Tuesday, January 3, 2012

LÝ DO VIỆT NAM CÓ MẶT TRONG ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG - TPP (Phong Uyên)



Phong Uyên
Thứ Ba, 03/01/2012

Trước ngày bế mạc Hội nghị APEC 2010 họp ở Nhật Bản cách đây một năm, tổng thống Mỹ Obama đề nghị với lãnh đạo 4 nước : Brunei, Singapore, Chili, New-Zealand đã ký năm 2005 Hiệp ước Pacific four closer Economic Parneship (P4) là sau Hội nghị APEC năm 2011 họp ở Honolulu (Hawaii), Mỹ sẽ mời thêm 5 nước nữa là Malaysia,Việt Nam, Úc, Peru, Nhật Bản cùng Mỹ mở các cuộc đàm phán để thay thế P4 bằng một hiệp định thương mại tự do đa phương toàn diện gọi là Thỏa ước Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Strategic Economic Parnership Agrement), viết tắt là TPP. Đề nghị của Obama được lãnh đạo 9 nước tán thành.

Như ước định, Thỏa ước Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) được Mỹ và 9 nước kể trên ký ngày 12-11-2011. Trong tương lai sẽ có thêm chữ ký của Canada và Mexique. Đại Hàn, Đài Loan, Philippin cũng ngỏ ý muốn tham gia. Hiện tại 9 nước thành viên và Mỹ vẫn tiếp tục những cuộc đàm phán để hoàn tất TPP trong một thời gian càng sớm càng hay.

Trong những cuộc đàm phán trước khi ký TPP, các đối tác đều thỏa thuận mục tiêu của TPP là tập hợp các nền kinh tế các quốc gia thành viên - phát triển cũng như đang phát triển - thành một cộng đồng thương mại tự do duy nhất không còn hàng rào quan thuế.

Nhưng Mỹ cũng đặt điều kiện là các đối tác trong TPP phải tuân theo những quy định về mậu dịch, về xuất xứ hàng hóa, về rào cản kỹ thuật và về trao đổi dịch vụ. Những đối tác nằm trong TPP phải tôn trọng những luật lệ bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và bảo vệ các sáng kiến và phải minh bạch trong chính sách cạnh tranh.

Cũng trong khuôn khổ TPP, những khế ước ký với các chính phủ phải có những điều khoản bảo vệ công nhân, bảo vệ môi trường và công việc làm phải phù hợp với nhân phẩm. Dòng giao lưu tự do của công nghệ thông tin cũng phải được khuyến khích.

Bình luận về Thỏa ước Đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương, đa số các báo chí Tây phương đều cho rằng Mỹ muốn qua thỏa ước này kết hợp những nước quanh Thái Bình Dương thành một khối nhằm 3 mục đích: Tạo cho nền kinh tế Mỹ một thị trường rộng lớn Thách đố và bao vây kinh tế Trung Quốc. Ngăn chặn bành trướng quân sự Trung Quốc tiến xuống Nam Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.

Đối với người Việt Nam, điều cần tìm hiểu là lí do nào khiến Mỹ cần Việt Nam cùng nằm trong khối Đối tác Chiến lược xuyên Thái Bình Dương.

TPP tạo cho nền kinh tế Mỹ một thị trường đa dạng rộng lớn

Cho tới nay ngoại trừ bán lục địa Trung Hoa, đa số những nước Đông Á ven biển hay những đảo quốc Tây Thái Bình Dương đều là thân hữu của Mỹ hay dưới sự bảo trợ của Mỹ như Đại Hàn, Nhật Bản, Đài Loan, Phi luật Tân... Với Thỏa ước TPP, gần như toàn thể khu vực châu Á - Thái Bình Dương sẽ trở thành một thị trường vô cùng rộng lớn gồm 800 triệu người, nắm 40% kinh tế thế giới mà trụ cột là Mỹ và Nhật, siêu cường kinh tế thứ nhất và thứ ba trên thế giới. Mỹ sẽ đóng vai trò điều hòa và giám sát sự vận hành của những nền kinh tế khác nhau trong khối TPP theo những qui định được Mỹ đề ra. Thị trường TPP sẽ góp phần thực thi dự kiến của Obama là trong vòng 5 năm xuất khẩu Mỹ sẽ được nhân gấp đôi. Được bảo vệ bởi Hạm đội 7 và các căn cứ quân sự Mỹ ở đảo Guam, ở Alaska, Thái Bình Dương sẽ là trung tâm của những tuyến đường giao thông vững chãi nhất nối liền 12 nước trong TPP với nhau. Thái Bình Dương sẽ trở thành "đại dương nhà" của Mỹ như Địa Trung Hải dưới thời đế quốc La Mã.

