Giới
thiệu hồi ký “Tuổi thơ và Chiến tranh” của Hoàng Phong Linh Võ Đại Tôn
Trần Trung Đạo
24/05/2025
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/05/2-29-1536x1016.jpg
Ông
Võ Đại Tôn (trái) và tác giả. Nguồn: Trần Trung Đạo
Giới
thiệu: Một
ngày trong năm 2009, tôi nhận một email của anh Võ Đại Tôn. Tôi không còn nhớ từng
lời nhưng đại ý anh viết “Anh vừa viết xong tác phẩm Tuổi Thơ và Chiến
Tranh. Năm nay anh đã 73 tuổi. Tác phẩm này có thể là tác phẩn cuối cùng và anh
muốn em viết lời tựa cho tác phẩm”. Dĩ nhiên anh nói thì em nghe. Từ lâu,
anh cho phép tôi gọi bằng anh dù anh lớn hơn 20 tuổi.
Khi
viết tới phần kết luận, trong lòng chợt cảm thấy buồn, nghĩ tới ngày anh sẽ ra
đi nên tôi chấm dứt bài viết bằng đoạn văn như thế này: “Hôm nay, anh như
áng mây trắng đang bay trên trời cao, mỗi ngày một cách xa thêm mặt đất nhưng
anh xin hẹn cùng sông núi, sẽ không bao giờ là những cơn dông, cơn bão mà sẽ là
cơn mưa mát dịu, rót xuống trần gian những giọt sữa nuôi người và nuôi đời. Các
thế hệ Việt Nam, những cây trái tương lai của dân tộc, sẽ nhờ đó mà lớn cao hơn
và tươi tốt hơn. Và cũng từ tấm lòng tha thiết với quê hương của anh Võ Đại Tôn
mà Bà Tiên hiền dịu cuối cùng sẽ đến, không cho anh, không cho tôi, mà cho các
thế hệ Việt Nam sắp sinh ra trên đất nước vô vàn thương yêu và bi tráng Việt
Nam”.
Thật
vậy, giờ này, 23 tháng 5, 2025, “anh như áng mây trắng đang bay trên trời cao,
mỗi ngày một cách xa thêm mặt đất”. Đăng lại một phần lời tựa của tác phẩm Tuổi
Thơ và Chiến Tranh để tưởng nhớ người anh kính quý Võ Đại Tôn.
***
Hôm
nay là ngày Mùng Một Tết. Bên Úc, Tết đến giữa mùa hè nhưng nơi tôi ở, Đông Bắc
nước Mỹ, Tết đang đến trong mùa đông. Năm nay mùa đông thật khắc nghiệt. Tuyết
và tuyết. Bão và bão. Tôi sống ở đây đã 28 năm nhưng khi nghe tiếng rít dài của
gió hay nửa đêm thức dậy nhìn những chùm hoa tuyết trắng đánh mạnh vào bên kia
cửa kiếng, cảm giác bất an, lo sợ, cô đơn, trống vắng của những ngày mới đến
như vẫn còn quanh đây. Dù sao, Sydney hay Boston, một năm nữa cũng cộng vào
hành trình biệt xứ. Đoàn lưu dân đã ra đi và có thể còn tiếp tục ra đi một thời
gian ngắn nữa.
Mùng
Một Tết là ngày đánh dấu một năm mới bắt đầu nhưng cũng là ngày nhìn lại một chặng
đường. Và như đã hứa với nhà thơ Hoàng Phong Linh tức nhà tranh đấu cho tự do
Việt Nam Võ Đại Tôn và cũng là người tôi được phép gọi bằng anh trong bài viết
nầy, mùng Một Tết năm nay tôi sẽ cùng anh về thăm lại làng Kim Bồng, quê nội của
anh và cũng là nơi người mẹ nuôi của tôi đã ra đời.
Tôi
sẽ cùng bước với anh trên những con đường Hải Châu, Đà Nẵng, thành phố thân
yêu, nơi còn in dấu chân của anh em tôi trong mùa bão lửa ngút ngàn của quê
hương. Tôi sẽ về để cùng tắm với anh bằng nước Thu Bồn, dòng sông thi ca đã chảy
vào tâm hồn anh em chúng tôi những dòng thơ quê hương mật ngọt. Và tôi sẽ viết
với anh về tuổi thơ đầy bi tráng mà chúng tôi đã trải qua trong những giai đoạn
khác nhau của cuộc đời mình.
