất.
Sự hiện diện ngày càng tăng của Nga tại
khu vực châu Á Thái Bình Dương, trong
đó các chuyến bay
của “Gấu”
đi Guam, dường như dự định
gửi Washington hai thông
điệp. Đầu tiên, Washington không nên
can thiệp vào lợi ích của Nga ở châu Âu, đặc biệt là phía đông Ukraine và
các
nước độc lập từng nằm trong khối Thịnh Vượng Chung. Thứ
hai, nếu người Mỹ
vẫn tiếp tục những hành động của mình, bao gồm tăng cường các hoạt động quân sự của NATO ở châu Âu, Nga có thể phản ứng bằng cách sử dụng khu vực châu Á-Thái Bình Dương như một
cửa sau để thực hiện
hình thức riêng của
ngoại giao pháo hạm.
Mặc dù không có thỏa thuận
chính thức giữa Moscow
và Bắc Kinh về vai trò
tiềm năng của Nga trong cuộc khủng hoảng ở Biển Đông, mối quan tâm chung của
cả hai nước vẫn hướng đến lợi ích của Mỹ trong khu vực nhạy cảm này. Người Trung Quốc vẫn chưa
có khả năng thành lập lực
lượng cần thiết để dám tiến xa vào vùng Tây
Thái Bình Dương, và Quân đội
Giải phóng Nhân dân chỉ mới bắt đầu chuẩn bị cho việc phát triển
này. Các chuyến bay của “Gấu”
Nga quanh Guam có thể
cũng được chào đón bởi Bắc Kinh, tại một thời điểm có hoạt động
quân sự tăng cường của Mỹ, bao gồm cả các chuyến bay tuần tra
hàng hải của P-8 Poseidon ở
Biển Đông, gần căn cứ hải quân chiến lược
của Trung Quốc ở đảo Hải Nam.
Tác
dụng phụ
Câu chuyện
vịnh Cam Ranh chỉ đơn thuần
cho thấy nhiều phức tạp mà sự ganh đua
giữa các Siêu Cường mang đến cho khu vực bất ổn này. Việt Nam có thể đang
ở một vị trí khó khăn. Chắc chắn, những người ở Washington
– tin rằng việc sử dụng quân sự
của Nga tại Cảng Cam Ranh
là một thách thức an ninh
– sẽ tiếp tục thúc đẩy Hà Nội
phải chấm dứt việc cho phép tiếp cận này. Nhưng
ttrường hợp mà Washington đe dọa rằng
Mỹ sẽ không hoàn toàn dỡ bỏ cấm vận
vũ khí đối với Việt Nam có các điểm nghi vấn và
sẽ không xảy ra vì ba lý do.
Đầu tiên, ngay cả khi Washington
quyết định duy trì một phần lệnh cấm vận vũ khí, Việt Nam
vẫn có
các lựa chọn khác thay thế. Trong những
năm
gần đây, Việt Nam đã tăng cường
liên kết quốc phòng với Israel
và các nước châu Âu khác muốn bán
vũ khí. Và Hà Nội cũng đã
mua lại một số sản phẩm. Thứ hai, so với trong quá khứ, Washington
ngày càng đánh giá cao mối quan hệ của mình
với Hà Nội. Do đó, Washington đã
liên tục cố gắng nhấn mạnh rằng
những tranh cãi về chuyến bay
chở dầu của Nga từ vịnh
Cam Ranh không
đã làm căng thẳng quan hệ Mỹ-Việt. Cuối cùng, Hà Nội vẫn có thể dựa vào sự hỗ trợ của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN), mà Việt Nam là
một thành viên, trong trường
hợp
bị Washington trả đũa về chính trị và
kinh tế.
Việt Nam chắc chắn cần
Mỹ
để tạo ra một đối trọng với Trung Quốc đang trỗi
dậy. Nhưng đồng thời, thực tế nước Mỹ không phải là
lựa chọn duy nhất của
Việt Nam. Ngày nay, Hà Nội được hưởng
một nền tảng vững chắc hơn trong
ngoại giao, quan hệ kinh tế và
an ninh với các đối tác trên toàn thế giới. Việt
Nam đã bố trí một phạm vi phương án chiến lược rộng lớn hơn để bảo vệ và thúc đẩy lợi ích quốc gia.
