Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2014-08-09
2014-08-09
Bích chương quảng
cáo Tác phẩm Đèn Cù. Hình do tác giả
cung cấp
Tác
giả Đèn Cù là nhà báo kỳ cựu của tờ Sự Thật từ những ngày đầu tiên khi báo này
thành lập do Trường Chinh làm Tổng biên tập. Ông sinh năm 1930 và tham gia Việt
Minh vào năm 1946 tức lúc mới 16 tuổi, Trần Đĩnh thuộc lớp đảng viên tiên phong
gia nhập đảng cộng sản Việt Nam từ năm 1948. Ông là người chấp bút tiểu sử của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, chấp bút những tự truyện của nhiều nhân vật như Phạm
Hùng, Lê Văn Lương, Bùi Lâm, Nguyễn Đức Thuận.
Những
phân tích tinh tế
Do
làm việc trong một cơ quan báo chí cao nhất của Đảng ông có cơ hội gặp gỡ hầu
hết các khuôn mặt của chế độ từ Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, tới Lê Đức
Thọ, Hoàng Tùng, Đỗ Mười … và những quan hệ này đã giúp ông sớm nhận ra khuôn
mặt thật phía sau chiếc mặt nạ của các chóp bu cộng sản.
Sau
khi vụ án “Xét lại chống đảng” diễn ra ông cũng là một nạn nhân tuy mức độ lao
tù nhẹ hơn người khác nhưng đủ để ông thấy được sự đấu tranh gay gắt, sống còn
giữa Mao Trạch Đông và Liên Xô cùng với nghị quyết 9 ra đời dẫn dắt cả hệ thống
Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng rơi sâu vào vòng kềm tỏa của Trung Quốc.
Là
người theo học tại Bắc Kinh 5 năm trời, ông có những phân tích tinh tế trong
“Đèn Cù” từ hành động tới cách đối xử của Mao đối với Lê Duẩn, Võ Nguyễn Giáp
hay ngay cả Hồ Chí Minh trong những ngày chiến tranh chống Mỹ. Những ghi chép
của ông tuy không phải là những bí mật to lớn nhưng cũng giúp cho lịch sử cận
đại Việt Nam có cái nhìn chuẩn xác hơn về sự lệ thuộc của Việt Nam vào hai đầu
tàu Cộng sản thế giới là Liên Xô và Trung Quốc.
Những
ghi chép ấy nằm trong một văn phong tưởng chừng như hờ hững nhưng thật ra chất
lửa tiềm ẩn từ trang đầu tiên tới những giòng cuối cùng. Trần Đĩnh tỏ ra không
dễ dãi như cách kể chuyện của nhiều người, nhất là những người danh giá. Ông là
nhà báo có cách viết của một nhà văn đậm chất trữ tình qua nhịp đập của trái
tim thi sĩ.
Diễn
tả sự việc cô đọng, nén thông tin đến mức có thể, nhà báo Trần Đĩnh tỏ ra rành
rẽ kỹ thuật thông tin của thế kỷ 21 mặc dù ông là người đã cầm bút gần 70 năm
từ ngày đầu tiên trình diện báo Sự Thật.
Khi
đọc những giòng văn sau đây khó ai có thể nghĩ rằng tác giả Đèn Cù là một nhà
báo, ông viết:
“Cuộn
dây thừng trong tay anh tuột ra văng trên mặt nước như một lằn roi sáng quắc.
Và chỉ một dìm xuống rồi một nhồi thúc lên là anh lính liền mất tăm. Khi anh
dội ngược trở lên lần cuối, hai mắt anh mở đã dại đờ. Cái chết chớp nhoáng
nhưng những nghi thức đi kèm nó lại từ tốn rất mực. Cặp mắt dại kia như mơ màng
khép lại, tóc trên trán anh thong thả tách ra từng sợi lượn lờ rồi ngoan ngoãn
theo nước mơn trớn phân chia để lần lượt rẽ trái rẽ phải hai bên, quá đều, quá
phân miêng, khơi ra một đường ngôi quá thẳng, quá sạch, quá trắng ở chính ngay
giữa đỉnh đầu anh. Tôi khẽ nấc và cắn chặt môi. Tôi thấy lại anh ba bốn tuổi
đang ngửa mặt lên cho bàn tay mẹ định hình đường ngôi đầu tiên trong đời để anh
giữ lấy mãi, đường ngôi mà nay con lũ trung thành đang tỉ mẩn xếp lại cho đúng
nguyên mẫu ban đầu.”