Bài
thơ đầu tiên tôi đọc trọn vẹn của nhà thơ Hoàng Phong Linh là bài thơ viết về Mẹ
và dòng sông Thu Bồn trong mùa lũ lụt đăng trên Giai Phẩm Xuân Quảng Đà số 1 do
nhà thơ Thái Tú Hạp ở California, Hoa Kỳ, chủ trương, bài thơ Nước Trôi Mồ Mẹ:
Con
quỳ bên ni dòng sông
Bên
tê mồ Mẹ!
Trời
ơi, nước ngập tràn đồng
Từng
khúc xương trôi đau lòng con trẻ.
Con
mang trong người thịt xương của Mẹ
Chừ
trông nước lụt dâng về
Con
còn bên ni, Mẹ mất bên tê,
Sóng
bao la vỗ, bốn bề Mẹ mô?
Ngày
xưa Mẹ chết, con khóc mắt khô,
Chừ
xương Mẹ trôi, hồn con nước lụt.
Nước
dâng ngùn ngụt
Cuốn
mái tranh nghèo.
Sóng
cuộn mang theo
Ngày
vàng bên Mẹ.
Con
nhớ ngày xưa tiếng con thỏ thẻ
Đòi
đi theo Mẹ nhóm buổi chợ làng.
Mẹ
dắt tay con qua xóm, hoa vàng
Nở
tươi bờ dậu.
Con
kêu: – “Mẹ ơi, tưởng đàn bướm đậu”
Mẹ
cười, bóp chặt tay con.
Con
nhớ những lối đường mòn
Trâu
bò qua lại.
Buổi
chiều đơn sơ, lũy tre nằm ôm nắng quái,
Con
đùa với bóng cau nghiêng.
Mẹ
la: – “Coi chừng tối ngủ không yên,
Giật
mình con khóc, bà Tiên bả buồn…”
Con
nhớ những mùa mưa tuôn
Gió
đông kéo về lạnh buốt.
Trong
lòng Mẹ, con nằm co rút,
Mẹ
chuyền hơi ấm tình thương
Con
mê giấc ngủ đêm trường, Mẹ vui.
Con
nhớ dòng sông êm xuôi
Trôi
về Phố Hội.
Giặt
áo bên con Mẹ ngồi mỗi tối,
Con
nhìn cá đớp trăng sao.
Mỗi
lần sao chuyển ngôi cao
Con
đưa ngực nhỏ, sao vào hồn thơ.
Nhìn
con, mắt Mẹ đầy mơ
Con
đòi Mẹ cõng, hờ ơ… Mẹ hò.
Chừ
con về: nước lũ, sóng to
Xoáy
cửa, phăng nhà,
Xốc
trôi mồ Mẹ!
Xương
theo dòng sông ngày xưa ra bể
Vì
chưng lòng Mẹ: đại dương!
Mẹ
sống lầm than cho con tình thương
Chừ
Mẹ chết đi, mồ trôi nước lụt.
Con
quỳ bên ni, linh hồn tê buốt
Mần
răng mà về bên tê chừ, Mẹ ôi!
Quê
hương nước ngập tận trời
Hồn
con khóc suốt một đời không nguôi!…
(Nước
Trôi Mồ Mẹ, Hoàng Phong Linh)
Mười
bảy năm sau, trong một buổi chiều đầu năm, tôi được lần nữa đọc bài thơ này
trong bản thảo hồi ký Tuổi Thơ và Chiến Tranh của anh, niềm xúc động vẫn còn
nguyên như khi đọc lần đầu.
Quê
hương nước ngập tận trời
Hồn
con khóc suốt một đời không nguôi!…
Nhiều
nhà văn, nhà thơ có khiếu văn chương, chỉ cần nhìn một bông hoa đẹp, đi thuyền
qua một dòng sông, họ có thể để lại cho đời những bài văn, bài thơ tuyệt tác.
Anh em chúng tôi không có được năng khiếu đó. Phía sau những dòng chữ, những
câu thơ của Nước Trôi Mồ Mẹ là những đời sống thật, những nỗi đau có thật, là
những mảnh xương còn sót lại trên cồn cát, là những mảnh thịt tan nát trong hố
sâu và là những giọt nước mắt tiếc thương chảy suốt một đời người.
