(Tự
truyện của người từng viết tiểu sử Hồ Chí Minh)
Thứ Năm, ngày 07 tháng 8 năm 2014
Bích chương quảng
cáo Tác phẩm Đèn Cù.
Quý
vị phải lắng nghe bài Đèn Cù. Tự mình hát lên, hát cho thấm thía vào lòng, cho
những câu dân ca văng vẳng trong đầu trong khi đọc Đèn Cù của Trần Đĩnh. Khen
ai khéo vẽ (ối a) đèn cù. Voi giấy (ối a) ngựa giấy, tít mù nó chạy vòng
quanh… Voi giấy (ối a) ngựa giấy, vòng quanh nó chạy tít mù. Đèn Cù, cũng
gọi là đèn kéo quân, là một trong số đèn Trung Thu, đồ chơi cho trẻ em và cho
cả người lớn. Quý vị sẽ dần dần nhìn thấy hoạt cảnh xã hội Việt Nam những hình
nhân voi giấy, ngựa giấy tít mù nó chạy vòng quanh trên màn ảnh đèn cù
trong hơn nửa thế kỷ. Trong đó có tác giả. Một nhân chứng, một người tham dự
trong đám Voi giấy (ối a) ngựa giấy lần lần hồi tưởng lại những cảnh
cùng nhau chạy vòng quanh (ối a) nó tít mù. Nhiều tác giả đã viết về xã
hội miền Bắc Việt Nam dưới chế độ cộng sản, dưới dạng hồi ký, tiểu thuyết, biện
thuyết và lý luận, vân vân. Đèn Cù nổi bật lên trong tủ sách đó. Nếu chưa phải
là một kho chứng liệu quan trọng và đầy đủ nhất thì đây là cuốn sách đọc lý thú
nhất. Rất nhiều chuyện mới nghe lần đầu. Rất nhiều chuyện cũ được nhìn dưới con
mắt khác, thấy những khía cạnh chưa ai từng thấy. Quý vị sẽ cười, sẽ khóc, sẽ
thắc mắc, sẽ dằn vặt, thao thức, kinh tởm, giận dữ, sót thương, khi bị cuốn
theo những Voi giấy (ối a) ngựa giấy chạy quanh trong cái đèn cù.
Dưới
cái tựa Đèn Cù Trần Đĩnh gọi cuốn sách này là “truyện tôi.” Đọc xong thì hiểu
tại sao tác giả không gọi nó là một “hồi ký” hay “tự truyện,” những loại văn
quen thuộc khi người ta kể chuyện cuộc đời mình đã sống. Cuốn sách không viết
theo phong cách hồi ký hay tự truyện, khi người viết có sẵn một bản đồ để viết
theo, với một mục tiêu muốn đạt tới. Đây cũng không phải là tiểu thuyết, tác
giả không kể những chuyện mình tưởng tượng ra. “Truyện tôi” là một thể
loại văn suôi mới, Trần Đĩnh tạo ra. Mai mốt có thể sẽ không còn ai viết
“truyện tôi” nữa. Mà có ai viết thì chăc chắn cũng không viết giống như Trần
Đĩnh. Đèn Cù là một cuốn sách độc đáo.
Trần Ðĩnh, 1998, Trần Ðộ chụp - (hình: tác giả cung cấp)
Trần
Đĩnh vốn là một thi sĩ, loại người thích sáng tạo ngôn ngữ, bầy đặt, đùa rỡn,
vui chơi với ngôn ngữ. Đẽo gọt, mài rũa, “như thiết như tha, như trác như ma,”
rùng mình sảng khoái hay quằn quại đau khổ với ngôn ngữ. Trước khi gia nhập tòa
soạn báo Sự Thật, ở chiến khu Việt Bắc vào năm 1949, tuổi 19, ông đã
viết báo rồi. Nhưng cuốn sách này tuyệt nhiên không dùng lối văn viết báo. Nhà
báo không ai mở đầu một bài bằng mấy chữ: “Viết này vất vả,” rồi chấm câu.
“Lười là rõ,” lại chấm câu. Cái khí văn đó tràn suốt tác phẩm. Có thể gọi đó là
Khí văn Trần Đĩnh. Cũng như chúng ta có thể nhận ra Khí văn Phùng Quán, Khí văn
Thanh Tâm Tuyền, vân vân, các thi sĩ có lúc viết văn suôi. Nó riêng biệt, văn
đó đúng là người, mỗi người một vẻ.
Nhưng
Trần Đĩnh vẫn giữ nguyên cái đức của người viết báo, là nói sự thật, kể những
chuyện thật. Đọc tới đâu người ta cũng cảm thấy: Đây là những chuyện thật, sự
thật được bày ra, sự thật ròng, như thịt xương còn sống, tàu lá còn xanh, như
gỗ mộc không sơn phết. Những suy tư, thao thức của tác giả được trình bày
riêng, bên ngoài lời kể các sự kiện. Người viết không thêm thắt tình cảm, suy
tư, phê phán, như thêm mắm muối, tiêu, hành, vào cho món ăn thêm mùi vị. Như
khi ông thuật lời nhà báo Tiêu Lang đã chứng kiến cảnh mấy anh du kích đặt cái
xác bà Nguyễn Thị Năm vào áo quan, áo quan nhỏ quá không vừa. Mấy anh bèn đứng
lên trên xác bà đẩy cho lọt xuống. “Nghe xương kêu răng rắc mà tớ không dám
chạy, sợ bị quy là thương địa chủ.” Hay khi ông kể chuyện về họa sĩ Phan Kế An,
một trong bốn năm người cùng phụ trách báo Sự Thật lúc đầu. “Một dạo Phan Kế An
ngày ngày đến vẽ Cụ Hồ. Một chiều về sớm hơn, An nói: À, cái Z. tự nhiên mang
ba lô, chăn chiếu đến chỗ Ông Cụ, tớ được xua về sớm. Vài tháng sau, An lại về
muộn. Hỏi vì sao thì An nói không thấy Z. đến nữa. Chắc ‘máy’ cụ yếu, giải đáp
thuần túy sinh học. Không tính đến sở thích, ‘gu’ của cụ.” Trần Đĩnh cũng nhớ
trong lớp học “chuẩn bị cải cách ruộng đất” tháng Bảy năm 1953, “Cụ Hồ đến giảng
cách nhật, có lúc cụ đùa hô lên trong hội trường Hồ Chí Minh Muốn Nằm!” “Rồi
tay chỉ vào đầu [nói]: Từ đây thì Bác già, nhưng từ đây (tay chỉ vào bụng) thì
Bác trẻ.”