Trong
Đèn Cù không hiếm những câu văn tinh tế như vậy do đó khi đọc nó người ta thấy
cảm xúc thi ca được vuốt ve và những hiện tượng chính trị thanh trừng, trù dập,
bợm bãi với nhau trở nên dễ chấp nhận hơn đối với người khó tính.
Hình chụp tại tòa
soạn báo Sự Thật năm 1948, từ trái sang: Diên Hồng, Nguyễn Địch Dũng, Kỳ Vân,
Lê Quang Đạo, Trần Đĩnh, Trường Chinh, Lê Xuân Kỳ, Thép Mới, Hồng Vũ. Hình do
Tác giả cung cấp.
Nhân
chứng lịch sử
Trần
Đĩnh viết trước hết cho ông, sau đó mới tới người đọc ông và cuối cùng là những
thước phim tài liệu có khả năng đứng vững như nhân chứng lịch sử, lịch sử của
dối trá và che dấu triệt để sự thật. Để che dấu nó, đảng Cộng sản Việt Nam rập
khuôn Liên Xô và Trung Quốc, cơ quan báo chí quan trọng nhất phải có tên Sự
Thật.
Xuyên
suốt 600 trang của Đèn Cù là hai mảng quan trọng diễn ra sau khi cộng sản cướp
chính quyền. Lần thứ nhất đấu tố địa chủ, cũng là dân chúng bị ép lên miễn
cưỡng trở thành địa chủ qua “Cải cách ruộng đất”. Lần thứ hai đấu tố, giam cầm
những đảng viên cộng sản có khuynh hướng thân Liên Xô và chống đối cuộc chiến
tranh tương tàn qua tên gọi “Vụ án xét lại chống đảng”.
Trần
Đĩnh không vẽ ra toàn cảnh bức tranh theo thứ tự thời gian sự kiện như thông
thường. Ông kéo từng mảng nhỏ mà ông chứng kiến, tham gia ra miêu tả lại với
những chi tiết sâu lắng dẫn dắt câu chuyện như mục tử nghêu ngao trên cánh đồng
hoàng hôn đầy ắp những nhân chứng lịch sử. Họ tuần tự kể lại hay qua Trần Đĩnh,
minh họa lại từng chi tiết với giọng văn tỉnh táo, trầm tư và rất thông minh
của một cây viết kinh nghiệm lão luyện về tự thuật.
Qua
lời một người bạn thân theo chân Lê Duẩn sang Trung Quốc xin Bắc Kinh giải tỏa
số hỏa tiển do Liên Xô viện trợ bị Trung Quốc chặn lại vì muốn dằn mặt Việt
Nam, Trần Đĩnh nhìn thấy ở Lê Duẩn một sự ê chề, bị làm nhục vì dám sang Moskva
trước khi tới Bắc Kinh.
Chính
ông, vào năm 1958 khi học tại Trung Quốc đã chứng kiến tận mắt sự khinh bỉ của
sinh viên Trung Quốc đối với chế độ Việt Nam qua câu chuyện rất ngắn nhưng gói
ghém rất nhiều sự thật về tình đồng chí quốc tế vô sản, ông kể:
“Một
hôm Chu Ân Lai, Lý Phú Xuân đến Bắc Kinh đại học nói chuyện với cả nghìn sinh
viên. Bọn tôi nghe. Các mẩu câu hỏi, thắc mắc của sinh viên tới tấp truyền tay
nhau đưa lên trên bàn Chu Ân Lai. Đến một mẩu, ông đọc to: Trung Quốc nghèo,
dân Trung Quốc đói, sao cứ phải giúp Việt Nam?
Tôi
thật tình xấu hổ. Sinh viên Trung quốc đòi chấm dứt viện trợ cho Việt Nam trước
đông đủ các nước, nhất là trước sinh viên Hồi Giáo sáng sáng bốn năm giờ ra
hành lang tụng kinh giập đầu thình thình xuống đất không ai ngủ nổi. Mà sao Chu
Ân Lai không ỉm đi? Tôi hơi ức.
