Sunday, May 12, 2024

MIỀN TÂY, VÙNG CHÂU THỔ BỊ TÀN PHÁ (Hồ Phương Trinh / Việt Nam Thời Báo)

 



Miền Tây, vùng châu thổ bị tàn phá (bài 1-3)

Hồ Phương Trinh   -   Việt Nam Thời Báo

22.04.2024 3:44

https://vietnamthoibao.org/vntb-mien-tay-vung-chau-tho-bi-tan-pha/  

 

(VNTB) – Muốn làm lúa vụ ba thì phải không có mùa nước nổi, muốn triệt mùa nước nổi thì phải biến nó thành “lũ”.

 

Miền Tây không có lũ hay hạn 

 

Miền Tây và Miền Đông là hai miền Tây, Đông của miền Nam Việt Nam. Miền Tây là vùng châu thổ, lưu vực của sông Tiền, sông Hậu. Miền Tây sông, kinh, rạch chằng chịt, trong sách vở cũng nói nhiều về điều này.

g, xẻo là những nhánh nhỏ của rạch. Rạch và xẻo là những nhánh tự nhiên của sông. Rạch và xẻo miền Tây nhiều vô số, có tên và không tên. Kinh là những con sông do người đào để nối liền sông, rạch hoặc để thuận đường giao thông thủy hoặc dẫn nước. Miền Tây có con kinh Chợ Gạo nối từ sông Tiền ở Mỹ Tho qua sông Vàm Cỏ (Long An) để rút ngắn đường thủy từ miền Tây lên Sài Gòn và miền Đông. Kinh Vĩnh Tế nối từ Châu Đốc đến Hà Tiên cũng là một con kinh nổi tiếng. Vùng tứ giác Long Xuyên có một hệ thống kinh dẫn nước từ sông vô đồng, do bọn “đế quốc sài lang” đào bằng “xáng cạp”. Hệ thống kinh này được gọi bằng số: Kinh Bảy, Kinh Mười Ba…và vẫn đang được sử dụng tốt.

 

Miền Tây có nhiều miệt: miệt đồng, miệt vườn, miệt thứ… v.v… nơi thì ruộng lúa cò bay thẳng cánh, chỗ thì vườn dừa ngút ngàn, chỗ khác thì toàn cam quýt bưởi, vùng khác nữa thì sầu riêng chôm chôm nức tiếng. Có vùng thì toàn ruộng trồng khóm chứ không trồng lúa…. Có vùng thì mỗi năm có ba tháng nước sông dâng lên ngập đồng, nhà vùng đó toàn nhà sàn. Có vùng thì mỗi năm ba tháng nước lợ, cây trái không chết nhưng nước sông lợ khó uống thì nhà ai cũng có một hàng lu chứa nước mưa đủ uống trong mùa nắng, nước lợ, nhà giàu thì xây bồn chứa nước mưa đủ uống quanh năm. Vì sao như vậy? vì người miền Tây thuận theo tự nhiên, nương theo mùa mưa, mùa nắng, mùa nước, phù sa của sông … mà sống, mà trồng trọt, chăn nuôi, khai thác tôm cá. Bao đời như vậy đã tạo nên một miền Tây trù phú, là vựa lúa, vựa trái cây, vựa tôm cá nuôi sống cả nước và xuất khẩu.

 

Miền Tây có bị hạn không? Theo bài Địa lý học hồi tiểu học thì nước ta ở vùng nhiệt đới gió mùa, mỗi năm có hai mùa mưa nắng: mùa mưa từ khoảng tháng tư dương lịch tới khoảng tháng mười một dương lịch, các tháng còn lại là mùa khô. Mùa mưa trùng với mùa gió mùa Tây Nam (gió nồm), mùa khô là mùa gió mùa Đông Bắc (gió bấc). Những vùng gần sông rạch thì nước sông rạch không bao giờ cạn. Mùa khô, miền Tây gọi là mùa kiệt thì nước ít hơn chút, mùa mưa thì nước nhiều một chút. Vùng không gần sông rạch thì có những đìa chứa nước để tưới hoa màu trong mùa kiệt. Mà hoa màu trồng mùa kiệt tốt hơn mùa mưa: dưa hấu, đậu xanh và đậu các loại, các loại rau, bầu bí v.v…

 

Thực tế ba bốn chục năm nay hai mùa mưa nắng ở miền Tây đều đúng như trong bài địa lý năm xưa. Chưa có năm nào mà tới tháng năm chưa mưa, hay chưa đến tháng mười một đã hết mưa. Vậy nên, miền Tây với một mùa mưa dài hơn 6 tháng và hệ thống sông rạch chằng chịt, thì chưa bao giờ có hạn hán. Trong các truyện cổ tích thì ba năm không mưa sông suối khô cạn thì mới gọi là hạn hán.