Trần
Đĩnh kể chuyện vợ nhà thơ Lê Đạt, ông bị đưa đi lao động “cải tạo” vì tham gia
nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. Người đàn bà mang tội là “vợ Nhân Văn” … bị “cơ quan,
tập thể liên tục ép bỏ chồng” nhưng bà không bỏ. “… [N]hững đêm giá
buốt Thúy diễn kịch ở Hải Phòng, Đạt từ chỗ lao động cải tạo xuống tìm vợ.
Không có giấy chứng minh nhân dân, Đạt không thuê được nhà trọ, hai đứa ngồi
ghế vườn hoa suốt đêm nghe còi tàu thủy hú thi với gió biển.” Một câu văn ngắn
cho chúng ta sống cả một đêm dài nghe tiếng tầu thủy vang vọng trong tiếng gió
hú. Tác giả đóng vai một nhân chứng, một người quan sát, chỉ thuật lại những gì
mình nghe, mình thấy. Thời sau chiến tranh, báo Nhân Dân có cuộc họp năm sáu
chục người “ôn lại thành tích tuyên truyền chiến tranh chống Mỹ. “Nguyễn Sinh,
xưa phóng viên thường trú Vĩnh Linh, Vĩnh Mốc lên nói. Lại tố cáo những chiến
công giả người ta gán cho Mẹ Suốt, Trần Thị Lý sông Lấp Quảng Bình. Sông đã lấp
thành tên [tên Sông Lấp] mà nhà báo cứ ca ngợi cô Lý oằn lưng chèo lái… Hầu hết
nghe đều cười. Tự giễu và rộng lượng. Nhưng khi Sinh nói ở Vĩnh Linh, anh đã
chứng kiến nnngngg bên kia bị ta bắt sang chôn sống kêu rất lâu dưới huyệt, tôi
lại thấy mọi người mặt lạnh tanh.” Thêm một chuyện ngôi nhà của bà Lợi Quyền,
một nhà tư sản đã nổi tiếng đóng góp nhiều vàng cùng với nhà cửa trong “Tuần Lễ
Vàng” thời trước kháng chiến. Sau chiến tranh bà Lợi Quyền vẫn còn một ngôi nhà
tại Hà Nội. Đầu thập niên 1980 “được ban Tuyên Huấn Trung ương đến hỏi. Chê đắt
[không mua]. Đùng một hôm xe tuyên huấn chở mấy bao tải tiền đến mua, đắt cũng
được. Ba ngày sau đổi tiền.” Tác giả ghi thêm: “Tố Hữu [phó thủ tướng đổi
tiền], nguyên trưởng ban tuyên huấn đã hạ thời cơ tuyệt hảo …” Và ông nhắc lại
bài Quốc Tế Ca hát rằng: “Bao nhiêu lợi quyền tất qua tay mình!” Phê:
“Quá giỏi!”
Ở văn phòng mới dọn đến của Tổng bí thư mùa thu 1949. Hàng đầu toàn ngồi
xổm, từ trái qua, vợ Hà Xuân Trường, Lê Ðạt, Hồ Chí Minh. Ngoài cùng bên phải
là Trường Chinh, áo blu dông Mỹ trắng. Hàng sau đứng đầu bên trái là Hà Xuân
Trường, thư ký tòa soạn báo - (hình do tác
giả Trần Đĩnh cung cấp)
Đèn
Cù đầy rẫy những “đoạn phim” ngắn như vậy. Rất nhiều “clip” chợt hiện trên màn
ảnh trong nửa phút, rồi chuyển ngay sang cảnh khác, liên tiếp chạy nhanh qua
não bộ. Đoạn phim lưu đọng trong óc mình mãi mãi, trộn lẫn cùng những đoạn phim
ngắn khác, không theo thứ tự thời gian, cũng không theo một dòng lý luận nào.
Tất cả cho người đọc một toàn cảnh sống động về xã hội nước Việt Nam trong hơn
nửa thế kỷ, trước và sau khi tác giả đặt bút viết cuốn sách để đời này. Tất cả
là “truyện tôi.” Nếu không có cái tôi sống, tôi quan sát, tôi rung động, tôi
ghi nhớ, tôi suy nghĩ, thì không có “truyện tôi.” Trong trí não con người đời
sống vốn không có trật tự, nó chợt hiện, chợt tắt, ngổn ngang, chắp nối, không
xếp đặt theo không gian cũng không theo dòng thời gian đơn tuyến và trực tuyến.