Chu
Ân Lai giải đáp ngắn gọn, thẳng thắn. Viện trợ cho Việt Nam là nghĩa vụ quốc tế
nhưng có lợi cho Trung Quốc: nên đẩy chiến tranh và đế quốc ra xa Trung Quốc
hay để cho chúng nó áp sát bên cạnh?”
Trần
Đĩnh chứng kiến việc Mao Trạch Đông giả vờ “Chỉnh đảng” để tiêu diệt thành phần
chống đối với y. Báo chí được lệnh kêu gọi phải đốt rụi những gì mà đảng sai
lầm, phải “thiêu cháy đảng” để đảng tái sinh…Thế là vô số người đứng lên làm
theo sự kêu gọi này mà có hay đâu đó là mồi nhử những người có tư tưởng đòi
thay đổi đảng. Mao Trạch Đông dưới mắt Trần Đĩnh là một gã đồ tể máu lạnh. Cử
chỉ nhỏ nhẹ, ăn nói từ tốn nhưng là để đối phương có thời gian bày tỏ ngưỡng mộ
hơn là bản chất của y, một gã cộng sản có dã tâm muốn thế giới biến động để
Trung Quốc đứng giữa hưởng lợi.
Hàng đầu từ trái
qua: vợ Hà Xuân Trường, Lê Ðạt, Hồ Chí Minh, ngoài cùng bên phải là Trường
Chinh, hàng sau đứng đầu bên trái là Hà Xuân Trường. Hình do Tác giả cung cấp.
Những
con rối không tự biết mình là rối
Đèn
Cù, ngay cái tên của tác phẩm đã nói lên sự vắt kiệt tư duy của tác giả vào
quyển sách này.
Khi
nói đến Đèn Cù người ta nghĩ ngay tới cái tên gốc của nó: Đèn kéo quân. Cái gốc
đó phát xuất từ Tàu và người Việt sau nhiều thế kỷ đã làm theo nó một cách tự
nguyện. Đèn Cù trở thành văn hóa Việt Nam, thay đổi chất liệu nhưng nội dung
thì y như nguyên bản.
Nếu
nhìn trên mặt bằng văn hóa thì Đèn Cù được diễn giải là hội nhập, là hòa tan và
hàng chục khái niệm khác. Tuy nhiên đối với Trần Đĩnh, Đèn Cù được khai mở
trong một ý niệm khác: Đảng cộng sản Việt Nam theo đuôi nhau chạy vòng tròn
dưới bầu khí bị đốt lên bởi ánh nến ý thức hệ của đàn anh Trung Quốc. Họ như
những con rối không tự biết mình là rối. Không những thế họ muốn mọi người phải
như họ, tức là bịt tai, bịt mắt bịt cả tư duy để tin vào Trung Quốc một cách mù
quáng. Sự mù quáng vì ý thức hệ sai khiến ấy trở thành bi kịch cho đất nước chỉ
vì một nhóm nhỏ người lũng đoạn, thao túng mà phải chịu cảnh nồi da xáo thịt
trong nhiều chục năm trời.
Trần
Đĩnh không chấp nhận bị sai khiến và có chân trong cái đám đông tôn sùng Mao
Trạch Đông của các lãnh đạo Việt Nam. Ông tách ra đứng riêng chấp nhận tư thế
của một người ngoại cuộc, ngoại cuộc với sự tôn sùng lãnh tụ nhưng không ngoại
cuộc với số phận Việt Nam:
“Sau
năm năm du học tôi bắt đầu thấy đuợc một điều khôn lớn nhất: hãy cảnh giác với
thần tượng và bỏ thần tượng! Do đó hãy tin trước hết ở lương tri, bản chất
mình, gắng là chính mình, chớ nghe sai phái. Do đó dám phê phán, dám lên tiếng
và dám chịu đựng... Cái đó nhờ phong trào phái hữu - mà tôi say sưa, sung suớng
chứng kiến - phủ nhận chủ nghĩa xã hội, độc quyền lãnh đạo, những mỹ tự có tính
bùa phép khiến một lớp người ít ỏi bỗng trở thành thần thánh.”