Thách đố, bao vây kinh tế Trung Quốc

Cần nhắc lại là cho tới khi xẩy ra khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008, giới tư bản tài phiệt Mỹ đã cấu kết với tư bản cộng sản Tàu để cùng thực hiện ý tưởng Mỹ - Trung Quốc đồng ngự trị (condominium) kinh tế thế giới mà Zoellick, chủ tịch Ngân hàng thế giới gọi là G2 (đối chọi với G20). Sự hợp tác và phân công giữa 2 tư bản - tư bản CSTQ cung ứng nhân công rẻ tiền, tư bản tài phiệt Mỹ góp tiền tài, trí óc, kỹ thuật - đã biến cả Trung Quốc thành một công xưởng thế giới chế tạo hàng hóa với giá thành hạ lũng đoạn thị trường kinh tế toàn cầu. Nhờ sự cộng tác "nước với lửa" này, tư bản Mỹ và Cộng sản Trung Quốc đã thâu được rất nhiều lợi nhuận.

Khi xẩy ra khủng hoảng tài chính - kinh tế từ Mỹ lan tràn khắp thế giới, Tư bản Mỹ mới vỡ lẽ ra rằng chỉ vì hám lợi đã tự đưa thòng lọng cho Tư bản cộng sản Trung Quốc thắt cổ mình: công kỹ nghệ Mỹ bị đình đốn, thất nghiệp tăng cao, chênh lệch xuất - nhập khẩu mỗi ngày một lớn tạo ra khủng hoảng tài chính. Để dân Mỹ - vốn dĩ là dân tiêu thụ bậc nhất thế giới (70% GDP) - tiếp tục có tiền mua hàng Trung Quốc, Trung Quốc lấy đô la thâu được từ xuất khẩu đưa lại cho Mỹ vay khiến Mỹ trở thành con nợ lớn nhất của Trung Quốc. Trái lại để hạ giá thành sản phẩm xuất khẩu, CSTQ thẳng tay bóc lột sức lao động của 200 triệu min gông (dân công, di dân). Chính sách "định hướng kinh tế" của ĐCSTQ là: chỉ dành cho 1300 triệu dân Trung Quốc 30% Tổng sản lượng nội địa (GDP) còn 70% GDP được phân chia cho các tập đoàn kinh tế quốc doanh (thật ra là Đảng doanh) và cho giới tư sản mại bản liên kết với Đảng để tiếp tục đầu tư kinh doanh xuất khẩu, mua công khố phiếu nước ngoài, cho nước ngoài vay hay giữ tiền mặt (đô la, euro) để các vai vế trong Đảng và giới đại gia mặc sức tiêu sài ở nước ngoài hay để mua chuộc, đút lót chính quyền những nước độc tài thối nát có nhiều tài nguyên, nguyên liệu cần thiết cho công kỹ nghệ xuất khẩu của Trung Quốc. Tất nhiên là người dân Trung Quốc bị bóc lột sức lao động phải trả một giá rất mắc cho cái chính sách định hướng kinh tế kiểu cộng sản Trung Quốc này. Nhưng cũng nhờ vậy mà kinh tế Trung quốc (nếu chỉ căn cứ vào GDP) giữ được sức tăng trưởng cao nhất thế giới.

Đã vậy Trung Quốc còn là một đối tác gian lận: Ăn cắp trí tuệ, bằng sáng chế và các phát minh để làm đồ nhái lại những sản phẩm cao cấp Mỹ rồi tung ra thị trường quốc tế bán phá giá khiến hàng cao cấp của Mỹ không xuất khẩu được. Dìm giá đồng Nguyên và gắn chặt đồng Nguyên với USD để dân Mỹ có thể mua đồ Trung Quốc với giá rẻ mạt, trái lại người dân Trung Quốc không thể mua đồ nhập khẩu của Mỹ được vì giá quá mắc khi chỉ có đồng Nguyên để xài. Kết quả là trong quan hệ thương mại với Trung Quốc, Mỹ nhập siêu Trung Quốc gần 4 lần nhiều hơn xuất: Nội trong năm 2010 thâm thủng mậu dịch Mỹ với Trung Quốc đã lên đến 270 tỷ USD!

