Monday, April 25, 2011

VẤN ĐỀ TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG : ĐÀI LOAN TOAN TÍNH ĐIỀU GÌ ? (Trương Nhân Tuấn)


Đăng ngày: 01:14 25-04-2011

Bộ ngoại giao Trung Hoa Dân Quốc, tức Đài Loan, hôm17 tháng 4 đã ra tuyên bố tái khẳng định chủ quyền của Trung Hoa đối với các quầnđảo Hoàng Sa và Trường Sa trên biển Đông, cùng vùng biển chung quanh, ngay saucuộc hội đàm chính thức giữa lãnh đạo quốc phòng cấp cao Trung Quốc và Việt Namtừ ngày 12 đến ngày 15 tháng 4 năm 2011 tại Hà Nội kết thúc. Ngày hôm sau, 18tháng 4, bộ Quốc Phòng Đài Loan cũng tuyên bố sẽ củng cố lực lượng phòng thủ đảoThái Bình (Ba Bình) và Trung Sa (Pratas) bằng các đơn vị Thủy quân lục chiến,thay vì lực lượng tuần duyên như trước đây. Cuộc hội đàm cao cấp quốc phòng, phía Trung Quốc gồm tướng Guo Boxiong (QuáchBá Hùng), Phó chủ tịch quân ủy trung ương, cùng phái đoàn quân sự cấp cao, phíaViệt Nam gồm Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam, ông Phùng Quang Thanh. Tướng QuáchBá Hùng nhân dịp này cũng gặp gỡ quí ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng bí thư đảngCSVN và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Nội dung cuộc hội đàm, ghi lại từ nhiều phía, cho thấycó nhiều điều khác biệt.
Theo Tân Hoa Xã : « Đồng chí Quách BáHùng đã nêu đề nghị 3 điểm về phát triển quan hệ quân đội hai nướcTrung-Việt: Một là, tăng cường tiếp xúc chiến lược, nắm vững địnhhướng đúng đắn phát triển quan hệ Trung-Việt; hai là, coi trọng tuyêntruyền hướng dẫn, tích cực tạo bầu không khí hữu nghị, đoàn kết,hợp tác Trung-Việt; ba là, làm phong phú nội dung giao lưu, nỗ lựcnâng cao trình độ hợp tác thiết thực giữa quân đội hai nước. » Bảntin này không hề nói đến chủ đề tranh chấp biển Đông.
Theo báo chí Việt Ngữ, nội dung đàm phán có các vấnđề : giải quyết tranh chấp biển Đông và việc hợp tác quân sự song phương.
Theo tin từ nguồn Chính Phủ VN, dẫn từ TTXVN, tríchlời của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, nhân dịp tiếp đón ông Quách Bá Hùng, về vấnđề tranh chấp biển Đông : « đề nghị hai bên cùng nhau đàm phán, thảoluận hòa bình để tìm ra những giải pháp mang tính cơ bản, lâu dài mà hai bên đềucó thể chấp nhận được. » Bản tin này ghi nhận « một thỏa thuận đượchai bên ký kết nhằm mục đích hợp tác đào tạo năm 2011 ». So sánh ở hai bảntin TTX VN và Tân Hoa Xã, ta thấy phía Trung Quốc đặt nặng vấn đề tâm lý quốcphòng, vì họ không muốn thấy dư luận VN thù nghịch với họ. Trong khi VN dườngnhư muốn sử dụng vấn đề hợp tác quốc phòng với TQ như là một điều kiện cho việcgiải quyết tranh chấp biển Đông. Việc này VN cũng đang làm tương tự với Hoa Kỳ.Như thế, ở các điểm mấu chốt, vấn đề tranh chấp biển Đông, phía VN đã được giaocho phe quốc phòng, thay vì do phe ngoại giao phụ trách, như thường lệ trướcđây hay thường thấy ở các nước khác.
Nhưng theo thông tin của chính phủ Đài Loan, Thủ TướngNguyễn Tấn Dũng đã tuyên bố nhân dịp này Việt Nam và Trung Quốc đã ký kết một « thỏathuận về hợp tác chặt chẽ nhằm phát triển các biện pháp cơ bản cho các vấnđề đã thảo luận ». Các vấn đề thảo luận ở đây dĩ nhiên là hai vấn đề :tranh chấp biển Đông và việc hợp tác quân sự song phương. Nguồn tin này cũng cho biết phía Phi Luật Tâncũng đã cực lực phản đối tuyên bố này của Nguyễn Tấn Dũng. Dĩ nhiên việc này củacũng là nguyên nhân tuyên bố của Đài Loan về chủ quyền các đảo HS và TS. (Nguồn :http://taiwaninfo.nat.gov.tw/ct.asp?xItem=160218&CtNode=458&htx_TRCategory=&mp=4).
Báo chí Việt Ngữ hải ngoại như BBC và RFA, ngoài việcđưa tin tức về tuyên bố của Đài Loan về việc tái khẳng định chủ quyền các đảoHS và TS tại biển Đông, cũng đã đăng bài phỏng vấn các nhận định của học giả ViệtNam về thái độ của Đài Loan qua việc đảo quốc này tuyên bố khẳng định chủ quyền.Nhưng không thấy nguồn tin nào đề cập đến thỏa thuận giữa hai bên Việt Nam vàTrung Quốc đã được ký kết như nguồn tin của Đài Loan đã dẫn.
Ta thấy việc loan tin cùng một vấn đề, ở đây là nộidung của cuộc đàm phán, đã được cơ quan ngôn luận các bên loan tải theo lối« có lợi cho phe mình », không bên nào phù hợp với bên nào. Báo chíbám lề trong nước dĩ nhiên chỉ đăng những tin mà nhà nước muốn phổ biến. Cònbáo chí tự do thì chỉ nói đến những thứ độc giả thích đọc. Lý ra, điều cần tìmhiểu là bản tin của chính phủ Đài Loan có đúng với sự thật hay không ? nếuđúng thì việc « phát triển các biện pháp cơ bản » (cho việc giải quyếttranh chấp biển Đông giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc) sẽ như thếnào ? Việc hợp tác quốc phòng hai bên sẽ được nâng cao lên đến trình độnào ? Những vấn đề mấu chốt của đàm phán thì không thấy báo chí nào bàn đến.Xem chừng các việc này thuộc về « bí mật quốc phòng », do đó việc đitìm sự thật trên các mặt báo sẽ là điều không tưởng.