Những
gì mà Trần Đĩnh tự nói với mình nhiều chục năm về trước vẫn theo đuổi suốt cuộc
đời ông. Xóa dấu vết thần tượng Trung Quốc không quá khó đối với ông nhưng hai
thần tượng khác bao vây trí tuệ nhà báo Trần Đĩnh thật không dễ xóa chút nào.
Người
thứ nhất là Hồ Chí Minh và người thứ hai là Trường Chinh.
Hình
ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh rơi xuống trong lòng Trần Đĩnh vì tuy ông không ký vào
nghị quyết 9 ủng hộ Trung Quốc nhưng trong tư cách lãnh tụ ông đã bị phe Lê
Duẩn khống chế để không dám lên tiếng khiến Trần Đĩnh tỉnh ra trước sự thật
này. Nghị quyết 9 chỉ là giọt nước tràn ly khi trước đó qua Phạm Văn Khoa, một
người bạn của tác giả tháp tùng với Hồ Chủ tịch sang Trung Quốc về kể lại
nguyên văn rằng: “Ông Cụ sang kiểm thảo với Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu
Ân Lai!”.
Trường
Chinh cũng thế, tuy là bậc thầy trong nghề báo đối với Trần Đĩnh nhưng tư cách
tránh né vấn đề Cải cách ruộng đất cũng như hành xử trong đời sống đã làm sự
kính trọng của ông dành cho Trường Chinh hoàn toàn phá sản.
Và
rồi những diễn biến trong hậu trường chính trị của Đảng cộng sản Liên Xô và
Trung Quốc đối với Việt Nam đã gây đổ vỡ hoàn toàn trong con người nhà báo Trần
Đĩnh. Ông phát hiện ra rằng Mao Trạch Đông là người vận động Stalin thôi không
có thái độ phủ nhận đối với Hồ Chí Minh trong cái gọi là cộng sản quốc tế.
Chính Stalin đã phân công cho Trung Quốc “phụ trách” Việt Nam, mà trong ngôn
ngữ công sản “phụ trách” đồng nghĩa với chỉ đạo, định hướng, kể cả ra lệnh.
Tác
giả Đèn Cù viết: “Hệ lụy đã nằm lại sâu bền trong vô thức đảng viên cộng sản
Việt Nam: vị trí đàn em, bên dưới, yên phận biết ơn đã thành nền móng cho một
tư thế ứng xử với Trung Quốc. Xuân Trường cho biết Bác nhà mình chủ động khẳng
định với Bác Mao quan hệ môi răng giữa Việt Nam và Trung Quốc.”
Sự
lệ thuộc vào Trung Quốc như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt tác phẩm Đèn Cù. Do chạy
theo một cách vô thức như những hình nhân mà nhiều đời Tổng bí thư sau Trường
Chinh, Trung Quốc vẫn chiếm một vị trí cao chất ngất trong quan hệ giữa hai
đảng kể cả sau cuộc chiến 1979 nhuốm đầy máu do Trung Quốc gây ra.
Trần Đĩnh chụp cùng
Tô Hoài. Hình do Tác giả cung cấp.
Do
cùng thời với các danh tài như Nguyễn Tư Nghiêm, Tô Hoài, Quang Dũng, Lê Đạt,
Nguyễn Hữu Đang, Xuân Diệu, Phan Kế An, Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Tô Ngọc
Vân, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng. Tế Hanh, Xuân Tửu, Đặng Thái Mai…Trần
Đĩnh có cơ hội nhìn thấy cách ứng xử của từng cá nhân trong mỗi con người của
họ. Chuyện sợ hãi của những người sống trong chế độ cộng sản đã trở thành quen
thuộc nhưng ám ảnh sau vụ Cải cách ruộng đất như Tô Hoài thì có lẽ đã lên tới
thể loại hài hước khó ngăn tiếng thở dài. Trần Đĩnh kể lại:
“Khoảng
hai trăm tù binh phi công Mỹ xếp hàng đầy hết lòng đường đi tới. Quần áo bà ba
mầu xám khói nhạt. Tôi giật mình: tất cả đoàn người bị trói kia sao quá giống
hệt nhau? Ở chiều cao, ở khổ người, ở dáng đi, ở nét mặt, ở tư thế và thần
thái. Lầm lũi ngửng đầu nhìn thẳng vào cái không gian bao quanh đằng đằng sát
khí và tiếng la ó. Thoáng rất nhanh tôi ngỡ xem một tập quần tượng đài di động
được một đạo diễn tài ba điều khiển. Nhà đạo diễn đó là ý thức về giá trị tự
thân. Và rất nhanh lại nghĩ ai đó đã dựng nên tập thể điêu khắc này để đối lại
tượng đài Nạn nhân các trại tập trung Quốc xã.