 

Còn nước sông Tiền sông Hậu thì sao? Mỗi năm vào tháng 6-7 âm lịch, nước trên Biển Hồ Campuchia tràn xuống, sông không chảy kịp nên nước tràn bờ, dâng lên ngày vài phân (vài centimet cm). Nước dâng lên từ từ như vậy tới tháng chín âm lịch là cao nhứt rồi từ tự rút xuống tới tháng mười âm lịch là rút cạn. Dân địa phương gọi là mùa nước nổi, chứ không phải mùa lũ. Nước dâng lên có “lịch trình” đem theo nhiều phù sa vào đồng ruộng, và tôm cá trong mùa nước nổi thì khắp đồng đâu cũng có thể đánh bắt cá được. Nước nổi làm chết đuối? Người lớn phải giữ con nít không té xuống nước, cũng giống như giữ con không cho chạy ra lộ. Không thể nói điện giựt chết người thì điện là có hại, nước nổi cũng vậy. Thực tế thì con nít vùng nước nổi biết lội (bơi) trước khi biết chữ. (Con tui cũng vậy!)

 

Mùa nước nổi nước chỉ ngập vùng gần Biển Hồ: An Giang, Đồng Tháp, Long An gần biên giới. Nước chưa kịp ngập tới hạ lưu sông thì đã đến lúc nước rút. Vậy nên trên sông Tiền, từ Sa Đéc xuống hạ lưu : Vĩnh Long, Mỹ Tho; trên sông Hậu từ Long Xuyên xuôi dòng tới Cần Thơ… không có mùa nước nổi.

 

Tóm lại miền châu thổ Cửu Long trù phú từ xưa không có hạn hay lũ, vậy sao bây giờ cứ phải chống hạn, chống lũ?

 

Ai làm ra lũ, hạn?

 

Miền Tây không có lũ mà chỉ có mùa nước nổi ba bốn tháng ở vùng đầu nguồn sông Cửu Long, gần biên giới trong địa phận các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Long An. Vùng tứ giác Long Xuyên là vùng sản xuất lúa chủ yếu của An Giang, mỗi năm làm hai vụ lúa, vì có mùa nước nổi nên không thể làm lúa vụ ba để tăng sản lượng lúa hơn nữa.

 

Năm 1989 là năm đầu tiên sau 75 Việt Nam không còn lo thiếu đói mà đã có dư gạo để xuất khẩu. Từ đó ở trên cứ muốn xuất khẩu gạo nhiều, nhiều nữa, nhiều mãi. Thế là phải nghĩ cách làm lúa vụ ba ở vùng tứ giác Long Xuyên. Muốn làm lúa vụ ba thì phải không có mùa nước nổi, muốn triệt mùa nước nổi thì phải biến nó thành “lũ”. Thế là đài báo thi nhau la lên: mùa lũ ở đồng bằng sông Cửu Long gây thiệt hại abc xyz. Tới nỗi mà bạn bè tôi ở Sài Gòn, những năm ấy cứ tới mùa nước là hỏi thăm tôi ở An Giang có bị lũ cuốn chưa. Họ tưởng tượng ra rằng tôi hai tay ôm hai đứa con ngồi quặp chân vắt vẻo trên xà nhà giữa bốn bề nước ngập, chờ người tới cứu. Thực tế thì ngôi nhà tôi ở là nhà sàn, từ hồi được ba má tôi cất lên (1979) tới giờ chưa từng bị ngập nước, kể cả mùa nước năm 2000 cao kỷ lục thì cũng cách sàn nhà tôi ba bốn tấc. Đa số nhà trung nông ở đây là vậy, chỉ nhà nghèo quá cất tạm bợ, thấp thì mới bị ngập, mà ngập thì cũng có thời gian kê dọn đồ đạc vì nước không dâng lên tức thì mà từ từ đủng đỉnh trong mấy tháng trời. Hiếm nhà ai cất thấp tè đến nỗi ngập tới nóc. Nếu có nhà nào ngập tới nóc mà ta thấy trên hình trên phim chắc là trại ruộng ở ngoài đồng chứ không phải nhà ở.