Việc Đài Loan khẳng định chủ quyền tại các đảo ởbiển Đông không phải là điều mới mẻ. Nếu chỉ nhắc những việc gần đây, ngày 04tháng 02 năm 2009, Đài Loan ra tuyên bốtái khẳng định chủ quyền của họ đối với các đảo ở biển Đông. Việc lên tiếng nàysau khi lưỡng viện quốc hội Philippineslần lượt vào các ngày 28 tháng 1 và 2 tháng 2 thông qua luật sáp nhập các đảonhỏ và rặng san hô thuộc quần đảo Trường Sa vào lãnh thổ của họ. Các động tháicủa Đài Loan trên đảo cũng không phải là hiếm hoi. Tháng 2 năm 2008, tổng thốngTrần Thủy Biển đã đáp phi cơ ra đảo Ba Bình. Trước đó, Đài Loan cũng đã cho xâymột phi đạo dài 1150m, bất chấp phản đối của các nước có tranh chấp như VN vàcác nước khác. Việc này xem ra còn hệ trọng hơn cả việc thay thế đội phòng thủduyên hải bằng quân Thủy quân lục chiến. Trong khi đó, thực ra việc đổi quânnày nằm trong kế hoạch hiện nay của tổng thống Mã Anh Cửu là « chuyênnghiệp hóa » quân đội Đài Loan. Gần nhất, tháng 3 năm 2011, Đài Loan còncho hải quân tập trận bằng đạn thật tại vùng biển chung quanh đảo Ba Bình.
Dầu vậy, nhân việc dư luận Việt Nam đang chú tâm đếnphản ứng của Đài Loan, qua việc báo chí thổi phồng sự kiện, nhân đảo quốc nàytái khẳng định chủ quyền tại HS và TS. Tác giả bài viết này sẽ thử đưa một cáinhìn khác, về thái độ chính trị của Đài Loan trước những động thái của các nướcliên quan đến vấn đề tranh chấp chủ quyền các quần đảo HS và TS cũng như vùngnước chung quanh, đồng thời điểm qua sách lược an ninh quốc phòng của đảo quốcnày về các đảo ở biển Đông.
Theo người viết, phản ứng của Đài Loan mới đây về HSvà TS nhằm hai mục đích : 1/ Củng cố quốc phòng tại các đảo Trung Sa vàThái Bình (tức Ba Bình) nhằm phòng ngừa các phản ứng sắp tới của Trung Quốc saukhi chiến hàng không mẫu hạm (nghe nói đặt tên là Thi Lang) vừa hạ thủy tại cảngĐại Liên và sẽ được đưa vào hoạt động vào tháng 11 tới tại vùng biển Đông. 2/ Độngthái chính trị của Tổng thống Mã Anh Cửu, thuộc Quốc Dân Đảng, nhằm vào việc bầucử Tổng thống và Quốc hội vào tháng 2 năm 2012 sắp tới.
1/Sơ lược lịch sử : Đối với quần đảo Trường Sa, chưa bao giờ Trung Quốc bàytỏ yêu sách trong suốt thời kỳ Việt Nam thuộc Pháp. Ngày 23-9-1930 Pháp ra thông báo cho các nước biết việc Phápchiếm hữu quần đảo Trường Sa. TrungQuốc không có phản ứng gì về tuyên bố chủ quyền này của Pháp. Ngày 21 tháng 12năm 1930 một nghị định sát nhập các đảo thuộc Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa.
Lýdo chính mà phía Đài Loan đưa ra nhằm chứng minh chủ quyền của Đài Loan tại Trường Sa là do yếu tố lịch sử : ngườiNhật đã chiếm quần đảo Trường Sa và sát nhập các đảo này vào Đài Loan. Sau khiNhật thất trận 1945 phải trả lại các vùng lãnh thổ mà họ chiếm trước chiếntranh, do yếu tố liên tục quốc gia, các đảo Trường Sa thuộc về Đài Loan. Nhưngviệc chiếm đóng của Nhật ngày 31 tháng 3 năm 1939 thì không hợp lệ, ngày 4-4Pháp đưa ra phản đối. Nhật đã chiếm một lãnh thổ từ lâu đã có chủ. Từ thời điểmđó, Nhật đã cho một số quân gốc Đài Loan đến giữ đảo.
SauThế chiến thứ II, Nhật bại trận, số phận các vùng lãnh thổ do Nhật chiếm trướcđó được xác định qua Hòa ước San Francisco 1951. Về các điều khoản liên hệ đếnlãnh thổ của Hòa ước San Francisco (điều 2), Nhật phải từ bỏ mọi đòi hỏi chủquyền tại: (a) Triều Tiên, và công nhận nền độc lập của xứ này, (b) đảo ĐàiLoan và quần đảo Bành Hồ, (c) quần đảo Kouriles và phần đảo Sakhaline cũng nhưcác đảo khác đã nhượng cho Nhật qua Hiệp ước Portsmouth năm 1905, (d) tại các đảođã được giao cho Hội Quốc Liên quản lý và theo quyết định của Hội đồng Bảo anngày 2 tháng 4 năm 1947, e/ vùng Bắc cực, (f) các quần đảo Spratly (Trường Sa)và quần đảo Paracels (Hoàng Sa).
Nhưthế, ngoại trừ Triều Tiên và các đảo đã được Hội Quốc Liên quản lý trước đó đãđược xác định rõ số phận, các đảo Đài Loan và quần đảo Bành Hồ, quần đảoKouriles và phần đảo Sakhaline, vùng Bắc cực và các quần đảo Trường Sa và HoàngSa thì không xác định là sẽ giao cho nước nào quản lý.