Hình
ảnh dòng sông, cơn lụt và ngôi mộ nhỏ từ bài thơ anh viết, in sâu vào ý thức của
tôi từ 17 năm trước chợt hiện ra chiều nay trên xứ người xa lạ. Hình ảnh bi
thương đó không phải chỉ của riêng anh mà còn của tôi và của tất cả những đồng
bào cùng số phận. Anh em chúng tôi, tuổi tác cách nhau hơn 20 năm mà cùng chịu
chung một nỗi đau vì nỗi đau không có tuổi.
Mười
bảy năm sau đọc lại bài thơ Nước Trôi Mồ Mẹ, tôi không còn nước mắt để khóc cho
anh và cho tôi như ngày thơ ấu ở Hội An, Đà Nẵng.
Chúng
tôi những người con đi xa, gánh trên vai đôi gánh nặng. Đất nước, quê hương,
tình thương và nỗi nhớ. Nhiều khi tôi thèm làm một con chim nhỏ, bay về đậu
trên tấm bia và đọc cho mẹ nghe những bài thơ được đan kết từ mấy mươi năm trầm
luân thống khổ. Nhưng không, đôi cánh chúng tôi quá nhỏ và quảng trời thì quá
xa, ước mơ cũng chỉ là mơ ước. Chúng tôi chọn lựa một cách sống mà chúng tôi
nghĩ là đúng nhất cho đời mình và đất nước nhưng chọn lựa nào mà chẳng có hy
sinh. Chúng tôi đã phải hy sinh những riêng tư thân thiết nhất.
Một
tuổi thơ như thế có thể tạm gọi là tuổi thơ bất hạnh. Nhưng tuổi thơ tôi không
phải là bất hạnh nhất hay ít bất hạnh hơn anh Võ Đại Tôn.
Tại
sao?
Ngày
mẹ tôi mất tôi còn quá nhỏ để ý thức một cách trọn vẹn ý nghĩa của đau thương.
Giọt nước mắt tôi nhỏ xuống trên ngôi mộ vàng mới đắp bên bờ sông Thu hay tiếng
tôi thét lên trong đau đớn khi ngọn roi cuộc đời lần đầu quất xuống ngang lưng
dù sao cũng chỉ là phản xạ tự nhiên. Tôi còn quá nhỏ để hỏi tại sao và để hiểu
tại sao. Anh Võ Đại Tôn thì khác. Anh lớn đủ để biết cảm nhận nỗi đau thấm dần
vào ý thức. Anh bất hạnh hơn tôi vì mẹ anh, người đàn bà vốn đang trọng bịnh
trong người, đã phải chết trong hoàn cảnh vô cùng thảm thương, đau đớn.
Một
đoạn văn ghi lại giờ phút cuối cùng của mẹ anh: “Không có đem theo đèn đuốc gì
cả, chỉ có cầm theo hai cái cuốc. Hắn bắt mẹ tôi ngồi riêng một chỗ. Còn hai
chú thì được lệnh lấy cuốc tự đào một cái hố nhỏ. Xong rồi, khi chú Mười tôi
còn đang đứng bên miệng hố, chưa biết làm gì thêm, thì thình lình tên Thân chụp
một cái cuốc, phang ngang lưng chú một nhát mạnh làm chú ngã chúi xuống hố, nằm
sấp, đau quằn quại. Trước cảnh tượng bất ngờ như vậy, chú Tám Dương tôi chưa kịp
la lên thì hắn đứng phía sau dùng chân đạp chú té xuống hố. Chú tôi vừa cố lóp
ngóp bò lên vừa la xin tha mạng. Hắn đứng trên miệng hố cát, cầm cuốc phang xuống,
trúng ngay vào trán của chú tôi, làm chú té bật ngửa ra, nằm đè trên lưng chú
Mười. Hai người chưa chết. Rồi, hắn đến xốc mẹ tôi đứng dậy trong khi mẹ tôi
đang ôm mặt khóc lớn. Hắn lạnh lùng dẫn mẹ tôi đến cạnh miệng hố, xô xuống thật
mạnh, mẹ tôi rớt xuống, nằm sấp trên người chú Tám. Hắn đứng trên hố, cầm cuốc
cúi xuống phang mấy nhát thật mạnh vào lưng mẹ tôi, làm cả thân hình mẹ tôi quằn
cong lại. Cả ba người chưa chết, nhưng không còn sức bò dậy được nữa, nằm im
trong máu, chung một hố cát cạn. Tên Thân và đồng bọn dùng cuốc xúc cát lấp hố
lại rồi bỏ đi. Chôn sống!”