Dân
hai bên đường hò hét, đánh đấm, ném đá. Những cái đầu tù binh quay ngoắt tránh
đá, tránh đấm rất nhanh. Những con mắt không một lúc nào cầu van, nao núng...
Ba
chúng tôi đứng lặng trên hè. Tương quan sức mạnh quá chênh nhau tự nhiên làm se
lòng. Đoàn tù binh đã đến đoạn cuối, chợt Tô Hoài nhào xuống đường, nhảy vội
lên đấm một cái trượt vào mặt một người tù binh đi ở ngoài cùng.
Anh
trở lại, tôi hỏi khẽ: - Đánh người ta làm gì?
Xung
quanh căm thù như thế chả lẽ ba đứa mình đứng yên? - Tô Hoài che miệng tủm tỉm
cười.”
Cái
mỉm cười của Tô Hoài sau đó thể hiện lại một cách sắc sảo qua các cuộc đấu tố
trong tiểu thuyết “Ba người khác”.
Đọc
Đèn Cù cần một sự kiên nhẫn. Kiên nhẫn như người nông phu cần mẫn nhặt từng hạt
giống hư bỏ ra trước khi gieo giống. Những “hạt giống” trong Đèn Cù cũng vậy,
có thể làm người đọc ngơ ngác vì nó tiết lộ những sự thật nao lòng, đến nỗi khó
tin, nhưng tiếc thay nó lại là sự thật.
Thất
tình Hồ Chí Minh?
Mặc
Lâm: Tiếp
tục về tác phẩm Đèn Cù xin nhà báo, nhà văn Trần Đĩnh vui lòng cho biết tại sao
tới giờ này ông mới quyết định ra mắt tác phẩm này? Động lực nào đã giúp ông
ngồi xuống tiếp tục viết những giòng cuối cùng của 600 trăm trang đầy ắp tư
liệu lịch sử như thế?
Trần
Đĩnh: “Lê
Đạt là người khuyến khích, cổ động. Tôi đã định viết rồi và cũng đã viết rồi
nhưng tôi không cho Lê Đạt biết là tôi đã viết. Tôi nói là viết phải cô đơn vì
anh viết trong khi người ta mời anh cả ngày ra đồn, ra trạm thì anh không làm
được gì cả. Phải hết sức khiêm tốn chứ tôi nói anh đừng có phổng mũi lên. Anh
muốn đi đường xa thì phải chuẩn bị cho kỹ chứ đừng ầm ĩ lên thì anh sẽ thiệt.
Cứ lặng lẽ, lặng lẽ như thế này. Tôi viết từ năm 1990 cho đến bây giờ, cứ lặng
lẽ. Lê Đạt thấy tôi sống và viết như thế và nói “mày không viết thì tao là
người thất bại” một cách để khuyến khích nhau thôi.”
Nhà văn nhà báo Trần Đĩnh, ảnh chụp năm 1998. Hình do ông cung cấp.
Mặc
Lâm: Trong
Đèn Cù có đoạn ông đã tỏ ra thất vọng và than rằng ông đã thất tình với Trường
Chinh và cả Chủ tịch Hồ Chí Minh. Điều gì đã làm ông tuyệt vọng về họ đến nỗi
phải dùng hai từ thất tình để mà miêu tả như vậy?