Đời sống thật vẫn như vậy. Đó là cảnh Voi giấy (ối a) ngựa giấy, tít mù nó
chạy vòng quanh. Cho nên phải đoc Đèn Cù như một tác phẩm nghệ thuật. Đây
là một sáng tác văn nghệ. Thử tưởng tượng có một người trước khi đọc không hề
biết gì về bối cảnh lịch sử ở nước Việt Nam, chưa bao giờ nghe tên những nhân
vật như Nguyễn Tư Nghiêm, Văn Cao, Lê Đức Thọ, Hồng Linh, Thép Mới, Lê Trọng
Nghĩa, Hồ Chí Minh, LêĐạt, Tô Hoài, Hồng Hà, vân vân; khi đọc Đèn Cù người đó
cứ nghĩ đây là những nhân vật hoàn toàn do tác giả bịa ra. Giả thiết Trần
Đĩnh sáng tác một cuốn truyện, sẽ thấy Đèn Cù là một thể loại tiểu thuyết mới,
rất mới.
Tại tòa soạn báo Sự Thật: (từ trái) Diên Hồng, Nguyễn Địch Dũng, Kỳ Vân,
Lê Quang Đạo, Trần Đĩnh, Trường Chinh, Lê Xuân Kỳ, Thép Mới, Hồng Vũ (sau này
tự tử ở bệnh viện Nam Ninh, Trung Quốc)- (hình
do tác giả Trần Đĩnh cung cấp)
Suốt
cuộc đời cầm bút (ông mới tập dùng máy vi tính khi đã về già), Trần Đĩnh nói,
“Tôi vẫn mong rồi có một quyển sách thật sự của tôi, của chính tôi.” Bởi vì,
gần suốt cuộc đời viết, lách “tôi đã tự nguyện làm thủ phạm tàn phá trước hết
vào chính ngay mình. Tôi vốn yêu viết. Nhưng đã không viết nổi. Đứa thủ phạm là
tôi bắt tôi viết dưới bóng tối của Thù Hằn và Dối Trá …”
Trần
Đĩnh biết rất nhiều chuyện. Anh coi Trường Chinh là thầy trong nghề báo, được
ông tổng biên tập báo Sự Thật dậy từng chữ khi anh nhà văn 19 tuổi mới
vào trong A Tê Ka (An Toàn Khu). Anh ngủ chung lều với Lê Quang Đạo, nhiều lần
phải hất tay Lê Quang Đạo ra, và nghe lời xin lỗi, “Chúng tớ ở tù lâu ngày sinh
hư.” Anh ngồi sau lưng Hồ Chí Minh trong buổi lễ truy điệu Stalin chết; nhìn
cảnh Tố Hữu diễn vai đau khổ ôm bức hình Stalin đặt lên ban thờ, sau nay nghĩ
có lẽ ông ta khóc Stalin là khóc thật. Rồi nhìn thấy hộp thuốc lá Trung Hoa Bài
Hồ Chí Minh bỏ quên trên ghế bên cạnh, anh cầm lấy mang đến tận phòng, “Dạ,
thưa bác, Bác để quên ạ!” Và nhìn thấy “Mặt cụ xưng lên, đầm đìa nước mắt, hai
mắt húp lại … Cụ ngơ ngẩn nhìn tôi, nhìn hộp thuốc lá như không hiểu tôi vào
làm gì …” Trong lớp chỉnh huấn chuẩn bị cải cách ruộng đất năm 1953, một hôm
“Cụ Hồ nói: Các chú các cô không sợ người ta kêu mình kém trí thức, ít lý luận.
Họ kêu thì bảo họ rằng tôi lú nhưng chú tôi khôn. Chú tôi là Stalin, Mao Trạch
Đông…”
Trần
Đĩnh chắc là người thứ nhất tiết lộ Hồ Chí Minh đã tới quan sát cuộc đấu tố đầu
tiên ở Đồng Bẩm, hóa trang che bộ râu để không ai nhận ra. Và Trường Chinh thì
đeo kính đen tới dự, để rút kinh nghiệm mà rèn luyện các đội cải cách đấu cho
đúng tiêu chuẩn thù ghét. Xưa nay nhiều người vẫn kể rằng Hồ Chí Minh không
muốn giết bà Nguyễn Thị Năm, nhưng bị cố vấn Trung Cộng ép buộc nên phải giết.
Trần Đĩnh đưa ra một bài báo ngắn do Hồ Chí Minh viết kết tội đích danh bà đồng
thời đả kích cả giai cấp địa chủ. Bài báo này, được dẫn chứng đầy đủ, dùng một
bút hiệu, ký tắt, cho nên chỉ người bên trong tòa báo mới biết người viết là Hồ
Chí Minh. Trần Đĩnh cũng là tác giả đầu tiên đã gặp cô Xuân (nhân vật đã được
Vũ Thư Hiên kể trong Đêm Giữa Ban Ngày) ở trên chiến khu từ năm 1953, cô
là “Con nuôi Bác.” Có lúc Trần Đĩnh đã nắm tay cô Xuân, khoe đã lấy tên cô ghép
làm bút hiệu trên báo của mình, khiến cô cảm động. Ông cũng kể chuyện năm 1960
theo Hồ Chí Minh đi Móng Cái, dự mít tinh rồi “đi lượn phố, thăm trường học”. Hồ
viết lên bảng một chữ Hán “nhân,” rồi hỏi: “Trây sấn mà chề” nghĩa là
“Đây là chữ gì?” Ông nói bằng tiếng Khách Gia, Hakka, miền Nam gọi là tiếng Hẹ;
là thổ ngữ của người gốc Hoa ở địa phương này. Tác giả thắc mắc, “tại sao đến
đây Cụ đi chơi phố nhiều như thế? Khéo [cụ] đã ở đây thật?” Và có lúc đi trong
phố “Cụ chỉ vào một ngôi nhà phía bên kia đường nói với tôi, đi bên cạnh: Ở nhà
này ngày xưa có một chị bí thư chi bộ. Tôi ngợ ngay. Có quan hệ tình cảm gì
[giữa cô đó] với Bác?”
