Anh
Khôi chuyển ngữ, CTV Phía Trước
Posted
on Jun 1, 2015
Liệu
sẽ có những bài học mà các nước
khác có thể rút ra từ kinh nghiệm của
một quốc gia nhỏ bé hay không?
----------------
Đa
số mọi người đều đồng tình rằng Singapore
đã đạt được những thành công đáng kể trong việc chuyển mình
từ một nước thế giới thứ ba nhỏ bé thành
một
quốc đảo thuộc thế giới thứ nhất. Khi đất nước kỷ niệm
50 năm ngày thành lập, chuẩn bị
để tổ chức bầu cử trong năm tới
hoặc lâu hơn, và thương tiếc
sự ra đi của Thủ tướng sáng lập
Lý Quang Diệu, đã có một số nỗ lực thú vị nhìn
lại kinh nghiệm của đất nước
này cho đến nay.
Theo
mạch ý tưởng này, tháng trước, một trong
những
nhà ngoại giao nổi tiếng nhất
(và gây tranh cãi) của Singapore, Kishore Mahbubani, bây giờ chủ nhiệm khoa và
giáo sư thực hành tại Viện Chính sách Công
Cộng Lý Quang Diệu tại Đại học Quốc gia
Singapore, chuyển giao một bài giảng
ở Đông Timor về
những bài học các nước đang phát triển khác - bao gồm cả Đông Timor -
có thể rút ra từ thành công
của quốc đảo. Ngoài những bài học, bài giảng
này thú vị bởi vì
nó cho thấy những điều mà giới lãnh đạo
của Singapore như Mahbubani
chọn để nhấn mạnh –
và,
cũng quan trọng không kém, không nhấn mạnh –
khi sàng lọc ra những thứ
nước khác có thể học hỏi từ kinh nghiệm
của họ.
Mahbubani cực kỳ thích tạo danh sách trong
phát biểu của mình, vì vậy ông đã tập trung sự chú ý vào
mười lý do tại sao Singapore
đã thành công.
Đầu tiên, Mahbubani
thừa nhận, Singapore đã gặp may. Như
được sắp đặt bởi số phận, Singapore đã
may mắn có những người cha sáng lập tốt như
Lý Quang Diệu, S. Rajaratnam và
Goh Keng Swee
để dẫn
dắt quốc gia khi mới bắt đầu.
Thứ hai, quốc
đảo là một vườn ươm văn hóa nhân tài.
Singapore đảm bảo rằng
nhân viên được tuyển dụng và thăng cấp
bằng thực lực và được trả lương đầy đủ. Mahbubani
trích lời ngài Lý khi nói, “Một lãnh đạo
chính trị mạnh mẽ cần có một
sự phục vụ dân sự trung thực, hiệu quả, trung
tính".
Thứ ba,
các nhà lãnh đạo của đất nước
sử dụng chủ nghĩa thực dụng như
triết lý soi đường của họ. Mahbubani lưu ý rằng
Goh Keng Swee
đã nghiên cứu Duy Tân Minh Trị rất cẩn thận, và rằng
các nhà lãnh đạo Nhật Bản
đã dành thời gian đáng kể
để cố gắng nghiên cứu, sao chép và điều chỉnh
cách áp dụng thực tế tốt nhất vào Nhật Bản
từ các
mô hình khắp nơi trên thế giới. Singapore
hướng tới áp dụng một cách tiếp cận tương tự.
Thứ tư, Singapore
tối đa hóa khả năng linh hoạt trong chính sách đối ngoại của mình. Nhận thấy rằng các quốc gia nhỏ không đủ khả năng để tạo kẻ thù, Singapore
quản lý các mối quan hệ của mình
một cách khéo léo để
duy trì hòa bình và thịnh vượng. Mahbubani trích lời S.
Rajaratnam nói vào năm 1965
trong một bài phát biểu tại Liên Hợp Quốc rằng: “Chúng tôi muốn sống trong hòa bình với tất cả
các nước láng giềng chỉ đơn giản bởi chúng tôi sẽ
mất rất nhiều thứ nếu có chiến tranh với họ. Vì vậy,
tất cả những gì chúng tôi yêu cầu là
được yên bình để định hình lại
và xây dựng đất nước theo cách người
dân muốn.”
Thứ năm,
các nhà lãnh đạo Singapore
tập trung vào việc bắt đầu với
các thành công nhỏ. Ban đầu, Mahbubani nói, đạt được
sự phát triển có thể không chỉ là
cải cách sâu rộng mà còn là các bước nhỏ hơn
mà có một tác động rất lớn đến đời sống hàng ngày
của người dân như đào một cái giếng trong làng
để cung cấp nước.