Mộtsố giải pháp về số phận các vùng đất nói trên được đề nghị tại hội nghị nhưsau:
(a) Các vùng đất đó thuộc quyền quản lý của tất cảcác nước có tuyên bố chiến tranh với Nhật, tức hình thức "cộng đồng quảnlý" (condominium). Việc chuyển nhượng chủ quyền trên thực tế đã được thựchiện trong lúc Nhật ký kết Tuyên bố Potsdam đầu hàng vô điều kiện. (Phía Phápcó hai lập trường. Lập trường thứ nhất chia sẻ đề nghị này. Lập trường thứ hailà đề nghị (c) phía dưới).
(b) Các vùng đất này thuộc quyền quản lý của cácnước ký kết vào Hòa ước. Đề nghị này bị Liên Xô chống đối; Ấn Độ và hai nướcTrung Hoa thì đòi hỏi "cộng đồng quản lý" trên những vùng lãnh thổ củaNhật.
(c) Các vùng đất này trở thành đất vô chủ (terraederelictae).
(d) Các vùng đất này trở thành đất vô chủ, ngườita có thể chiếm hữu. Điều này hàm ý, những nước tham chiến đang chiếm đóng tạmthời tại các vùng lãnh thổ đó có thể chiếm đóng vĩnh viễn và tuyên bố chủ quyền.
Rốt cục đề nghị (d), là đề nghị của phái đoàn Pháp, đãđược mặc nhiên chấp thuận. Tức là phe lâm trận nào chiếm ở đâu thì sẽ tuyên bốchủ quyền ở đó.
Do đã toan tính trước, Pháp liền ký kết với Trung HoaHiệp ước Trùng Khánh (Tchong Quing) ngày 28 tháng 2 năm 1946. Theo đó quân độiTrung Hoa sẽ rời Việt Nam từ ngày 1 đến ngày 15 tháng 3 năm 1946 để quân Phápvào thay thế. Đổi lại, Pháp tuyên bố hủy bỏ tất cả các quyền lợi và tô giới củaPháp tại Trung Hoa đồng thời cam kết dành sự ưu đãi về kinh tế cho Trung Hoa,như nhượng tuyến đường xe lửa Vân Nam – Hải Phòng, dành ưu đãi về kinh tế, kiềudân Trung Hoa sống tại Việt Nam được hưởng qui chế ưu đãi đặc biệt.
Trong khi đó, phía nam vĩ tuyến 16, vì lý do chiến lược,Anh cũng đồng ý nhượng quyền lại cho Pháp.
Theo hiệp ước đã ký với Trung Quốc và thỏa thuận vớiAnh, sau khi quân Nhật đã rút khỏi quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa năm 1946,Pháp đã gởi quân đến các đảo này để khẳng định chủ quyền. Tại Hoàng Sa và TrườngSa, quân đội Pháp-Việt đã có mặt từ tháng 5 năm 1946. Đến tháng 10-1946, quânPháp ra đảo Ba Bình (Itu Aba) thuộc Trường Sa, đóng mốc mới, khẳng định lại chủquyền.
Mặt khác, tại Hội nghị San Francisco, đại diện Quốcgia Việt Nam là ông Trần Văn Hữu, đã tuyên bố chủ quyền của Việt Nam tại hai quầnđảo này và không bị một sự chống đối nào. Việt Nam tham gia hội nghị với tưcách một nước độc lập, có tuyên chiến với Nhật, do đó có tư cách pháp nhân đểđưa ra ý kiến của mình về số phận các vùng đất mà Nhật Bản đã buộc bị từ bỏ. ViệtNam đã ký kết Hòa ước, Nhật Bản cam kết bồi thường cho Việt Nam 39 triệu đô latương đương giá trị hàng hóa và công trình xây dựng. Nếu việc bồi thường đã chấpthuận thì việc tuyên bố của Việt Nam về chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa đươngnhiên là có giá trị pháp lý. Nhưng vấn đề là lúc đó Việt Nam không có khả năngtiếp thu hai quần đảo này từ tay Nhật. Vì thế thái độ của Pháp - mặc dầu chỉ vìquyền lợi của Pháp - vô tình cũng có lợi cho Việt Nam, vì Pháp đại diện cho ViệtNam đã tiếp thu, tuyên bố chủ quyền và chiếm đóng thực sự trên các đảo Hoàng Savà Trường Sa
Hòa ước San Francisco không có sự hiện diện của haiphe Trung Hoa. Do đó, hội nghị chấp nhận để Nhật có toàn quyền lựa chọn phe đểký hòa ước. Rốt cục Nhật đã chọn phe Trung Hoa Dân quốc để ký hòa ước. Hòa ướcTrung-Nhật được ký tại Đài Bắc ngày 28-4-1952, trong đó khoản nói về lãnh thổđược lặp lại nguyên văn nội dung điều (2) của Hòa ước San Francisco: Nhật từ bỏchủ quyền tại các đảo Đài Loan, Bành Hồ, Hoàng Sa, Trường Sa nhưng không xác địnhlà trả cho phe nào.
Phe Tưởng Giới Thạch sau khi ký Hiệp ước Trùng Khánh vớiPháp tháng 3 năm 1946, đồng ý để cho Pháp thay thế mình trong việc giải giớiquân Nhật ở các vùng phía bắc vĩ tuyến 16, vài tháng sau mới thấy bị hớ. Do đóhọ tìm cách đổ quân lên đảo Phú Lâm thuộc nhóm An Vĩnh của quần đảo Hoàng Sa,hy vọng giành lại quần đảo này từ tay Pháp. Nhưng những hành động này, như việcđổ quân chiếm đảo Ba Bình (Itu Aba) thuộc Trường Sa đều trái công pháp quốc tế,vì đây là hành động xâm chiếm một vùng đất đã có chủ quyền.
2/ Ưu tiên chiến lược của Đài Loan : An ninh quốcphòng.