 

Vì là lũ nên phải đào kinh “thoát lũ ra biển Tây”. Ui chao! Từ thời vua Gia Long đã có hai con kinh nối từ sông Hậu ra biển Tây: kinh Thoại Hà nối từ Long Xuyên tới Rạch Giá, đào năm 1817 và kinh Vĩnh Tế nối từ Châu Đốc tới Hà Tiên đào năm 1919. Tới thời “thực dân” Pháp thì bọn “thực dân” đào thêm bốn con kinh nữa nối từ sông Hậu qua biển Tây: hai con kinh trong vùng tứ giác Long Xuyên là kinh Tri Tôn và kinh Ba Thê. Hai con kinh khác ngoài tứ giác Long Xuyên là kinh Cái Sắn từ Cái Sắn (xuôi khỏi Long Xuyên một đoạn) nối qua Rạch Sỏi (Kiên Giang), và kinh Xà No từ sông Hậu ở Cần Thơ nối qua sông Cái Lớn Kiên Giang và cũng đổ ra biển Tây.

 

Tới thời “đế quốc” Mỹ thì chính quyền VNCH đào nhiều kinh ngang dọc như bàn cờ trong vùng tứ giác Long Xuyên, thêm nhiều kinh nối ra biển Tây mà quen thuộc nhứt là kinh Tha La, kinh Trà Sư. Kinh trong vùng này nhiều tới nỗi một số có tên và số khác thì chỉ được đánh số kinh 1, kinh 2, kinh 16 v.v…Tới giữa thế kỷ 20 thì vùng tứ giác Long Xuyên đã được khai phá xong, đất tốt, mỗi năm đều có phù sa do nước sông mang vào, lắng xuống. Lúa tốt mà không cần phân bón. “Chị hai năm tấn quê ở Thái Bình” là đồ bỏ, vì chị hai làm cả năm mấy vụ lúa mới được 5 tấn, còn ở “vùng lũ” này người ta làm một vụ thôi là 6-7 tấn/ha rồi.

Vậy là “trên” chỉ đạo tỉnh An Giang đào kinh thoát lũ ra biển Tây. Kinh T5 được đào nối từ kinh Vĩnh Tế ra kinh Rạch Giá Hà Tiên rồi đổ ra biển Tây. Mà cái kinh Rạch Giá – Hà Tiên này là do “thực dân” Pháp đào hồi 1930, cũng góp phần điều tiết nước cho vùng Tứ Giác bấy lâu nay. Gọi kinh T5 vì đã có kinh T3 từ trước, giờ đào thêm kinh T4, T5, T6 mà chỉ có T5 là nối ra tới bờ biển Tây, còn kinh T4, T6 thì đổ vào các kinh khác trong vùng (và cũng vòng vèo ra biển)

 

Thử hỏi trong vùng tứ giác biết bao nhiêu là con kinh đã có, từ sông Hậu nối qua bờ biển Tây, từ kinh Vĩnh Tế (cũng là nước từ sông Hậu) nối qua bờ biển Tây. Chỗ nào đào được kinh để cày cấy được thì người ta đã đào rồi, chỗ không đào kinh có nghĩa là đất chỗ đó không khai thác được. Bao nhiêu con kinh người ta đào là để đưa nước vào làm ruộng và thoát nước ra biển Tây là sự kéo theo thôi, và thực tế thì mùa nước lên vẫn lên, với bao nhiêu con kinh đó thêm kinh Cái Sắn kinh Xà No chảy về biển Tây mà “lũ” vẫn “lũ” có chăng là bớt vài phân vài tấc. Vậy thì đào thêm một kinh T5 chút ét, thêm T4, T6 ngắn ngủn ở chỗ người ta chừa lại không đào kinh thì có thoát lũ ra biển Tây được hay không và góp bao nhiêu phần để khai thác vùng Tứ Giác đã được khai phá xong từ đời nảo đời nào?

 

Vậy mà khua chiêng gióng trống về công trình thoát lũ ra biển Tây. Vài “nhà khoa học” cũng hùa theo, báo chí thì ca ngợi nhờ kinh T5 mà vùng Tứ giác Long Xuyên được khai phá!