Muốn cắt đứt cái tròng gian lận này, Mỹ chỉ có cách đem những quy định của TPP về bảo vệ sở hữu trí tuệ, về môi trường, về an sinh xã hội, về chế độ lương bổng...làm hàng rào ngăn cản hàng rẻ tiền Trung Quốc tràn ngập vào thị trường các nước trong khối TPP, đồng thời di chuyển những công xưởng sản xuất của Mỹ và của các nước trong khối TPP ở Trung Quốc qua những nước đang tiến triển đông nhân công cùng trong khối như Việt Nam, Mexique...Không còn chỉ phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc, xuất nhập khẩu giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ cân bằng hơn, khiến Trung Quốc không thể cứ tiếp tục thao túng tỷ giá đồng Nguyên được nữa.

Ngăn chặn bành trướng quân sự Trung Quốc xuống Nam Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương

Trung Quốc luôn luôn nuôi tham vọng làm bá chủ 2 mặt biển thuộc Tây Nam Thái Bình Dương tiếp giáp với Trung Quốc là Đông Hải mà Trung Quốc gọi là biển Đông Trung Hoa (Hoa Đông) và biển Đông mà Trung Quốc đặt tên là biển Nam Trung Hoa (Hoa Nam).

Trong những thập niên đầu của hậu bán thế kỷ thứ 20, Trung Quốc tăng cường lực lượng hải không quân trên mặt biển Đông Hải với mục đích duy nhất là sử dụng cường lực quân sự thâu hồi Đài Loan. Lực lượng hùng hậu của quân đội Mỹ đóng ở Đại Hàn, Nhật Bản và nhất là sự có mặt của hạm đội 7 Mỹ trấn giữ eo biển Đài Loan đã làm tiêu tan hi vọng hải lục không quân Trung Quốc có thể làm chủ Đông Hải, qua mặt được hạm đội 7, vượt biển "giải phóng" Đài Loan.

Sau Giải phóng miền Nam 75, Trung Quốc thấy cơ hội làm bá chủ biển Đông đã đến: Mỹ rút khỏi Việt Nam, căn cứ Mỹ ở Philippines bị đòi lại, Mỹ không còn có mặt ở biển Đông. Người "anh em" Việt Nam, bắt buộc phải nhường mọi biển đảo Hoàng Sa - Trường Sa cho Trung Quốc để trả ơn Trung Quốc đã viện trợ chống Mỹ, sẽ không ra mặt chống đối, chỉ phản kháng lấy lệ.

Quần đảo Hoàng Sa với thời gian đã trở thành một căn cứ tổng hợp của các binh chủng Trung Quốc không quân, bộ binh, thủy quân lục chiến, pháo binh, bộ đội tên lửa. Nhiều hòn đảo được trang bị để trở thành sân bay cho máy bay chiến đấu và bến đậu cho tàu chiến, tàu ngầm. Những hòn đảo trong quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa mà Trung Quốc chiếm đóng sẽ trở thành những pháo đài, những tàu sân bay, bảo vệ đường Lưỡi Bò Trung Quốc vẽ và sẽ là những cứ điểm xuất phát những cuộc hành quân xâm chiếm Đông Nam Á, Ấn Độ Dương, để một ngày kia bành trướng Trung Quốc đi đến tận Úc châu.

Khống chế biển Đông, Trung Quốc có triển vọng nắm trong tay nguồn tài nguyên dầu khí vô cùng phong phú cần thiết cho công kỹ nghệ Trung Quốc đồng thời cũng chi phối được con đường thương mại quan trọng nhất hoàn cầu: mỗi năm số lượng hàng hóa đi ngang qua eo biển Malacca vào biển Đông trị giá 5000 tỷ USD (bằng GDP Trung Quốc) trong đó 1/4 là trị giá hàng hóa mậu dịch giữa Mỹ và các nước Đông Nam Á.