Mất
mẹ đã là một bất hạnh. Mất mẹ trong tuổi mới lên mười là một bất hạnh lớn hơn
nhưng mất mẹ trong cảnh vô cùng thương tâm như thế đã vượt qua mọi giới hạn để
so sánh, mọi tiêu chuẩn để đo lường. Nỗi đau anh chịu đựng hơn 60 chục năm qua
tưởng không thể nào tả được và nỗi buồn anh mang theo 60 năm qua tưởng sẽ không
thể viết nên lời.
Nhưng
tại sao anh phải kể lại tuổi thơ đau xót của mình?
Để
làm gì? Để nguôi bớt niềm đau chăng?
Không,
tôi không nghĩ thế. Một vết thương trên thân thể có thể quên đi nhưng một vết
thương tâm hồn sẽ không bao giờ quên được.
Anh
viết vì lòng thù hận chăng?
Không.
Tôi nghĩ anh viết không phải để đào sâu chiếc hố hận thù giữa người và người
nhưng anh viết chỉ vì sự thật. Như tôi có lần đã trình bày không một người Việt
Nam có lòng với đất nước nào muốn đào sâu chuyện thù hận, ân oán, trái lại, ai
cũng mong được sớm xóa đi những phân hóa, ngăn cách trong lòng dân tộc Việt
Nam. Nhưng thù hận không thể xóa bỏ bằng sự che đậy và chia rẽ không thể lấp
kín bằng lãng quên mà phải bằng thái độ dám nhìn thẳng vào sự thật và nói lên sự
thật.
Câu
ngạn ngữ quen thuộc “Yêu nhau không phải chỉ nhìn nhau nhưng cùng nhìn về một
hướng” thoạt nghe có vẻ cải lương nhưng lại thích hợp với những người Việt có
lòng trong hoàn cảnh này. Người Việt có lòng đều thương nhau, đều nhìn nhau
nhưng chưa thật sự cùng nhìn về một hướng. Do đó, để “giải oan cho cuộc biển
dâu này”, những người Việt quan tâm đến đất nước Việt Nam, trước hết, cũng nên
tập nhìn về một hướng, hướng của sự thật. Tuổi trẻ Việt Nam, những chủ nhân
tương lai của đất nước, phải có cơ hội đọc và hiểu một cách khách quan về bản
chất, nguyên nhân của cuộc chiến Việt Nam. Lịch sử để lại cho các em một chiếc
áo rách và một cuộn tơ rối để may chiếc áo mới, nhưng từ cuộn tơ rối vò kia cho
đến khi thành chiếc áo là một quá trình dài, đòi hỏi ở các em không chỉ lòng
yêu nước, sự kiên nhẫn mà còn phải có một tư duy độc lập, khách quan khi đánh
giá những vấn đề thuộc về quá khứ trên con đường đi đến tương lai.
Anh
Võ Đại Tôn cũng đã xác định quan điểm này trong hồi ký Tuổi Thơ và Chiến Tranh:
“Viết lại cho tuổi trẻ của tôi trong nỗi trầm luân của cả một Dân Tộc và viết
cho Tuổi Trẻ Việt Nam với niềm mong ước các thế hệ tương lai hiểu thấu, tránh
xa, ngăn chặn, cùng nhau vượt qua mọi chướng ngại để cứu nguy Tổ Quốc và hóa giải
mọi trở lực để quang phục quê hương. Xin mời Tuổi Trẻ Việt Nam đọc và mong hiểu
được một phần khổ nạn này, ngay từ những năm đầu của chiến tranh, để từ đó,
cùng nhau tìm lại Cội Nguồn Dân Tộc và dựng xây những con đường tương lai sáng
đẹp cho các thế hệ tiếp nối, trong cuộc sống và lẽ sống của Con Người đúng
nghĩa. Lời nguyện cuối đời của tác giả là cầu mong Tuổi Trẻ Việt Nam thành công
trong tự hào Dân Tộc, với Công Bằng, Nhân Bản và Tự Chủ”.
Vâng.