Một điều không thể chối cãi, ưu tiên trên mọi ưutiên hiện nay của Đài Loan là vấn đề an ninh quốc phòng. Đài Loan còn hiệnhữu trên thế giới như là một đảo quốc độc lập hay không là do tương quan lực lượngquốc phòng giữa đảo quốc này với Trung Hoa lục địa. Dưới sự đe dọa thường xuyênvà ngày càng nặng nề của lục địa về một khả năng thống nhất bằng vũ lực, anninh quốc phòng do đó là một ưu tiên cao nhất của mọi cấp lãnh đạo, của mọikhuynh hướng chính trị tại đảo quốc. Từ năm 1996 trở lại đây, sinh hoạt chínhtrị dân chủ tại Đài Loan có làm thay đổi một số chính sách quốc gia về các lãnhvực quan trọng như việc chấn chỉnh vị thế của Đài Loan trên trường quốc tế hayviệc phát triển kinh tế. Tùy theo đảng cầm quyền, Quốc Dân đảng hay đảng Dân Tiến,chính sách ngoại giao hay đường hướng phát triển kinh tế có thể thay đổi, nhưngvề quốc phòng, cả hai đảng đều ý thức sự đe dọa của Bắc Kinh, do đó về chiến lượcphòng vệ cả hai phe đều hầu như đồng ý ở các điều cơ bản.
Chiến lược quốc phòng hiệnnay của Đài Loan có thể hiểu qua « sách trắng » công bố năm 2002. (Từđó đến nay chưa thấy công bố « sách trắng » nào khác về quốc phòng).
Sau khi bị loại ra khỏi Liên Hiệp Quốc năm 1971 vàsau khi chứng kiến kinh nghiệm của miền nam Việt Nam 1975, quan niệm quốc phòngcủa Đài Loan đặt căn bản trên hai nguyêntắc : « Răn đe hữu hiệu và phòng thủ vững chắc ». Trong đó nhiệmvụ bảo vệ đất nước thuộc về toàn dân « quân dân quốc phòng », tin tưởngvào sức mạnh của chính mình « tự lực tự chủ - zili zizhu ».
Sách trắng quốc phòng năm 2002 ghi lại Luật Quốc Phòng(tháng giêng năm 2000) nội dung như sau : « Quốc phòng là trách nhiệmcủa toàn dân, mọi phương tiện trực tiếp hay gián tiếp để bảo vệ quốc gia nhưquân sự, chính trị, kinh tế, tâm lý và khoa học kỹ thuật đều được sử dụng».
Lịch sử chiến lược quốc phòng của Đài Loan có thể tómgọn qua 3 giai đoạn nhưng mục đích tựu trung chỉ nhắm vào việc phòng thủ. Giai đoạnđầu, sau khi mất lục địa về phe cộng sản 1949, Tưởng Giới Thạch củng cố lực lượngở Đài Loan và dựa vào Hoa Kỳ vừa để tự vệ, vừa hy vọng đem quân về lục địa đánhđuổi « cộng phỉ ». Giai đoạn này chiến lược quốc phòng của Đài Loanlà « tấn công – phòng ngự ».
Đến thập niên 60 mộng ước « quang phục »ngày một xa vời, chính phủ Trung Hoa Dân Quốc cố gắng giữ “nguyên trạng - statuquo”, tức giữ thẩm quyền của mình trên đảo Đài Loan và các đảo Bành Hồ, Kim Môn,Mã Tổ, Trung Sa và Thái Bình (tức đảo Ba Bình, thuộc Trường Sa của Việt Nam).Chiến lược quốc phòng là « củng cố - phòng ngự ».
Sau khi Hoa Kỳ cắt đứt ngoại giao năm 1979, các căn cứquân sự của Hoa Kỳ trên đảo lần lượt đóng cửa và mọi kết ước trước đó giữa Hoa Kỳvà Trung Hoa Dân Quốc kể từ lúc này đều trở thành vô giá trị (caduc). Năm 1982Hoa Kỳ còn ký kết với Trung-Quốc sẽ giảm dần việc bán vũ khí cho Đài Loan. Để sốngcòn Đài Loan phải phát triển các cơ sở kỹ nghệ quốc phòng cũng như đi tìm cácnguồn bán vũ khí mới. Đây là khunh hướng « tự lực tự chủ » của ĐàiLoan. Trung tâm nghiên cứu khoa học kỹ thuật Trung Sơn (là danh hiệu của Tôn DậtTiên), xây dựng từ cuối thập niên 60, đã trở thành trung tâm nghiên cứu và sản xuấtvũ khí. (Đến năm 2001 số vũ khí sản xuất tại Đài Loan cung cấp cho quân đội chiếm47,5% ngân sách quốc phòng, tức chiếm 47,2 tỉ nhân dân tệ (ngân sách quốc phònglà 99,6 tỉ NT). Trung tâm Trung Sơn gồm có năm ngành nghiên cứu : hàng không– phi đạn và hỏa tiễn – hệ thống điện tử - khí cụ và hóa chất. Trung tâm sản xuấtphi cơ khu trục và các loại chiến hạm do Hoa Kỳ nhượng kỹ thuật. Trung tâm nàycũng sản xuất các loại phi đạn và nghiên cứu vũ khí nguyên tử.)
Đến đầu thập niên 90, trước đe dọa mất còn do quyết tâm“thống nhất” của lãnh đạo Bắc Kinh, Đài Loan đưa vào chiến lược quốc phòng quanniệm “dự phòng chiến tranh” nhằm nghiên cứu các khả năng có thể xảy ra chiến tranh.Sách trắng quốc phòng Đài Loan dự phòng 3 trường hợp có thể xảy ra chiến tranh liênquan đến Đài Loan : 1/ Cộng sản từ lục địa xâm lăng Đài Loan. 2/ Việc ly khai,đòi độc lập của các tỉnh trong lục địa (kể cả trường hợp Đài Loan tuyên bố độclập). 3/ Tranh chấp vùng biển Đông. Cả ba trường hợp này sẽ kéo nhiều nướctrong vùng Đông và Đông Nam châu Á vào cuộc chiến.