Trần
Đĩnh là nhân chứng đầu tiên cho biết đã nghe Hồ Chí Minh nói thông thạo tiếng
Hẹ, và đoán rằng ông đã hoạt động cùng các đảng viên cộng sản ở Móng Cái
từ thời trước. Chưa có một tác giả hay một người nghiên cứu lịch sử nào biết
đến chi tiết này. Độc giả sẽ không ngạc nhiên khi đọc những tình cảm thân mến
của tác giả với nhân vật Hồ Chí Minh; vì đã sống rất gần gũi trong nhiều năm.
Trong lần đi thăm khu gang thép Thái Nguyên, “Sau bữa cơm trưa, thấy Cụ quần áo
cánh nâu đi vòng ra sau dẫy nhà tranh đến rặng chuối thay hàng rào, tôi đi
theo. … Thấy tôi gần như ở ngay bên, cụ quay ngoắt lại hỏi, điếu thuốc khẽ lật
bật ở môi: ‘Người ta đái cũng theo à?’ ‘Không ạ, cháu …!’ ‘Thế đứng sát vào
người ta nhòm gì?’” Rồi Trần Đĩnh kể tiếp, “Chiều ấy, khoảng bốn giờ về tới chủ
tịch phủ, tha thẩn ở sân chờ lấy xe đạp … bất thần chợt nhớ đến Xuân, cô con
gái nuôi của Bác. Hỏi mấy người đứng tuổi nom có vẻ quen từ trên rừng. A, cô
Xuân ấy hả? Lấy chồng rồi. Chồng lái xe. Nhưng chết rồi. … bị ô tô đè …”
Trong
chương chót, Trần Đĩnh nêu một nhận định chung về Hồ Chí Minh: Lòng trung của
Hồ Chí Minh đối với Lê Nin, Stalin, Mao Trạch Đông là vô bờ. Cho nên lòng trung
với nước Việt, dân Việt vơi đi.
Người
thứ hai mà Trần Đĩnh có lòng cảm mến là Trường Chinh. Năm 1962 Trường Chinh đã
nhờ Trần Đĩnh viết hồi ký, nhắc lại từ những ngày đi họp ở Pắc Bó năm 1941, với
ý định dùng quá khứ vinh quang “phất một ngọn cờ tập hợp” phe mình. Nhưng sau
tập hồi ký không dùng đến vì Trường Chinh biết mình đã thua phe cánh Lê Duẩn,
Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh rồi. Nhiều người cũng muốn nhờ viết, vì Trần Đĩnh
nổi tiếng khi viết hồi ký cho nhiều người khác. Anh kể chuyện những người tù
Côn Đảo, văn sống và khích động, như chính anh đã trải qua các gian khổ đó.
Cuốn Bất Khuất (viết năm 1965) kể chuyện Nguyễn Đức Thuận, một người tù
Côn Đảo tranh đấu trong tù, được đưa từ Nam ra ngoài Bắc. Lê Đức Thọ, Tố Hữu,
Hoàng Tùng chủ trương dùng câu chuyện Nguyễn Đức Thuận để tuyên truyền khích
động cho người dân miền Bắc ủng hộ cuộc tấn công vào miền Nam. Viết Bất
Khuất, cái tên do Tố Hữu đặt, Trần Đĩnh không ký tên, tiền nhuận bút cũng
nhường cho Thuận. “Vì không thích nói dối.” Nhưng khi được nghe một độc giả như
Trần Dần khen thì vẫn thích: “Mày viết cái Bất Khuất ấy, tao thích cái grammaire.”
Nguyên Hồng thì bậm môi, vuốt râu nói: “Mày, Trần Đĩnh à, mày có tâm hồn, mày
có nghệ thuật nên mày viết cái ấy cho Thuận hay.”
Một
lần năm 1960 Trần Đĩnh gặp Vũ Kỳ (thư ký riêng của Hồ Chí Minh): “Vũ Kỳ bảo tôi
sẽ cộng tác với anh viết hồi ký về Bác ‘khi Bác hai năm mươi.’ Viết xong bản
tiểu sử chính thức, tôi (Trần Đĩnh) gửi lên cho Cụ một bản để duyệt. Cụ chữa
từng trang. Có những đoạn viết ra ngoài lề: Xem lại? Hỏi lại? Bản thảo này tôi
giữ.” Sau đó sách in ra, “Mừng tiểu sử chính thức đầu tiên của Hồ chủ tịch ra
đời, Tố Hữu khao một bữa thịt chó thịnh soạn tại nhà” (Tố Hữu được lãnh nhuận
bút 200 đồng vì có công đọc và kiểm duyệt, người viết chỉ được 400 đồng; còn
“Huy Tưởng, Hoài Thanh chả [được] tẹo nào).