Tuổi trẻ Việt Nam, dù sinh ra và lớn lên ở hải ngoại hay sinh ra và lớn lên
trong nước, các em cũng là người Việt Nam. Ngày mai đây, khi thế hệ cha chú ra
đi, thế hệ các em sẽ lớn lên và trách nhiệm lịch sử lại được tiếp tục kế thừa.
Tổ tiên chúng ta đã để lại một gia tài vô cùng phong phú với tất cả phương tiện
cần thiết để đưa đất nước Việt Nam thành một cường quốc văn minh và hiện đại.
Dân
tộc Việt Nam là một dân tộc có tinh thần độc lập, tự chủ cao hơn bất cứ một quốc
gia nào ở vùng Đông Nam Á, có một nền văn minh, văn hóa lâu đời nhất ở Á Châu,
có đức tính hướng thượng khai phóng và dung hợp hết sức hài hòa, có một lãnh thổ
đầy ắp tài nguyên trải dài trên ba ngàn cây số biển. Cái duy nhất mà dân tộc Việt
Nam chưa có đó là một cơ hội được phát triển tự do và được sống dưới mái nhà
dân chủ. Và cơ hội sẽ không do ai ban cho, không do ai viện trợ, nhưng chính từ
bàn tay, khối óc, trái tim của con người Việt Nam, đặc biệt là các thế hệ trẻ,
chứ không ai khác. Các em phải là những người tìm lấy, những người tạo ra cơ hội
cho dân tộc mình.
Nhà
tranh đấu cho tự do Võ Đại Tôn đã nhấn mạnh điều đó trong lời ngỏ, hồi ký của
anh “được viết trong bối cảnh hoàng hôn của một đời người đã trải qua, chung sống,
suốt chiều dài của bao cuộc chiến xảy ra trên quê hương, tạm gác qua bên sự
phân tách nguyên nhân chính kiến, chỉ hồi tưởng lại cảnh trầm luân của một Tuổi
Thơ Việt Nam bị đắm chìm trong khói lửa đạn bom. Những người mang ý thức hệ ngoại
lai du nhập với chủ thuyết Cộng Sản, lợi dụng chính nghĩa Dân Tộc với lòng dân
vùng lên chống thực dân để cướp chính quyền và tiếp tục tạo nên nội chiến làm
cho cả một Dân Tộc phải triền miên lầm than bất hạnh, từ đó một trong hàng triệu
Tuổi Thơ Việt Nam – là tác giả – không có nỗi một chén cơm lành mỗi ngày và
không thấy được cảnh Bà Tiên hiện về trong giấc mơ thơ dại”.
Với
tuổi đã ngoài bảy mươi, lẽ ra anh nên dành khoảng thời gian mà anh tự nhận là
“hoàng hôn của một đời người” để đi đây đi đó thăm viếng người thân, tạm biệt bạn
bè, hay ngồi an nhàn bên tách trà, chén rượu, nhìn mặt trời lên cao ngoài biển
rộng, nhìn bóng tà dương khuất dần sau đỉnh núi cao, không, anh không thể an
nhàn như thế được. Còn một hơi thở anh còn đóng góp, còn cất lên được một tiếng
nói anh còn tìm cách để trao gởi những ước mơ chưa làm được hết của anh cho các
thế hệ mai sau. Anh cố gắng dành thời gian còn lại để viết. Dù bàn tay anh có
run hơn, đôi mắt có yếu hơn, anh vẫn cố gắng viết, bởi vì con người ai cũng phải
chết nhưng sự thật lịch sử phải được sống, sống cho hôm nay và cho mãi mãi về
sau.
Hôm
nay, anh như áng mây trắng đang bay trên trời cao, mỗi ngày một cách xa thêm mặt
đất nhưng anh xin hẹn cùng sông núi, sẽ không bao giờ là những cơn dông, cơn
bão mà sẽ là cơn mưa mát dịu, rót xuống trần gian những giọt sữa nuôi người và
nuôi đời. Các thế hệ Việt Nam, những cây trái tương lai của dân tộc, sẽ nhờ đó
mà lớn cao hơn và tươi tốt hơn. Và cũng từ tấm lòng tha thiết với quê hương của
anh Võ Đại Tôn mà Bà Tiên hiền dịu cuối cùng sẽ đến, không cho anh, không cho
tôi, mà cho các thế hệ Việt Nam sắp sinh ra trên đất nước vô vàn thương yêu và
bi tráng Việt Nam.
No comments:
Post a Comment