Trần
Đĩnh: “Thứ
nhất là ông Trường Chinh ấy nói với tôi là ông ấy hoàn toàn tán thành vấn đề
sống hòa bình dân chủ. Ông ấy nói với tôi rằng đồng chí Krouchev chủ trương hòa
bình thì làm sao mà chửi đồng chí ấy? Cho đến lúc ông ấy gọi tôi viết hồi ký
tôi biết là ông ấy nhắm tôi vì tôi với ông ấy nhiều cái hợp nhau. Thứ nhất là
ông ấy thích văn tôi. Thứ hai là ông biết lập trường của tôi là giống ông ấy
chứ không theo Lê Duẩn, cứng rắn theo Trung Quốc.
Lúc
bấy giờ đảng Cộng sản Việt Nam đứng trước hai ngả đường: theo Liên Xô hay theo
Trung Quốc? Lúc đó Trung Quốc kéo mạnh lắm, kéo người bên cạnh với sức quyết
tâm rất mạnh. Hơn nữa là ông Stalin nói là để Mao Trạch Đông phụ trách Việt Nam
cho nên là đã có đường mòn thế rồi. Anh nên nhớ Nghị quyết 9 cụ Hồ không bỏ
phiếu. Không bỏ phiếu tức là không tán thành, coi tư tưởng Mao Trạch Đông là tư
tưởng Lenin thời đại này. Ông Lê Duẩn cũng đã xác định trong quyển sách coi tư
tưởng Mao Trạch Đông là tư tưởng của Lenin trong thời đại cách mạng này. Thế mà
cụ Hồ không bỏ phiếu là không tán thành rồi.
Ông
Trường Chinh thì tán thành và nói rằng Trung Quốc đã đấm 9 cú đấm Thôi sơn,
đánh tan chủ nghĩa Krouchev. Tôi thấy ông ấy đi ngược lại mình nên tôi có cảm
giác là thất tình! Bây giờ thì mình có tuổi nên cũng hiểu là con người ta cũng
có lúc lắt léo thế này thế nọ. Cuối cùng ông ấy mới kiến nghị nên mới có cái
đổi mới sau này đấy chứ. Đổi mới được một tí thì ông Lê Đức Thọ lại bắt ông ấy
phải về. Cụ Hồ cũng thế. Tôi thần thánh cụ Hồ vì tôi tôi nghĩ cụ sẽ nói ra sự
thật. Ai ngờ đâu cụ cũng im nốt. Té ra mình là thằng bướng bỉnh cứ nói. Thất
tình là như thế!”
Mặc
Lâm: Sau
khi Lê Duẩn bị Trung Quốc làm cho ê mặt trong chuyến đi xin Bắc Kinh cho phép
hỏa tiến viện trợ từ Nga được thông cảng sang Việt Nam, phải chăng Lê Duẩn rất
căm Bắc Kinh và tỏ thái độ chống Trung Quốc một cách mạnh mẽ sau này thưa ông?
Trần
Đĩnh: “Ông
ấy chưa chống đâu, nhất định chưa chống đâu. Sau này khi Cách mạng Văn hóa thì
ông ấy mới giật mình. Ông bảo không cẩn thận thì lôi thôi nhưng ông ấy cũng
chưa chống. Sau này Trung Quốc lớn giọng quá ông ấy bắt đầu giật mình.
Anh nên nhớ lúc bấy giờ tôi có viết là Việt Nam như gót giày Achilles, luôn
luôn đứng dưới bóng đa bóng đề của Trung Quốc chứ không thể đứng một mình được.
Chúng ta cứ nói là chúng ta anh hùng nhưng chúng ta thua thằng hèn là thế.
Không thể đứng một mình được. Ngay đến bây giờ cần các ông ấy đứng một mình tức
là anh dám đi một mình hay không, nhưng lại không dám nên vẫn nhìn ngó anh
Trung Quốc. Cái bóng đó lớn đến nỗi chúng ta không thể ra khỏi nó được.”
Mặc
Lâm: Lãnh
đạo Việt Nam hôm nay có vẻ chưa rút ra được kinh nghiệm thân thiện với Trung
Quốc cách nào đi nữa thì vẫn bị họ khinh thường, dẫn dắt theo quyền lợi của họ.