Trần
Đĩnh cũng viết hồi ký cho Phạm Hùng, Lê Văn Lương, Bùi Lâm (một trong vài ba
đảng viên cộng sản Việt Nam đầu tiên). Lê Đức Thọ cũng có lúc muốn nhờ. “Cậu
viết giỏi lắm, tớ rất thích. Không ở tù mà viết ý như thằng đã ở tù… Tớ sẽ nhờ
cậu viết hồi ký cái đoạn tớ chuẩn bị tổng khởi nghĩa rất hay.” Và Thọ hứa hẹn
sẽ đem Trần Đĩnh theo phái đoàn sang Paris đàm phán. Sau Trần Đĩnh không phải
viết, “Hú vía!” Lê Thanh Nghị, Nguyễn Duy Trinh cũng nhờ viết hồi ký, đều từ
chối. Trần Đĩnh làm việc gần với các lãnh tụ cộng sản Việt Nam từ năm 19 tuổi,
cho nên biết nhiều chuyện. Như khi đến nhà Sáu Thọ, ngồi ngoài sân bên cạnh cái
hầm tránh bom, thì nhận ra cái hầm này sâu 10 mét, trong khi cái hầm nhà Lê
Thanh Nghị (anh đã nhiều lần xuống ẩn trong hầm này), chỉ sâu có tám mét, dù cả
hai đều trong Bộ Chính Trị (vai vế mang ngau). Gần gũi họ, cho nên mới biết một
cảnh trong nhà Lê Đức Thọ: Một ông tướng chào Sáu Thọ xong, bước ra về mà cứ
thế đi giật lùi, đến nửa cái sân mới dám quay lưng rồi ra cổng. Nhìn mặt, thì
ra Lê Đức Anh.
Tô Hoài (trái) và Trần Ðĩnh (hình do tác giả Trần Đĩnh cung cấp)
Trần
Đĩnh sống trong cái đèn cù đó, trong lòng không yên. Anh bắt đầu nẩy mối bất
nhẫn trong lòng khi chứng kiến những tội ác trong cuộc cải cách ruộng đất.
Nhưng anh vẫn tin tưởng vào đảng, tin vào những động cơ tốt của các lãnh tụ.
Chuyển biến tâm lý mạnh nhất phát sinh trong năm năm du học ở Bắc Kinh, sống
qua thời kỳ các phong trào bước nhảy vọt, đánh hữu phái, công xã nhân dân, vân
vân, từ 1955 đến 1959. Trong thư viện Đại học Bắc Kinh, một góc bày các sách cũ
tiếng ngoại quốc, anh được đọc cuốn “Từ số không đến vô định” của Arthur
Koestler; câu chuyện một người bị Stalin bỏ tù. Anh cũng được đọc báo Le
Monde trong thư viện đại học, và biết chuyện tố cáo tội ác của Stalin trong
đại hội thứ 20 đảng Cộng sản Liên xô. Nhưng ảnh hưởng quan trọng nhất là do anh
sống bên người Trung Hoa, anh trực tiếp gặp nhiều sinh viên cùng tuổi, được
nghe, được thấy, để biết chế độ Mao Trạch Đông giả dối, tàn bạo và coi khinh
mạng sống dân chúng như thế nào. Khi Mao Trạch Đông cho phép “trăm hoa đua nở”
báo Nhân Dân (Bắc Kinh) cũng đăng những bài phê phán đích đáng. Những trang bào
này mở mắt anh du học sinh người Việt “được thấy trí thức Trung Quốc sôi sục
chống đảng.” Quan sát thực tế, lại thấy “dân Trung Quốc khốn khổ vì đảng.” Cho
nên, “Tôi bắt đầu ‘hư hỏng’ (nghi ngờ đảng) vì đã nhận ra chân tướng đại bịp.
Người ta lừa bịp đại trà được là nhờ khai thác những bản năng thấp kém của con
người: Sợ và tham.” Từ đó, Trần Đĩnh chống Mao, kinh tởm Mao, sau khi học xong
về nước vẫn tiếp tục. Vì thế anh là đối tượng đấu tranh, của đám các đồng
nghiệp thần phục Mao trong báo Nhân Dân, mà anh gọi là bọn “Mao nhều.”
Kiểu như Hồng Hà, người từng nghẹn ngào nói như mếu: “Tôi xin cảm ơn Mao Chủ
tịch vĩ đại đã mở mắt ra cho tôi thấy Liên xô, Kroutchev là phản bội, đầu hàng,
xét lại…”
Trần
Đĩnh ghê sợ âm mưu lợi dụng của Mao Trạch Đông, nhắc lại nhiều lần câu ông ta
nói: “Thiên hạ đại loạn, Trung Quốc được nhờ.” Chủ trương này dẫn đến cuộc
chiến tranh Việt Nam. Mao chấp nhận chiến tranh nguyên tử. Tại Bắc Kinh, Trần
Đĩnh được hai người bạn Trung Hoa làm cho Văn Nghệ Báo tiết lộ về cuộc
họp chi bộ để nghe một chỉ thị tối quan trọng. Hai anh kể, chỉ thị được ban
xuống cho dân Trung Quốc thấu triệt là họ không cần phải sợ bom nguyên tử. “Vì
dù Mỹ có ném xuống một nghìn quả bom nguyên tử, dẫu trái đất có bị tàn hoang đi
nữa thì ít nhất cũng còn sót lại một huyện dân Trung Quốc, huyện ấy sẽ ương lại
giống người trên trái đất này.” Thiên hạ đại loạn, Trung Quốc được nhờ. Cho nên
Mao muốn phát động chiến tranh, “đánh Mỹ tới người Việt cuối cùng.” Mao cũng
muốn đứng đầu phong trào cộng sản thế giới, sau khi thần tượng Stalin bị đàn em
lật đổ. Lê Duẩn ngả theo chủ trương Mao; từng ca ngợi Mao Trạch Đông là “Lê Nin
của thời đại ba dòng thác cách mạng châu Á, châu Phi và châu Mỹ La Tinh.”