Ngân sách quốc phòng củaĐài Loan năm 2002 là 261,9 tỉ Yuan (Nguyên hay đô la Đài Loan), theo thời giálúc đó tương đương 8 tỉ đô la. Mặc dầu tình hình giữa hai bờ eo biển Formosengày một căng thẳng nhưng ngân sách quốc phòng của Đài Loan lại giảm theo thời gian.Từ đầu thập niên 90 quốc hội dân chủ Đài Loan có nhiều thẩm quyền hơn, các vấn đề« an sinh xã hội » được đặt ưu tiên, vả lại kinh tế không được khởi sắccho nên ngân sách quốc phòng bị cắt bớt. Ngân sách này, theo tỉ lệ % PIB, ngàymột giảm. Năm 1985 ngân sách này chiếm 7,7% PIB (53% ngân sách quốc gia), năm1990 chỉ còn 5,8% PIB (35% ngân sách quốc gia) tương đương 228,8 tỉ nguyên. Năm2002 chỉ còn có 2,6% PIB (17% ngân sách quốc gia) tương đương 261,9 tỉ nguyên(8 tỉ $US). Ngân sách quốc phòng năm 2010 là khoảng 2,6% PIB. Nhưng chi phí chonhân sự của bộ Quốc Phòng rất lớn, năm 2000 chiếm đến 43%, năm 2003 chiếm 47%ngân sách quốc phòng (do nguyên nhân tiền lương và hưu bỗng). Con số này nhữngnăm sau này càng lớn hơn trước. Việc này ảnh hưởng rất lớn đến chương trình hiệnđại hóa quân đội cũng như việc củng cố hải quân và không quân bảo vệ đảo quốc. Hiệnnay Tổng Thống Mã Anh Cửu có chủ trương « chuyên nghiệp hóa » quân đội,dự định giảm thiểu quân lực để giảm bớt chi phí về nhân sự, nhưng việc này chưathấy thành công.
Như thế khuynh hướng tài giảm quốc phòng là xu hướngtừ đầu thập niên 90 cho đến năm 2000. Từ năm 2000 đến năm 2010 chi phí khôngthay đổi, vào khoảng 2,6% PIB.
Về chi phí quân sự cho đảo Ba Bình có thể chia làmhai thời kỳ : thời kỳ 2000 đến 2008 và từ 2008 đến nay. Thời kỳ 2000 đến2008, Tổng Thống Trần Thủy Biển thuộc đảng đảng Dân Tiến, vì có chủ trương« Đài Loan độc lập » do đó có những động thái cụ thể nhằm củng cố quốcphòng tại các đảo Trung Sa và Thái Bình (Ba Bình). Việc cho xây dựng phi đạodài 1.150m tại Ba Bình là một đầu tư quan trọng về chiến lược. Song song với việcnày, một kế hoạch của đảng Dân Tiến, cho đến năm 2017, sẽ nâng con số tàu chiếntuần duyên (bảo vệ Ba Bình lên) 173 chiếc, trong đó có hai tuần dương hạm 3.000tấn, với ngân sách là 28 tỉ NT, nhưng kế hoạch này đã bị chính phủ Mã Anh Cửu thuộcQuốc Dân Đảng bãi bỏ.
Trong khi đó, Quốc Dân đảng, do có khuynh hướng thốngnhất với lục địa, cho nên lơ là chuyện phòng thủ. Những động thái gần đây củaĐài Loan tại đảo Ba Bình phần nhiều mang âm hưởng chính trị, nhắm vào cuộc bầucử sắp tới, hơn là toan tính chiến lược. Năm 2009 có đến 500 vụ « chạmtrán » giữa tàu của Trung Quốc với tàu của Đài Loan tại vùng biển thuộc đảoThái Bình (trong vòng 6 hải lý). Ngày 2 tháng 7 năm 2009, một tàu khảo sát cùngvới 3 tàu hộ vệ của Trung Quốc đã ép một tàu cá của Đài Loan phải rời khỏi khuvực biển thuộc đảo Ba Bình. Đài Loan đã không phản đối gì về việc này. Theo mộtđại biểu thuộc đảng Dân Tiến cho biết, lý do im lặng của lực lượng bảo vệ bờ biểntrên đảo Ba Bình, là vì họ không muốn làm ảnh hưởng đến quan hệ tốt đẹp giữaTrung Quốc và chính phủ Mã Anh Cửu. Môt khám phá khác, quân đội phòng thủ trênđảo Trung Sa không còn viên đạn đại bác nào trong vòng một thời gian dài vàonăm 2010. Việc này cũng do một dân biểu đảng Dân Tiến tố giác. Từ khi nắm quyềnđến nay TT Mã Anh Cửu chưa thấy có động tác cụ thể nào cos lợi lâu dài về chiếnlược tại đảo Ba Bình.
Do đó, các động thái vừa rồi của Đài Loan liên quanđến các đảo Trung Sa, Ba Bình, phần nhiều do động lực chính trị của nhân sự cácđảng cầm quyền nhằm khai thác khối cử tri có khuynh hướng độc lập, hơn là tuântheo một chiến lược quốc phòng hữu hiệu.
Về giả thuyết các yếu tố có thể lôi kéo Đài Loan vàochiến tranh đã ghi ở trên, giả thuyết thứ ba sẽ có thể xảy ra nếu trữ lượng dầukhí vùng Biển Đông được xác định là to lớn. Hiện nay giả thuyết thứ 3 có nhiềusác xuất sẽ xảy ra hơn cả.