Ông đã từng biết nhiều về việc Trung Quốc coi thường Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn
thậm chí với chủ tịch Hồ Chí Minh, ông lý giải thế nào về hiện tượng lãnh đạo
hôm nay?
Trần
Đĩnh: “Lúc
đầu cái chủ nghĩa Cộng sản Quốc tế nó làm cho người ta đinh ninh rằng phải có
phe và có người đỡ lưng cho mình cho nên có gì thì cái xe vẫn phải chạy và có
người lái vẫn phải đi tiếp. Vì vậy khi Đặng Tiểu Bình lên ta bắt đầu hy vọng.
Đấy là những điều ảo tưởng hết. Đinh ninh rằng Việt Nam đã đứng trên cái xe thì
phải có đầu tàu, hoặc Liên Xô hoặc Trung Quốc rồi thì chúng ta sẽ tiến lên.
Trước mắt họ có làm xấu thì chắc họ sẽ phá ra được, cũng như Đặng Tiểu Bình
đánh Mao Trạch Đông để lên đấy. Tất cả đều bị chủ nghĩa Quốc tế vô sản làm cho
bị lóa đi. Cứ đinh ninh là như vậy nên không thể đứng một mình được.
Quả
thật Việt Nam có bao giờ đứng một mình được đâu. Ngày xưa chưa có gì thì đảng
Cộng sản Pháp phụ trách. Tất cả những ông lãnh đạo không biết tiếng Nga, tiếng
Trung Quốc, chỉ biết tiếng Pháp thôi. Nga giúp tiền cho mình thì lại qua Pháp.
Sau này năm 1949 thì đi sang xin Trung Quốc. Mình không thể hiểu cái ràng
buộc về ý thức hệ nó kinh khủng lắm. Con người ta không dám vượt khỏi cái
ranh giới của ý thức hệ đã qui định được đâu. Anh phải có phe. Anh phải có
đầu tàu, đầu tàu cách mạng ấy, Liên Xô lãnh đạo anh không được vi phạm không
được phản bội. Anh nên nhớ ngày xưa trong đảng Cộng sản quốc tế, chi bộ của
quốc tế là chi bộ của Liên Xô. Anh mà phản bội chi bộ ấy thì còn ra cái gì nữa,
đúng không?
Cho
nên cái tâm thức luôn luôn phục tùng, luôn luôn sợ hãi kỷ luật ấy làm cho người
ta bị tù túng ghê lắm. Anh bị khống chế trước những quy luật tự anh đặt ra. Anh
nên nhớ là bất kỳ một ông lãnh tụ cộng sản nào cũng đều không được phép tự lập
ra đảng. Phải có Stalin bảo lập mới được lập. Anh mà tự lập anh chết ngay. Phải
có sự xem xét của Stalin để nghiên cứu xem tay này được hay không. Ghê lắm. Đó
là một uy lực kinh khủng.”
Mặc
Lâm: Qua
vụ án xét lại chống đảng, ông nhận xét thế nào về vai trò của hai ông Lê Duẩn và
Lê Đức Thọ?
Trần
Đĩnh: “Trước
hết chính ông Duẩn xác định tư tưởng Lenin vào thời đại này. Ông Duẩn rất tán
thành câu Mao Trạch Đông nói rằng “Thiên hạ đại loạn Trung Quốc được nhờ.” Có
nghĩa là bạn bè mà đánh khắp thế giới, đại loạn thì chính Trung Quốc mới thoát
được ra mà hưởng trong đại loạn ấy. Cái câu ấy đầy trong sách vở của Trung
Quốc. Ngày xưa tôi ở Trung Quốc tôi biết. Ông Duẩn rất tâm đắc câu ấy. Bây giờ
lái theo quĩ đạo ấy, chiến tranh các thứ... thì họ là người tổ chức còn ông ấy
cứ theo đúng đường lối ấy. Tổ chức như vậy thì làm thế nào chống lại. Ông Thọ
thì tính cách là người gian hùng làm dữ dằn lên. Bố vợ tôi do chính ông ấy giết
chứ chả thấy xét lại gì cả. Có xét lại thì ông ấy cũng đã chết từ năm 46-47
rồi, Đảng viên đảng Cộng sản Trung Quốc ông ấy thịt hết. Ông Lê Giản chống tổng
giám đốc công an xin khiếu nại mà không được.”