Bên
trong, Lê Duẩn tạo ra vụ án “xét lại, chống đảng;” đánh vào những người bị coi
là thân Liên Xô. Lần đầu chỉ đánh giằn mặt bằng phê bình, kiểm thảo. Năm sau
Chu Ân Lai sang Hà Nội phổ biến tin tức Mao đánh các đồng chí lãnh tụ trong
đảng của ông ta rồi, Duẩn mở chiến dịch thứ hai, tống giam hết cả đám. Giống
như đem họ ra làm vật “thế chấp” để đi vay súng đạn, gạo, vải, quân trang của
Mao Trạch Đông. Trần Đĩnh bị nghi ngờ, hạ tầng công tác, bị bắt giam và hỏi
cung. Có lúc anh hãnh diện kéo chiếc xe hai bánh “diễu hành giữa thanh thiên
bạch nhật, ở trung tâm Hà Nội, tươi tỉnh đi trình đường phố, nhận minh bạch
đường hoàng mình chống đảng.” Lê Đức Thọ gọi Trần Dĩnh tới, ngồi kể tội đám xét
lại cho nghe: “Vừa ở Paris về nghe an ninh nó nói cậu dính vào vụ chúng nó tớ …
tiếc lắm. … Tớ đã nói là tớ mến cậu vì cậu trẻ, cậu có tài …”
Đối
với bên ngoài, lúc đó Nga chủ trương chung sống hòa bình với Mỹ. Lê Duẩn bám
sát chủ trương của Mao, gây chiến tranh chiếm miền Nam. Theo Trần Đỉnh thì Hồ
Chí Minh và Võ Nguyên Giáp không đồng ý, nhưng không chiếm được đa số nên chịu
phục tùng. Cuộc Cách mạng Văn hóa điên đảo khiến cho Lê Duẩn lo Trung Quốc sẽ
loạn lớn, sẽ tan vỡ. Duẩn quyết định phải đánh ngay, lo không còn chỗ dựa khi
Mao đổ. Cho nên chuẩn bị cuộc tấn công Tết Mậu Thân. Sau năm 1975, Lê Duẩn theo
Nga, chống Trung Cộng, thì lại hết lời mạt sát từ Mao Trạch Đông tới Đặng Tiểu Bình.
Đèn
Cù đưa chúng ta vào một xã hội điên đảo, “sáng đúng, chiều sai, mai lại đúng.”
Voi giấy (ối a) ngựa giấy, tít mù nó chạy vòng quanh…. Nhưng tác giả sống
với người dân ngoài phố, với giới văn nghệ, báo chí nhiều hơn là với các lãnh
tụ đảng. Những đoạn phim thú vị nhất chụp cuộc sống hàng ngày; của những con
người bình thường, các nhà văn, nhà báo, các cán bộ thấp, những người qua
đường.
Ở nhà Trần Đĩnh, trong khu văn công Cầu Giấy.
Từ trái sang: vợ chồng Đoàn Viết Hoạt, Trần Đĩnh, Mây, con gái TĐ và Thiếu Khanh,
con út vợ chồng Hoạt. (hình do tác giả Trần Đĩnh cung cấp)
Từ trái sang: vợ chồng Đoàn Viết Hoạt, Trần Đĩnh, Mây, con gái TĐ và Thiếu Khanh,
con út vợ chồng Hoạt. (hình do tác giả Trần Đĩnh cung cấp)
Nhà
báo Minh Tường từ Hà Nội, theo đoàn quân chiến thắng vào Sài Gòn. Anh tìm được
đến nhà mẹ mình, bấm chuông. Bà mẹ mở cửa ra, chấp hai tay vái lạy: “Thôi, tôi
xin anh, anh đi với các đồng chí của anh đi cho mẹ con tôi yên.” Có cảnh Trần
Đĩnh đứng với Tô Hoài trên lề đường nhìn toán tù binh Mỹ bị đưa diễn trên đường
phố Hà Nội cho dân chửi rủa, ném đá. Khi người phi công cuối cùng qua trước
mặt, bỗng Tô Hoài chạy ra với tay đấm vào mặt (đấm hụt). Tô Hoài giải thích
rằng mình phải bày tỏ lập trường; nếu không có đứa nào nó báo cáo mình đứng
ngoài coi trong lúc “nhân dân căm thù” thì nguy.
Chúng
ta thấm thía nỗi thèm khát được sống với sự thật, khi nghe lời Trần Độ tâm sự,
sau cuốn Nhật Ký Rồng Rắn: “Này, nói thật chứ bây giờ … hễ nghe thấy cái
gì là sự thật thì trong người sướng ghê lắm ấy!” Có ai được nghe một nữ nhân
viên báo Nhân Dân đã về hưu bày tỏ nỗi oán hận: “Ông cha đổ bao xương máu giành
được độc lập nhưng nô lệ vẫn hoàn nô lệ!” Trần Đĩnh rất gần Lê Đạt. “Một hôm Lê
Đạt bảo tôi: Nhà thơ có lẽ là người yêu nước nhất. Họ chăm lo nhất đến tiếng mẹ
đẻ…. Đạt nhiều lần giục tôi viết: Tiểu thuyết về mày, gia đình mày – Tôi im
lặng. Biết viết là cực kỳ cô đơn. Và quả tình tôi đã thật sự cô đơn – đúng ta
là bí mật – trong bao nhiêu năm với cuốn sách này.”
Sống
hầu hết cuộc đời trong một xã hội mà Đảng và lãnh tụ chiếm “đặc quyền viết, đặc
quyền nói;” chỉ dùng các nhà văn làm đầy tớ, “Ôi đã làm đầy tớ thì có đời thuở
nào còn dám sáng tạo?” Bây giờ Trần Đĩnh đã viết. Lúc đầu, ông chỉ định viết để
“tố cáo tội gây nội chiến Nam Bắc là sai lầm;” trong khi đang viết thì đổi ra
“phê phán toàn diện.”