Việc tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa ngàycàng gay gắt do khuynh hướng bá quyền cũng như sự lớn mạnh về kinh tế và quân sựcủa Trung Quốc. Để tranh dành tài nguyên, Bắc Kinh có thể gây chiến tranh bất cứlúc nào với các nước có tranh chấp trong vùng, nhất là Việt Nam và Phi LuậtTân. Việc phát động chiến tranh sẽ lôi kéo nhiều nước trong vùng vào cuộc chiến,mà phần nhiều xác suất sẽ có mặt của Hoa Kỳ, do đó Trung Quốc không muốn đụng độvì nguy cơ thất bại. Bài toán của Trung Quốc do đó là làm thế nào để khai thácnăng lượng ở các vùng biển thuộc Trường Sa mà không khơi mào chiến tranh ? Vừaqua, đầu tháng 3 năm 2011, Trung Quốc cho tàu chiến uy hiếp tàu thăm dò của PhiLuật Tân đang hoạt động trong vùng biển thuộc bãi Cỏ Rong, cách bờ Palawan khoảng200km. Trung Quốc cũng đã làm nhiều lần tương tự như thế với Việt Nam từ năm1995 ở vùng Tứ Chính – Vũng Mây, hay làm áp lực với các công ty khái thácExxon-Mobil và BP phải hủy bỏ hợp đồng khai thác với VN, năm 2008, mặc dầu cáclô ở đây thuộc bồng trũng nam Côn Sơn, chỉ cách bờ biển VN có khoảng 250km. Phảichăng TQ đã tự tin vào sức mạnh quân sự của họ, nhất là tháng 11 tới, chiếc hàngkhông mẫu hạm (Thi Lang) sẽ đưa vào hoạt động ở vùng biển Đông ? (Điều cầnnhắc nhở Thi Lang là tên của một vị đô đốc hải quân tài ba đã giúp nhà Thanhtiêu diệt được tàn quân của Trịnh Thành Công tại Đài Loan và thâu hồi đảo nàyvào đế quốc Trung Hoa. Việc đặt tên cho chiếc tàu như thế là có tính toán mà mụctiêu nhắm vào Đài Loan.)
Tuy nhiên người ta không loại trừ một khả năng khác,Trung Quốc sẽ « có phần » của họ tại vùng biển Trường Sa mà không gâychiến tranh lớn lao. Đó là trường hợp TQ chiếm đảo Ba Bình hiện nay do Đài Loanchiếm đóng. Việc này có thể thành công nếu có sự thỏa thuận ngầm giữa Trung Quốcvà Việt Nam, mà điều này có thể thành hiện thực nếu TQ nhượng bộ phần nào choVN ở vấn đề Hoàng Sa. Giả thuyết này sẽ có lợi cho Trung Quốc. Với quyền chủquyền tại Ba Bình, TQ có thể đòi hỏi một vùng biển ZEE khá quan trọng, vì đâylà đảo lớn nhất Trường Sa. Trong khi Đài Loan với tư cách là một đảo quốc khôngđược nước nào công nhận, các đòi hỏi của Đài Loan về vùng biển chung quanh thìkhông thuyết phục, mặc dầu họ chiếm hữu thực sự đảo Ba Bình. Vì Đài Loan chỉ đượcxem như là một phần của lục địa. Những vùng lãnh thổ của Đài Loan sẽ dễ dàng đượccác nước khác chấp nhận thuộc Trung Quốc.
Sự lo ngại của Đài Loan do đó là có căn cứ, nếutuyên bố của TT Nguyễn Tấn Dũng về một « thỏa thuận » đã được ký kết giữaVN và TQ, theo như nguồn tin của chính phủ Đài Loan công bố, là có thật. ĐàiLoan hiện nay kiểm soát các đảo Kim Môn, Mã Tổ, các đảo Bành Hồ, Wuchiu, TrungSa (Pratas) và Thái Bình (tức đảo Ba Bình). Các đảo Kim Môn đối diện Hạ Môn,cách bờ lục địa chỉ vài hải lý. Các đảo Mã Tổ đối diện hải cảng Phúc Châu, chỉcách bờ biển lục địa cũng chỉ có vài hải lý. Trong quá khứ, quân Tưởng Giới Thạchđã từng đụng độ nẩy lửa với giải phóng quân của Mao Trạch Đông tại các đảo KimMôn và Mã Tổ, lần thứ nhất vào tháng 10 năm 1949, lần hai vào tháng 8 năm 1954đến tháng 4 năm 1955 và lần ba vào tháng 8 năm 1958. Mỗi lần như thế hai bêndàn vài chục ngàn quân để chiến đấu. Cả ba lần quân họ Tưởng, dưới sự ủng hộ củaHoa Kỳ, đã đẩy lui được quân Trung Hoa lục địa. Quan hệ hiện nay giữa Đài Loanvà Hoa Kỳ được nối kết qua hiệp ước « Taiwan Relation Act », theo đóHoa Kỳ có thể bảo vệ và cung cấp vũ khí cho Đài Loan nếu đảo bị tấn công. Nhưngnội dung kết ước không có bảo đảm an ninh cho các đảo ở xa. Nếu Trung Quốc tấncông Ba Bình với lý do « thống nhất đất nước », có thể Hoa Kỳ sẽ đứngngoài.
3/Yếu tố chính trị : Trong lúc nhà nước Đài Loan (thuộc phe Quốc Dân đảng) ratuyên bố và có một số động thái liên quan đến biển Đông, thì tại đảo quốc đangkhai mào cho cuộc tranh cử tổng thống và quốc hội vào tháng 2 năm tới. Kỳ này bầucử quốc hội và tổng thống sẽ được tổ chức cùng ngày. Hiện nay các ứng cử viên tổngthống của hai đảng Dân Tiến và Quốc Dân Đảng đang trong thời điểm vận động nộibộ để được đảng đề cử. Đảng Dân Tiến có 3 ứng cử viên trong khi phe Quốc Dân Đảngcó đến 40 ứng cử viên. Các ứng cử viên thuộc đảng Dân Tiến vừa qua có tranh luậntrước công chúng (qua màn truyền hình) về các chương trình của họ (sẽ áp dụng nếuđắc cử). Các cuộc thăm dò sau khi cuộc tranh luận cho thấy hai ứng cử viên cókhuynh hướng « độc lập », người thứ nhứt chủ trương « Đài Loanlà một con rồng trong biển xanh thay vì là một con cua bám vào sườn của TrungQuốc », người thứ hai chủ trương Đài Loan không nên phụ thuộc về kinh tế đốivới Trung Quốc, được nhiều sự ủng hộ của quần chúng. Tỉ số dân chúng ủng hộ chohai ứng cử viên này lên trên 90%. Trong khi ứng cử viên còn lại có khuynh hướngcộng tác về kinh tế với TQ thì tỉ số ủng hộ của quần chúng rất thấp. Nhưng quacác cuộc thăm dò này phe Quốc Dân đảng đã nắm được khuynh hướng chung của dânchúng hiện nay, đó là bớt phụ thuộc về kinh tế đối với Trung Quốc. Nhưng hậu quảcủa hiệp ước về kinh tế do chính phủ Mã Anh Cửu đã ký kết với Bắc Kinh hồi nămngoái cho thấy sự lệ thuộc của Đài Loan vào Trung Quốc đã vượt mức báo động.Trong chừng mực, các động thái của Đài Loan đều bị Trung Quốc chi phối, kể cả vấnđề sinh tử là an ninh, quốc phòng.