Để ngăn chặn bành trướng Trung Quốc độc chiếm biển Đông, có những thỏa thuận song phương giữa Mỹ và đa số những nước quanh biển:
- Malaysia và Singapore thỏa thuận cung cấp căn cứ cho tàu chiến duyên hải Mỹ bảo vệ eo Malacca và Sunda.
- Việt Nam sẵn sàng cho Mỹ sử dụng hải cảng Cam Ranh làm trạm sửa chữa tàu chiến.
- Với Philippin có ký hiệp ước phòng thủ lẫn nhau với Mỹ cách đây 60 năm, Mỹ cung cấp tàu khu trục thứ hai. Với Indonesia, Mỹ cung cấp máy bay F16C/D.
- Thỏa thuận quan trọng hơn hết là giữa Mỹ và Úc: Úc để cho Mỹ đóng quân ở Darwin (cực Bắc Úc) với đợt đầu là 2500 lính thủy đánh bộ. Mỹ sẽ tăng cường máy bay chiến đấu, đem tàu sân bay tới Úc. Nhờ địa thế Darwin ngó ra vùng biển Đông Nam Á - Nam Thái Bình Dương bao gồm Indonesia, Brunei, hai eo biển chiến lược Sunda, Malacca, Singapore, quần đảo Trường Sa, Philippin, Darwin là căn cứ tốt nhất từ đó có thể xuất phát các cuộc hành quân trong trường hợp cần bảo vệ những nước này và những cứ điểm chiến lược trong vùng.

Lí do Mỹ cần Việt Nam có mặt trong Đối tác xuyên Thái Bình Dương

Mọi kế hoạch bảo vệ Đông Nam Á chống lại bành trướng Trung Quốc sẽ thất bại nếu không có sự cộng tác của Việt Nam. Đó là lí do Mỹ cần Việt nam tham gia TPP để:

1. Về quân sự, bịt kín lỗ hổng Tây Nguyên, chặn đường Trung Quốc xâm nhập Đông Nam Á qua ngả Lào Việt:
Các chuyên gia quân sự Mỹ không thể không thấy sự có mặt của hàng ngàn người Trung Quốc trong dự án khai thác Bauxite tại Tây nguyên, nơi có một vị trí chiến lược to lớn nằm giữa 3 nước Lào, Campuchia, Việt Nam, là một mối đe dọa không những cho an ninh quốc phòng Việt Nam mà còn cho cả vùng Đông Nam Á: Những "dân công" này có thể là những đơn vị quân đội nhân dân Trung Quốc trá hình "nằm vùng" chờ khi được lệnh, sẽ hợp với những binh chủng đã nằm sẵn ở những cơ sở "dân sự", những công trường làm cầu cống, đường xá chiến lược nối với miền Nam Trung Quốc tại Lào, tràn qua Campuchia, băng qua Thái Lan, Malaysia, xuống đến tận eo Malacca kết hợp với hải quân Trung Quốc xuất phát từ những căn cứ Hoàng Sa, Trường Sa đã chiếm lĩnh toàn biển Đông.
Việt Nam một khi đã nằm trong TPP phải cam kết tôn trọng những quy định bảo vệ môi trường, nghĩa là phải hủy bỏ hợp đồng đã ký với Trung Quốc về khai thác Bauxite dù có phải trả tiền bồi thường cho Trung Quốc. Trung Quốc sẽ phải triệt thoái khỏi Tây Nguyên.