Kinh
doanh như thường lệ?
Đối với một nước nhỏ bé bị cuốn vào
chính trị giữa các Siêu Cường,
một cách tiếp cận chính sách đối ngoại có nguyên tắc và nhận thức tốt sẽ
giúp Việt Nam đảm bảo các lợi ích quốc gia của mình. Các nguyên tắc
chính sách đối ngoại của
“vừa
hợp
tác,
vừa đấu
tranh” là một
cách tiếp cận thực tế trong đó Hà Nội
không đặt tất cả trứng
vào một giỏ. Việc đa dạng hóa các mối quan hệ, công cụ quyền lực
và các chiến lược là
một điều kiện tiên quyết trong điều kiện hiện
nay. Một lập trường chính sách đối ngoại
có nguyên tắc nghĩa là Việt Nam
không lệ thuộc vào bất kỳ một thế lực ngoại quốc nào đồng thời không tạo
cơ hội cho bất kỳ đối tác
nào can thiệp vào hướng đi của mình. Từ
quan điểm của Hà Nội, Washington không cần ngăn
Việt Nam cho phép Nga quyền tiếp
cận các cơ sở quân sự của Việt Nam. Bởi vì
Nga không phải là quốc gia duy nhất được sử dụng: Quân đội Mỹ và các đối tác khác bên ngoài – đặc biệt
Hải quân Ấn Độ đã thường xuyên
viếng thăm các căn cứ của Việt Nam
–
cũng hưởng lợi từ
hiệp định toàn diện này.
Về lâu dài, việc thực hiện độc quyền và
thiên vị với quyền tiếp cận của các lực lượng nước ngoài
tới các căn cứ quân sự sẽ có nguy cơ đặt ra tiền lệ nguy hiểm cho
Việt Nam. Hà Nội hiện đã
ở một vị trí mong manh giữa
cuộc ganh đua của các Siêu Cường đang diễn ra và những căng thẳng đang sôi sục tại biển Đông. Hơn nữa, lùi
bước hoặc làm bất cứ điều gì trái ngược với chính sách ngoại giao hậu chiến tranh lạnh sẽ giáng một
đòn mạnh vào vị thế của Việt Nam
trong ASEAN. Điều này đặc biệt đúng
khi khối khu vực thiết lập một
một bộ tiêu chuẩn được gọi là
“Phương cách ASEAN”, một trong số đó là nguyên tắc không can thiệp. Washington có thể
thấy trước rằng sẽ lợi bất cập hại nếu Mỹ cố gắng
tiến vào bãi mìn này.
Nếu muốn vẫn được xem như là một đối tác độc lập trên vũ
đài thế giới, Việt Nam sẽ phải tuân thủ trung thành các nguyên tắc chính sách
ngoại giao hậu chiến tranh lạnh của mình. Lợi ích của Hà Nội gắn
liền với việc tái khẳng định với cộng đồng quốc tế rằng vịnh Cam Ranh mở cửa cho đối tượng bên ngoài đa dạng, dân
sự và quân sự. Dù
Mỹ phàn nàn, với Việt Nam, tình huống
vịnh Cam Ranh chỉ là kinh doanh như thường lệ.
Tóm
tắt:
Việt
Nam đang bị kẹt giữa chiến lược của các Siêu Cường trên thế giới. Đường lối ngoại
giao hiện nay của Hà Nội là vừa đấu tranh, vừa hợp tác để đảm bảo lợi ích quốc
gia. Nếu không duy trì tốt chính sách này, Việt Nam có thể đánh mất vị thế hiện
tại của mình. Vấn đề vịnh Cam Ranh hiện đang nhức nhối với Mỹ vì tầm quan trọng
địa chiến lược tại đây. Tuy nhiên, Hoa Kỳ có thể yên tâm một khi Việt Nam còn
kiên trì đường lối ngoại giao của mình.
©
2007-2015 Bản tiếng Việt TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC – www.phiatruoc.info
No comments:
Post a Comment