Nhưthế, phản ứng của nhà nước Đài Loan về HS và TS vừa qua đã ảnh hưởng nặng nề âmhưởng chính trị, hơn là một quyết định chiến lược. Do đó, tính trung thực của bảntin cho rằng TT Nguyễn Tấn Dũng ký kết với TQ một thỏa thuận cơ bản về việc giảiquyết tranh chấp biển Đông có thể thiếu trung thực. Vấn đề là hiện nay ai có khảnăng, hay thẩm quyền, xác định là có hay không, thỏa thuận này ?
Cũng nên nhắc lại, Đài Loan từ năm 2000 đến 2010, tổngthống là ông Trần Thủy Biển, thuộc phe Dân Tiến. Đảng Dân Tiến thắng Quốc Dân Đảngliên tục hai nhiệm kỳ. Trong hai nhiệm kỳ này, về mọi mặt không có gì phải chêtrách người lãnh đạo.
Trong khu vực, thời điểm thập niên 2000, ngoại trừTrung Quốc, tăng trưởng kinh tế của Đài Loan tương đương với Hàn Quốc, từ 4 đến6 % cho những năm qua, trong khi Nhật Bản chỉ tăng trưởng từ 1% đến 2%/ năm.
Tăng trưởng GDP năm 2007 của Đài Loan là 5,7%. Chỉ sốthất nghiệp là 3,94% (tháng 3 năm 2008). Chỉ số thất nghiệp năm 2000, vào năm đảngDPP lên nắm quyền là dưới 3%. Trong 8 năm do đảng DPP cầm quyền, thất nghiệp chỉtăng 1% là con số xem ra rất nhỏ so với các nước tiên tiến trên thế giới cùngthời gian này trước hấp lực mạnh của Trung Quốc về công nhân giá rẻ. Đài Loanít bị ảnh hưởng về việc này so với các nước Âu-Mỹ, mặc dầu các xí nghiệp cầnnhiều công thợ tại đây lần lượt đóng của để đầu tư sang Trung Quốc. Mức độ lạmphát của Đài Loan cũng tương đối thấp, tương tự Đại Hàn, đầu năm 2008 khoảng3%, trong khi Trung Quốc chỉ số này lên đến hơn 8%.
Một nhà cầm quyền tài giỏi khác cũng khó có thể làmkhá hơn ê kíp Trần Thủy Biển. Lý do chính đem lại thất cử của ứng cử viên Tạ ĐìnhTrường thuộc đảng Dân Tiến là sự nhàm chán của người dân đối với đảng cầm quyền.
Phe Quốc Dân đảng, lúc đưa Mã Anh Cửu ra tranh cử,khẩu hiệu của phe này là chấn hưng kinh tế ; việc này phục vụ cho bađối tượng : 1/ người dân, 2/ phát triển cơ sở hạ tầng và phát triển côngnghiệp 3/ đưa Đài Loan ra thế giới.
Nhưng sau khi thắng cử, chính sách « chấn hưngkinh tế » của họ Mã cho thấy có nhiều điều không thể thực hiện được. Đâylà một khẩu hiệu thuần túy kinh tế. Mức độ phát triển kinh tế hàng năm của ĐàiLoan dưới thời Trần Thủy Biển vào khoảng 5%, là con số tương đối cao cho vùngĐông Á. Phát triển kinh tế của Đài Loan vào năm 2009, hai năm dưới sự lãnh đạo củaMã Anh Cửu, chỉ đạt vào khoảng 2,5%, ở dưới mức rất xa con số « qui chiếu »5% của ê-kíp Trần Thủy Biển. Năm 2006 kim ngạch mậu dịch hai bên bờ eo biểnFormosa đạt được 107,8 tỉ đô la, lục địa nhập siêu 66,4 tỉ. Năm 2007 khuynh hướngnày giảm, 8 tháng đầu năm số nhập siêu của lục địa là 33,5 tỉ.
Trong khi đó, việc « đưa Đài Loan ra thế giới »cũng không có kết quả thuyết phục, ngoại trừ việc Đài Loan được đặt đại diện tạiOMS (Tổ chức Y tế thế giới, thuộc LHQ), nhờ việc TQ không chống đối. Ông TrầnThủy Biển đã thất bại trong việc vận động cho Đài Loan gia nhập các địnhchế quốc tế, mặc dầu Đài Loan – như những quốc gia khác - có những vấn đề cũng như khả năng đóng gópcho các tổ chức, như OMS. Mã Anh Cửu đã thành công (ở điểm Trần Thủy Biển thấtbại) vì Quốc Dân Đảng và đảng Cộng Sản Trung Quốc có cùng một quan điểm« một nước Trung Hoa ». Trong khi phe Dân Tiến có chủ trương động lập.Do đó, phe lục địa vì vậy có khuynh hướng ủng hộ các ứng cử viên thuộc Quốc DânĐảng.
Lo ngại sẽ thất cử ở các cuộc bầu cử về quốc hội vàtổng thống kỳ tới, do việc không thực hiện được các cam kết với người dân, dođó chính phủ Mã Anh Cửu quyết định ký hiệp ước thuơng mãi với lục địa. Kết quảviệc này làm cho kinh tế Đài loan tăng trưởng 10% trong năm 2010. Nhưng việctăng trưởng này Đài Loan sẽ phải trả giá rất đắt, vì tình trạng lệ thuộc vào lụcđịa đã vượt qa mọi mức báo động.