2. Về kinh tế, ngăn chặn kinh tế Việt Nam trở thành một chi nhánh của kinh tế Trung Quốc:
Sách lược của Trung Quốc là tràn ngập Việt Nam sản phẩm, nguyên liệu Trung Quốc, gây nhập siêu khiến kinh tế Việt Nam hoàn toàn phụ thuộc Trung Quốc về đủ mọi mặt và trở thành một chi nhánh của kinh tế Trung Quốc: Riêng năm 2010, không kể hàng lậu, Việt Nam đã nhập khẩu từ Trung Quốc 20 tỷ USD trong đó nhập siêu lên đến gần 13 tỷ.
Nguồn nhập siêu là:
- Các công ty Trung Quốc luôn luôn thắng các hợp đồng thiết kế, mua sắm và xây dựng vì có sự đồng lõa của các tập đoàn kinh tế nhà nước. Thắng thầu họ nhập máy móc, thiết bị, vật liệu thậm chí cả nhân công và dịch vụ. Những công ty này không những phá hoại môi trường, giành công việc của công nhân Việt Nam mà còn cài gián điệp khắp cùng mọi chỗ có công trình của họ đồng thời cũng kéo theo thương nhân của họ đến mở quán mở tiệm.
- Trung Quốc xuất khẩu qua Việt Nam đủ mọi mặt hàng từ một cây đinh đến những vật thông dụng trong gia đình với giá cực rẻ khiến hàng nội địa không thể nào cạnh tranh nổi, công nghệ sản xuất hàng tiêu thụ trong nước đều bị phá sản. Thậm chí rau quả thịt thà và hàng ngàn loại thực phẩm khác cũng đến từ Trung Quốc! Hệ quả là thị trường tiêu thụ, cuộc sống thường ngày của nhân dân Việt Nam đều hoàn toàn dưới sự chi phối của Trung Quốc.
- Công nghệ xuất khẩu Việt Nam, chủ yếu là những ngành dệt may, giày dép... phải nhập từ Trung Quốc tới 60 - 85% vật liệu, nguyên liệu đã chế tác (vải, sợi, da giày...) rồi chỉ gia công chế biến, lắp ráp. Trung Quốc nắm quyền sinh sát: chỉ cần Trung Quốc tăng giá nguyên liệu lên 10-15% là công nhân Việt Nam hết đường sống, các khu công nghiệp phải tự đóng cửa. Sản xuất mà chỉ lấy công làm lãi, giá trị gia tăng tạo ra rất thấp, thì thực chất xuất khẩu Việt Nam chỉ là xuất khẩu hàng Trung Quốc "made in Việt Nam"!
Trong chuyến thăm Việt Nam vừa rồi của Tập Cận Bình, chính quyền CSVN còn cam kết "nỗ lực thực hiện mục tiêu đạt kim ngạch thương mại Trung quốc - Việt Nam 60 tỷ USD vào năm 2015... ra sức đẩy mạnh hợp tác 2 hành lang 1 vành đai kinh tế xây dựng khu hợp tác xuyên biên giới". 60 tỷ USD là hơn một nửa GDP Việt Nam hiện giờ. Nhập siêu Việt Nam sẽ nhân gấp 3 lần. Khó mà không thấy là trong tương lai rất gần, kinh tế Việt Nam sẽ chỉ là một phần của kinh tế Trung Quốc và Việt Nam sẽ hoàn toàn trở thành một thuộc địa khai thác của Trung Quốc, một vùng tự trị như Tây Tạng, Tân Cương.
Để ngăn chặn hàng Trung Quốc sản xuất dưới nhãn hiệu Việt Nam tràn ngập thị trường thế giới, Mỹ chỉ có cách lôi kéo Việt Nam vào TPP:
Một khi đã là thành viên của TPP, Việt Nam phải tuân thủ những qui định về xuất xứ hàng hóa, về bảo vệ môi trường, về bảo vệ tai nạn lao động, về an sinh xã hội, chế độ lương bổng...Tại Việt Nam, những công ty Trung Quốc không tôn trọng những điều kiện trên sẽ bị loại khỏi những cuộc đấu thầu và hàng hóa Trung Quốc không đủ tiêu chuẩn cũng bị cấm nhập khẩu vào Việt Nam để Trung Quốc gian lận dán nhãn hiệu Made in Việt Nam rồi xuất khẩu lại qua các nước trong TPP. Các doanh nghiệp sản xuất hàng thường dùng trong nước hay hàng xuất khẩu cũng nhờ vậy lấy lại được thị trường tiêu thụ trong nước và sản phẩm xuất khẩu Việt Nam sẽ có một chất lượng tốt hơn và sẽ được yêu chuộng trong một thị trường vô cùng rộng lớn là khối TPP.
Các tập đoàn hàng công nghệ cao, hàng điện tử chất lượng tốt, sẽ tới Việt Nam đầu tư khi chắc chắn là sở hữu trí tuệ sẽ được bảo đảm: các bằng sáng chế, phát minh sẽ không bị ăn cắp như hiện nay ở Trung Quốc. Nhân công kỹ thuật cao cấp nhờ vậy sẽ có việc làm và Việt Nam sẽ trở thành công xưởng kỹ thuật cao cấp cho các đối tác xuyên Thái Bình Dương.
Việt Nam với dân số gần 9O triệu người đầy ham muốn tiêu thụ, cũng sẽ là một thị trường tiêu thụ đáng kể cho ngành xuất khẩu các nước trong TPP.