Anh
hùng hay anh hèn?
Mặc
Lâm: Trong
gần cuối cuốn sách có một đoạn rất buồn: Ông khóc vì dân ta hèn và vì nghĩ như
thế liên can tới cha mẹ nên ông bị mặc cảm là hỗn láo với tiền nhân, ông có thể
chia sẻ thêm về việc này?
Trần
Đĩnh: “Tôi
nói dân ta hèn là vì như thế này: dân ta anh hùng nhưng sợ từ anh tổ trưởng sợ
đi, sợ anh công an, sợ các thứ. Tôi cũng cảm thấy chính mình cũng hèn. Mình sợ
nhiều thứ quá. Đấy là một tâm lý rất Việt. Bom đạn không sợ nhưng rất sợ quyền
lực. Chính điều đó đẻ ra việc chúng ta khó có dân chủ là vì dân trí thấp. Chúng
ta đinh ninh rằng chúng ta anh hùng trước mặt “kẻ thù” nhưng đụng đến chính
quyền, đến nhà nước là ta im re hết. Tôi gọi hèn là vì vậy. Tại sao tôi khóc vì
tôi cảm giác nhân dân như bố mẹ mình mà mình nói xúc phạm như vậy là mình có
lỗi với bố mẹ mình. Bây giờ dần trưởng thành rồi mình cảm thấy không phải như
vậy nữa.”
Mặc
Lâm: Và
nhìn lại hoàn cảnh sống hiện nay tại Việt Nam thì ông có cảm thấy sự hèn ấy có
bớt đi phần nào hay không?
Trần
Đĩnh: “Bây
giờ bắt đầu khá lên đấy. Dân mình bắt đầu khá lên là vì sự thật đã được cởi
tất. Theo tôi tất cả đều là sự thật hết. Người ta nhìn thấy ra sự thật, cái gì
là nguyên nhân. Trước đây người ta thấy nguyên nhân là đế quốc nhưng dần dần
thì không phải. Dần dần thì người ta thấy nguyên nhân chính là mất dân chủ nhân
dân không được coi trọng. Nhân dân chỉ có tiếng là gốc, là chủ thôi chứ không
hề có quyền lực gì hết. Người ta thấy ra sự thật thôi. Người ta thấy đảng đã
tước quyền của người ta. Trong quyển sách, tôi có nói với anh cục trưởng cục
A25 chuyên về an ninh văn hóa, tuyên truyền là đảng có yếu kém về trí tuệ. Tôi
nói với các anh ấy là đảng rất yếu kém trí tuệ mà câu này không phải tôi sáng
tạo ra mà chính đảng nhận như vậy. Đảng duy ý chí mà chính vì anh kém trí tuệ
nên anh duy ý chí. Anh tưởng anh có thể cầm que diêm anh có thể đun nỗi ly
nước, đó là anh duy ý chí hoặc là anh kém trí tuệ.
Đảng
nhận, và tôi nói theo, đảng nhận nhưng đảng không bao giờ làm, đấy là bi kịch
lớn nhất của đảng. Đảng nhận dân là gốc, là chủ nhưng không bao giờ coi dân là
gốc, là chủ. Đảng nói là nhìn thẳng vào sự thật và nói thẳng sự thật nhưng đảng
không bao giờ làm. Ai nói thẳng với đảng là bị đàn áp.
Tôi
tin là nếu đảng có một tí khôn ngoan thì sẽ thấy cái nguy hiểm của mình. Cứ
tiếp tục cái đà này thì không ai chịu nỗi. Anh nói một đàng, anh làm một nẻo.
Anh thử tưởng tượng một show về thời của thế giới New York, Paris mà anh đưa ra
người mẫu toàn bằng tre bằng nứa thì ai người ta chịu được. Ở cuộc đời, anh
phải luôn luôn làm cho người ta tin. Tôi nghĩ đảng phải rút cái bài học này
đấy. Nói thẳng sự thật mà ai người ta nói ra thì đàn áp luôn rồi nói rằng mày
nói láo!”
Mặc
Lâm: Xin
cám ơn ông.
No comments:
Post a Comment