“Vâng,
tôi xin đối mặt với công luận đây. Tôi ăn gian nói dối thì các ông cứ việc vạch
ra.” Đó là lời Trần Đĩnh, tác giả Đèn Cù. Xin mời quý vị bước vào, cùng
sống với những Voi giấy (ối a) ngựa giấy, vòng quanh (ối a) nó tít mù. Đèn
Cù là Đèn Cù hỡi! Ới ơi ơi ời, Đèn Ơi!
Ngô
Nhân Dụng
-----------------------------
Đinh
Quang Anh Thái
Thứ Năm, ngày 07 tháng 8 năm 2014
Ông Trần
Đĩnh năm 15 tuổi đã tham gia cuộc tổng khởi nghĩa do cộng sản lãnh đạo ngày 19
tháng 8 năm 1945. Ông trở thành đảng viên năm 19 tuổi, lúc đó, đảng cộng sản
Đông Dưong rút vào bóng tối, đổi tên thành Hội Nghiên Cưú Chủ Nghĩa Mác và xuất
bản tờ báo Sự Thật, ông đựơc điều về viết cho báo này. Sau đó, ông đưọc đưa qua
học tại đại học Bắc Kinh. Trong thời gian học, ông tham gia một cuộc họp chống
phái hữu, và chính nhờ vậy, ông rút tiả đựơc nhiều bài học quí báu. Bài học đó
là, các đảng viên chân chính, tích cực đã nghe lời đảng khuyến khích họ phê
bình đảng. Nhưng khi họ phê bình thì bị đảng quay lại đánh. Theo lời ông Đĩnh
thì đó là âm mưu của Mao Trạch Đông. Học xong, ông về Hà Nội làm việc một thời
gian, thì xẩy ra việc đảng cộng sản Việt Nam đưa vấn đề chọn lựa tư tưởng Mao
để chống xét lại, tức là chống lại chủ trương sống chung hoà do Tổng bí thư
đảng cộng sản Liên Xô lúc bấy giờ là Nikita Khrushchev đưa ra. Ông Trần
Đĩnh ủng hộ lập trường của Khrushov và chống tư tưởng Mao, nên bị khép vào tội
chống đảng. Mặc dù không bị bắt như anh ruột ông là nhà báo Trần Châu, hay như
những người khác như ông Hoàng Minh Chính, Vũ Thư Hiên, hoặc phải sống lưu đầy
như Nguyễn Minh Cần.v.v..., ông Trần Đĩnh cũng bị khai trừ khỏi đảng và chịu
nhiều trù dập về mặt tinh thần cho mãi tới ngày nay. Hiện nay, ông Trần Đĩnh
đang sống tại Hà Nội.
ĐQAT: Tâm trạng của ông
ra sao, khi nghe thông báo quyết định bị khai trừ khỏi đảng?
Trần
Đĩnh:
Tôi vào đảng cộng sản lúc tôi chưa 18 tuổi. Khi tôi ra đảng năm 1976, tâm trạng
của tôi lúc bấy giờ rất nhẹ nhàng. Bố tôi lúc ấy ở trong Nam đã viết thư ra nói
bằng tiếng Pháp (bố tôi có thói quen viết thư bằng tiếng Pháp) nguyên văn rằng
“phải làm lễ mừng cái việc ra khỏi đảng của Đĩnh”. Bố tôi gọi đây là quyết định
vĩ đại của tôi. Sau chiến thắng năm 1975, họ thanh toán tất cả những người nào
còn sót lại mà chưa bị thanh toán. Thì lúc bấy giờ họ khai trừ tôi ra khỏi
đảng. Năm 75 là chiến thắng mà.
Từ Thuận Elston, nữ
phóng viên US Today chụp Dương Thu Hương và Trần Đĩnh.
(hình do tác giả Trần Đĩnh cung cấp)
(hình do tác giả Trần Đĩnh cung cấp)
ĐQAT: Vụ án mà giới lãnh
đạo đảng quy chụp là “Xét lại Chống đảng” xẩy ra khoảng năm 1967, giai đoạn đó
đúng cao điểm Hà Nội ào ạt đem quân vào miến Nam, lúc đó, lập trường của ông ra
sao đối với cuộc chiến?
Trần
Đĩnh:
Chúng tôi không tán thành, vì xuất phát từ suy nghĩ là thấy dân mình khổ quá.
Đánh nhau mãi rồi, đánh nhau thì chỉ có dân chúng bị khổ. Nhất là chúng tôi ảnh
hưởng lập trường của Khrushchev là hoà bình là con đường tốt nhất và
muốn xây dựng kinh tế thì phải chung sống hoà bình. Chúng tôi không thích chiến
tranh, nhưng chúng tôi không cưõng lại được. Chúng tôi bị phê phán, bị đánh
ngay từ đầu. Do đó, chúng tôi không đựoc giao việc gì quan trọng trong thời kỳ
đánh nhau. Bản thân tôi không đựơc giao làm nhiệm vụ gì cả, không đựơc viết
lách gì nữa cả. Rồi chỉ vài năm sau, xẩy ra những vụ bắt bớ nên anh em chúng
tôi tan hết.
ĐQAT: Khi nghe tin đất
nước thống nhất ngày 30 tháng Tư năm 1975, tâm tư của ông lúc đó ra sao?
Trần
Đĩnh:
Tôi vui vì đất nước hòa bình, không chém giết, không đổ máu nữa, nhưng đồng
thời cũng lo, không hiểu rằng rồi đây bà con mình, đồng bào mình trong đó sống
thế nào.