Thứ sáu, Singapore
không chỉ dựa vào viện trợ nước ngoài
mà còn dựa trên thương mại và đầu tư để đạt được
các mục tiêu phát triển của mình. Mahbubani
cho rằng một phần lớn viện trợ
của phương Tây thường quay lại cho các
quốc gia tài trợ dưới hình thức chi phí hành chính, chi phí tư vấn và các hợp đồng. Như vậy,
có thực sự rất ít giao dịch thực tế của viện trợ tới
được các nước đang phát triển. Ông nhấn mạnh
sự thành công của Hội đồng Phát triển Kinh tế của Singapore
trong việc giúp mang
về các khoản đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Thứ bảy,
Singapore đã có một chính sách
toàn diện về các dân tộc thiểu số. Để phù hợp với các nhóm dân tộc
trong cả nước - trong đó bao gồm Trung Quốc, Malay và Ấn Độ
- đất nước có bốn ngôn ngữ chính thức: tiếng Anh,
tiếng Hoa, tiếng Mã Lai và tiếng Tamil. Ngoài ra còn có một sự cân bằng trong
trường học giữa tiếng Anh như
một ngôn ngữ hướng dẫn chung
để phục
vụ cho giao tiếp và cho phép các nhóm học tiếng “mẹ đẻ”
của riêng họ.
Thứ tám, các nhà lãnh đạo Singapore tin vào
các suy nghĩ dài hạn. Ở đây,
Mahbubani lấy ví dụ về nhu cầu
của Singapore để
đảm bảo nguồn nước. Mặc dù quốc đảo đã
ký kết một thỏa thuận
nước 100 năm với
Malaysia vào năm 1961, các lãnh đạo vẫn thừa nhận
điểm yếu cố hữu khi dựa vào hàng xóm của mình
với một nguồn tài nguyên quan trọng
như vậy. Vì vậy, họ đầu tư vào những cách
để có được các nguồn nước riêng, bao
gồm thông qua các hồ chứa, nhà máy khử
muối
và các cơ sở cải tạo nước.
Thứ chín, Singapore tránh các biện pháp dân túy. Ví dụ, Mahbubani lưu ý về các lo ngại của các nhà lãnh đạo đất nước liên quan đến hệ thống phúc lợi, tin rằng “bố thí” làm suy yếu khả năng tự lực và nuôi dưỡng một sự phụ
thuộc vào nhà nước. Tuy nhiên, ông cho biết, quốc đảo đã đầu tư vào phúc lợi của người dân theo những cách khác,
bao gồm thông qua giáo dục chất lượng cao và chăm sóc sức khỏe; nhà ở công cộng giá cả phải chăng và giao thông công cộng; và một quỹ tiết kiệm bắt buộc đối với người lao động.
Thứ mười, các lãnh đạo
của Singapore trung thực
và không tham nhũng. Mahbubani
thừa nhận rằng đây có thể là điều khó đạt được nhất trong
danh sách của mình. Trung thực trong
một quốc gia làm cho mọi người cảm thấy tự tin vào các nhà lãnh đạo của họ và khiến
cho các nhà đầu tư yên tâm
để làm kinh doanh.
Sau khi đi hết danh sách,
Mahbubani
đã thừa nhận vào cuối
bài giảng của mình rằng một số những bài học có thể sẽ
khó nhân rộng, và rằng bất kỳ nguyên tắc nào
cũng cần được điều chỉnh phù hợp với
hoàn cảnh địa phương bao gồm
ở Đông Timor.
Tóm tắt:
10 bài học của Singapore trong phát triển được
liệt kê lần lượt như sau: đầu tiên, may mắn. Thứ hai, tạo
một vườn ươm văn hóa nhân tài. Thứ ba,
áp dụng đúng đắn chủ nghĩa thực dụng. Thứ tư, tối đa hóa
khả năng linh hoạt trong chính sách đối ngoại. Thứ năm, tập trung vào việc bắt đầu với các thành công nhỏ. Thứ sáu,
không chỉ dựa vào viện trợ nước ngoài
mà còn dựa trên thương mại và đầu tư để đạt được
các mục tiêu phát triển. Thứ bảy, có một
chính sách toàn diện về các dân tộc
thiểu số. Thứ tám, cần các suy nghĩ
dài
hạn. Thứ chín, tránh các biện pháp dân túy. Thứ mười, trung thực
và không tham nhũng. Các nguyên lý này cần
được điều chỉnh để áp dụng phù hợp cho từng nước.
©
2007-2015 Bản tiếng Việt TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC – www.phiatruoc.info
No comments:
Post a Comment