3. Về chính trị, có thêm điều kiện để đòi hỏi chính quyền CSVN nới rộng nhân quyền, dân chủ và tự do báo chí:
Cho tới nay vẫn có những phần tử trong ĐCSVN lí luận là đi với Mỹ sẽ mất Đảng. Chấp nhận Việt Nam trong khối TPP, Mỹ đã gián tiếp công nhận ĐCSVN là đảng cầm quyền duy nhất và chứng minh là đi với Mỹ sẽ không mất đảng, trái lại nếu tiếp tục bám vào Trung Quốc sẽ mất hết. Không những vậy, giới kinh doanh, giới tư bản Mỹ hay bất cứ nước nào đầu tư vào Việt Nam, cũng không đòi hỏi gì hơn là có ổn định chính trị để dễ làm ăn. Những lobby quân sự và kỹ nghệ làm súng ống Mỹ còn cho là dễ làm giầu với những chế độ độc tài hơn là với những nước dân chủ hiếu hòa. Tất nhiên là những tổ chức đòi hỏi dân chủ, đòi hỏi dân quyền Mỹ sẽ không chịu ngồi yên và sẽ làm áp lực xuống chính phủ Mỹ: Sẽ có những cuộc mặc cả nhân danh các đối tác trong TPP và chính quyền CSVN về nới rộng nhân quyền và dân chủ. Tự do xuất bản báo chí tư nhân cũng sẽ được bảo đảm bởi những điều luật tổng quát về tự do kinh doanh mà những nước trong TPP đều đã chấp thuận. Cái quan trọng hơn hết là một khi kinh tế Việt Nam phải vận hành theo những quy định, những luật lệ rõ ràng và phải có sự minh bạch trong sổ sách, trong kế toán, thì nền tư pháp cũng nhờ đó mà sẽ độc lập hơn và cũng bớt được tham nhũng.

Kết luận

Gia nhập khối TPP là cơ hội duy nhất Việt Nam tạo dựng được một nền kinh tế vững bền, có nhiều triển vọng, thoát khỏi được sự khống chế của Trung Quốc. Nói như Marx, kinh tế là hạ tầng cơ sở, chính trị chỉ là thượng tầng kiến trúc. Các nước trong TPP cùng chung một nền kinh tế nên cũng cùng chung một nền chính trị. Việt Nam một khi đã nằm trong TPP, nền chính trị cũng sẽ thay đổi theo cùng một chiều hướng.

Vấn đề là ĐCSVN muốn chơi lá bài nào khi quyết định gia nhập TPP: Đi nước đôi, lệ thuộc Trung Quốc về đường lối chính trị, lợi dụng Mỹ về kinh tế? Hay chỉ cốt để mặc cả tiền hầu bao với Trung Quốc, chứng cớ là Tập Cận Bình đã phải tức tốc qua Việt Nam "lì xì" năm mới các chóp bu trong Đảng 300 triệu đô. 300 triệu thấm gì với mười mấy tỷ USD nhập siêu Trung Quốc mỗi năm?

Có người còn bi quan hơn nữa cho là trung thành với Trung Quốc vẫn là đường lối của ĐCSVN và vào TPP chỉ cốt để lừa Mỹ: chứng cớ là bữa trước Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố nẩy lửa gián tiếp khuyến khích biểu tình chống Tàu, bữa sau những người đi biểu tình đều bị Công an tóm cổ.

Cũng có người lạc quan cho rằng Việt Nam gia nhập TPP là một thắng lợi lớn của phái "Đảng quản lí" đang đấu tranh một sống một còn với phái "Đảng lãnh đạo", một hệ thống ăn bám đi từ Bí thư phường xã đến Tổng bí thư Đảng. Lực lượng nòng cốt của phái này là Công an và Tổng cục 2, đã bị Trung Quốc mua chuộc.

Có người khác lại cho rằng Việt Nam gia nhập TPP là công của Trương Tấn Sang đang tạo thế đứng cho mình, tranh giành ảnh hưởng với Nguyễn Tấn Dũng để một ngày kia, tranh thủ được sự ủng hộ ngầm của Mỹ với sự đồng ý của Trung Quốc, sẽ trở thành lãnh đạo duy nhất "Đảng và Chính phủ" như Hồ Cẩm Đào. Việt Nam sẽ thoát khỏi cái chế độ một đảng vô hình vô thể làm bình phong cho các phe phái chia nhau quyền hành, quyền lợi, luôn luôn bị nước ngoài thao túng và là nguồn gốc của mọi tham nhũng. Chế độ Cộng sản Việt Nam sẽ trở thành một chế độ độc tài "bình thường" với một lãnh tụ như những nước độc tài trên thế giới. Hạ bệ một lãnh tụ độc tài dễ khả thi hơn là hạ bệ một tập thể vô trách nhiệm, vô hình, vô thể.

.
.
.

No comments:

Post a Comment