ĐQAT: Khi vào Sài Gòn, xã
hội Miền Nam, trong mắt ông ra sao ạ?
Trần
Đĩnh: Tôi
bị quy chụp là phần tử xấu nên mãi hai năm sau ngày 30 tháng Tư 1975 tôi mới
đựơc vào thăm miền Nam. Tôi chủ trương rằng đất nước mình phải thống nhất thôi;
nhân dân, đồng bào phải tìm nhau như con cùng bố mẹ, trước sau cũng phải tìm
nhau thôi, hà tất phải dùng vũ trang. Cái mà người ta (đảng cộng sản) đánh tôi
nhiều nhất là vì tôi chủ trương không dùng vũ trang, không dùng chiến tranh.
Tóm lại, dân tộc mình hai miền đều cùng khổ cả như nhau. Tôi không phân biệt
hai miền. Tôi cho rằng nhân dân mình bị gánh nặng nhiều quá. Dân trí thì kém,
dân tình thì khổ cực. Rốt cục thì cũng phải tìm nhau thôi, như Nam Bắc Triều
Tiên, như Đông Đức, Tây Đức, thực ra chẳng ai có thể chia cắt đựơc.
ĐQAT: Ông nhận định như
thế nào về bản hiệp định thương mại Mỹ-Việt được Washington và Hà Nội ký kết
hôm 13 tháng 7 vừa qua?
Trần
Đĩnh:
Có lợi quá chứ. Tôi rất tán thành Mỹ. Đôi bên đều có lợi. Tất nhiên, trong ấy
có nhiều người được hưởng lợi hơn, thì phiá Việt Nam có lợi hơn cả. Vì sao? Vì
Việt Nam chúng ta là những người đang đi đất, đang đi xe đạp, đang không có
tiền, thì nếu được làm ăn, hợp tác với người ta thì theo tôi, nó sẽ tốt, sẽ
lợi, làm cho chúng ta trở thành người đi auto, cả nước đi auto, cả nước sẽ có
công ăn việc làm, sẽ giàu có, có kiến thức mới, có công nghệ mới, và do đó, vì
cấu trúc kinh tế tự do như vậy, sẽ khiến sinh hoạt của xã hội đựơc tự do. Vì
kiến thức nó vào thì xã hội phải khác đi. Chứ còn bây giờ cứ nói rằng dân chủ
mà người dân thì khổ sở, người ta ra đường cứ phải kiếm ăn từng tý một thì
người ta sẽ không thể nghĩ gì tới sinh hoạt dân chủ chân chính.
ĐQAT: Theo ông nhận định,
tình hình Việt Nam hiện nay đang diễn biến theo chiều hướng nào?
Trần
Đĩnh:
Việt Nam hiện đang có đổi mới, tình hình đang có chiều hướng đi lên. Trước kia,
giới lãnh đạo đảng đóng cửa đất nước, bây giờ thì họ phải mở cửa làm bạn với
thế giới. Thế là bắt đầu thoáng rồi đấy. Trước kia, không ai biết tình trạng
đất nước như thế nào, bây giờ thì mọi người biết trẻ em suy dinh dưỡng ra làm
sao, bệnh viêm gan như thế nào, đói thế nào. Đó là bước đầu của tiến trình minh
bạch hoá mọi việc. Những sự kiện đó cho thấy có tiến lên, tất nhiên theo kiểu
của Việt Nam.
ĐQAT: Xin ngắt lời ông, hướng
thay đổi đó có tốt đẹp không?
Trần
Đĩnh:
Tốt đẹp chứ. Thế giới ngày nay đang toàn cầu hoá. Mà khi đã toàn cầu hoá thì
dân chủ phải toàn thế giới. Thế giới mới sẽ có một nền dân chủ cho cả thế giới.
Tức là cái tiêu chuẩn chung sẽ thành là của chung. Như tại Việt Nam, tự do kinh
tế sẽ khiến dân chúng khá hơn, và tự do kinh tế sẽ dẫn tới những tự do khác.
Tất nhiên đảng cộng sản vẫn còn những điều mà dân người ta không bằng lòng thì
dân người ta sẽ có ý kiến. Mà tôi cho rằng từ nay trở đi, dân chúng bắt đầu có
ý kiến đựơc rồi đấy, mà tôi thấy giới lãnh đạo đảng cũng bắt đầu phải nghe dân
rồi đấy. Còn tất nhiên, nghe đến mức nào thì còn cần phải có thời gian. Còn nếu
mình quan niệm phải có cái gì long trời lở đất xẩy ra thì suy nghĩ đó cũng
không phải. Vì đất nước mình khổ quá rồi, lầm than quá rồi, dân mình chém giết
nhau nhiều rồi, thành ra làm thế nào mình phải đưa đất nước lên tốt đẹp.
ĐQAT: Ông nhận định như
thế nào về những người đang tranh đấu cho dân chủ tại Việt Nam như Hòa thượng
Quảng Độ, Linh mục Nguyễn Văn Lý, bác sĩ Nguyễn Đan Quế, cựu Trung tướng Trần
Độ, nhà văn Dương Thu Hương, nhà trí thức Hà Sĩ Phu .v.v...
Trần
Đĩnh:
Là một người đòi dân chủ, tôi thấy đấy là những người tôi rất ủng hộ. Họ là
những người đã từng đau khổ, đã từng có ý kiến như nhau về dân chủ.
ĐQAT: Cám ơn ông đã trả
lời phỏng vấn của chúng tôi.
No comments:
Post a Comment