Các cuộc thăm dò sau buổi tranh luận về chương trìnhhành động của các ứng cử viên Dân Tiến cho thấy khuynh hướng của người dân tạiđảo. Vì thế, có lẽ động thái khá ồn ào vừa qua của chính phủ Mã Anh Cửu về việcHS và TS, chỉ là một « thủ thuật chính trị » nhằm vào việc lấy phiếu.
Một chi tiết quan trọng khác trong cuộc thăm dò saubuổi tranh luận giữa các ứng cử viên Dân Tiến. Việc này cho thấy khuynh hướng « độclập » của dân Đài Loan không giảm, mặc dầu nhiều năm qua Đài Loan và lục địađã có những thông thuơng ngoài kinh tế khá chặt chẽ. Tình trạng đàn áp dã man nhữngtiếng nói đối lập hay tình trạng xã hội bất ổn của lục địa đã khiến dân ĐàiLoan muốn đi « con đường riêng » của mình. Nhưng thực hiện việc này sẽrất nhiêu khê, khiến dân Đài Loan trả giá đắt về phát triển kinh tế, chưa nóiviệc phải đương đầu với lục địa về quân sự (do luật chống ly khai của TQ).
Cuộc bầu cử tổng thống Đài Loan năm 2008 có kèm theocuộc « trưng cầu dân ý ». Trưng cầu dân ý có hai đề nghị chính(national proposal số 5 và số 6) được hai đảng QDD và DPP đưa ra, đólà : đề nghị 5/ mong muốn vào LiênHiệp Quốc dưới tên mới là Đài Loan và đềnghị 6/ mong muốn trở lại Liên Hiệp Quốc dưới tên cũ là Cộng Hòa Dân Quốc(République de Chine) với tên gọi là Đài Loan. Kết quả đề nghị 5 được 5,53 triệuphiếu và đề nghị 6 được 4,96 triệu phiếu. Cả hai kết quả này đều đã không đạtđược mức ấn định 50% số phiếu (8,66 triệu phiếu) nên bị loại. Nhưng để ý, cảhai đề nghị này thực ra có chung một nội dung : xin vào Liên Hiệp Quốc. Sựkhác biệt của hai phe QDD và DPP là cái nhìn chiến lược. Như thế kết quả của cuộctrưng cầu dân ý cho thấy có khoảng 80% dân Đài Loan chủ trương đảo quốc này gianhập Liên Hiệp Quốc.
Khuynh hướng này đến nay tăng lên 90%, nếu đồng nhấtý muốn « Đài Loan gia nhập LHQ » năm 2008 với ý muốn « Đài Loanlà con rồng thay trong biển xanh vì là con cua bám sườn Trung Quốc » hay « Đài Loan bớt lệ thuộc kinh tế với lục địa ».
Do đó, để không bị thất cử, ở quốc hội và giữ đượcghế tổng thống, phe Quốc Dân Đảng cần có những điều chỉnh « chiến lược »về các vấn đề liên quan đến lục địa. Vấn đề này hiện nay là gì nếu không phảilà vấn đề tranh chấp biển Đông ? Nhưng sự lơ là của phe Quốc Dân Đảng từnhiều năm qua, một mặt về ngoại giao do không thuyết phục được các nước tranhchấp khác để Đài Loan được xem như là một đối tác bình đẳng, mặt khác về an ninhquốc phòng do việc quá thân cận với Bắc Kinh, vấn đề phòng thủ không còn là ưutiên ở các đảo Ba Bình hay Trung Sa. Các việc này không chỉ khiến Quốc Dân đảngtrả giá đắt trong kỳ bầu cử tới, mà có thể làm cho Đài Loan mất quyền kiểm soáttại các đảo này.
4/ Kết luận : Cho dầu là động thái của chính phủMã Anh Cửu bất kỳ là gì, do ảnh hưởng chính trị hay do toan tính chiến lược dàihạn, vấn đề Đài Loan đối với Việt Nam không phải là một việc hệ trọng, như là « vấnđề » Trung Quốc. Hiện nay một cách rõ rệt, VN đang đu dây giữa Hoa Kỳ vàTrung Quốc với món hàng trao đổi là việc « hợp tác quân sự ». VN hy vọngTQ nhượng bộ trên vấn đề tranh chấp HS và TS. Việc VN « nghiêng » vềphía TQ như hiện nay cũng có thể là do hệ quả của các cuộc cách mạng dân chủ ởcác xứ Bắc Phi và Ả Rập. VN ra tay đàn áp, bắt bớ những người bất đồng chính kiếnvới một mức độ hung bạo và ngang ngược, khiến Hoa Kỳ và Châu Âu lên tiếng chỉtrích. VN có thể sẽ hợp tác sâu đậm hơn với TQ về vấn đề an ninh và quốc phòng,nhằm mục đích tìm sự ủng hộ cho chế độ. Điều này cũng răn đe Hoa Kỳ không đượcchỉ trích thái quá, khiến VN ngả vào tay TQ, là điều mà HK không muốn thấy.
Nhưng những toan tính này chỉ có tính cách giai đoạn,gà quà ăn quẩn, chỉ nhằm cứu đảng CSVN trong cơn khủng hoảng mới, chứ không làmột giải pháp dài hạn, chiến lược, có lợi ích cho dân tộc và đất nước VN. Nhưnghậu quả sẽ rất khủng khiếp, nếu VN ngả về phía TQ. Một sự sụp đổ hay khủng hoảngchính trị ở TQ sẽ đưa đến sụp đổ toàn diện ở VN, việc này có thể đưa VN về thờikỳ bán khai, man rợ. Trong khi đi với HK, với những tính toán dài hạn, về kinhtế cũng như an ninh quốc phòng, VN có thể bảo vệ chủ quyền của mình ở các đảoHS và TS vừa phát triển đất nước. Nhưng việc « đi » với HK đòi hỏi VNphải dân chủ hóa chế độ. Việc này có thể giới hạn bớt quyền lực của đảng CSVN.Nhưng nó không đem lại các hệ quả sụp đổ toàn chế độ như việc ngả về TQ.
Trương Nhân Tuấn
-------------------------------------




.
.
.

No comments:

Post a Comment