 

Chưa hết, đào kinh T5 rồi mà không “thoát lũ” xong, lại phải đắp đê bao “ngăn lũ”. Những con kinh lớn trong vùng nước nổi khi đào bằng xáng múc thì đổ đất lên hai bờ. hai bờ kinh cao ráo, người ta cất nhà dọc theo bờ kinh. Các bờ kinh này thành đường lộ, thường không bị ngập nước. Khi đắp đê bao thì người ta dùng những bờ kinh có sẵn này, đắp lại những chỗ hở khi nối bờ này với bờ kia, thành một vòng đê nhỏ. Nhiều vùng nhỏ có đê bao như vậy, nước ở ngoài đê. Trong đê người ta làm lúa vụ ba, để tăng lượng lúa xuất khẩu. Chủ trương đắp đề này dân không được chống lại, mà dân phải góp tiền đắp đê. Ai không góp tiền thì khi chứng giấy tờ hay có việc với xã ấp thì không được giải quyết. Đóng tiền đi rồi nói chuyện.

 

Vì bao đê rồi nên ai không muốn cũng phải làm lúa vụ ba. Có năm nước lớn, nhiều tiểu vùng bể đê, nước tràn vô chết lúa. Nếu không bể đê thì nước mưa ngập chút ít trong đê, thành nước tù đọng hôi thúi. Chuyện đắp đê này phá vỡ hệ sinh thái, sinh ra nhiều hệ lụy, nhiều chuyện cười ra nước mắt, có thể viết thành truyện dài nhiều tập!

 

Đó là mùa nước nổi, còn mùa khô này thì sao? có “hạn” không? Mùa khô thì có các kinh dẫn nước vô đồng, tháng 3, 4 lúa hè thu vẫn lên xanh cho tới lúc nước lên lại.

 

Tóm lại là, miền nước nổi nay nước hết nổi vì sông Cửu Long bị thiếu nước. Vùng nước nổi vì bị đắp đê bao nên dở dở ương ương, trồng cây ăn trái thì không có mương vườn thông ra sông rạch như miệt vườn nên không tốt, phải tưới nhiều, mà đất cũng không thích hợp với cây ăn trái. Trồng lúa thì không có nước vô nên thiếu phù sa, lúa thất hơn trước. Mà xả đê thì cũng không xong vì lỡ năm nào trên nguồn nhiều nước, nước lại nổi thì tiêu tùng cây ăn trái.

 

Trong tương lai vùng nước nổi nên có kế hoạch chống “lũ” hay chống “hạn” đây?

 

 

Vùng “ngọt hoá” thiếu nước ngọt, vì đâu?

 

“Hạn mặn” là gì?

 

Biển Đông của Việt Nam có chế độ thủy triều là “bán nhật triều”, nghĩa là một ngày có hai lần thủy triều lên/xuống (điều này đã được học trong bài địa lý hồi tiểu học). Giờ thủy triều lên xuống thay đổi mỗi ngày tùy theo vị trí của mặt trăng đối với trái đất. Mỗi tháng có hai lần thủy triều lên cao nhứt là vào đầu tháng và giữa tháng âm lịch, (là lúc mặt trăng gần trái đất nhứt), dân miền Tây gọi là con nước rong, từ mới bây giờ gọi là triều cường.

 

Mỗi ngày khi thủy triều lên, nước biển dâng cao thì nước từ cửa biển sẽ chảy ngược vào sông một đoạn, và làm nước sông và các kinh rạch gần biển dâng lên cao một chút, dân trong vùng gọi là nước lớn, độ một giờ sau thủy triều xuống, nước sông chảy lại chảy ra biển, dân trong vùng gọi là nước ròng. Vùng có con nước lớn ròng ở miền Tây là vùng gần biển Đông của các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau. Phía vịnh Thái Lan (biển Tây) có Cà Mau, Rạch Giá, Kiên Giang. Thủy triều biển Tây thấp hơn thủy triều biển Đông.

 

Vào mùa mưa, từ tháng 5 đến tháng 11 dương lịch, lưu lượng nước sông Cửu Long lớn, mùa kiệt từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau lưu lượng nước nhỏ bằng phân nửa hoặc ít hơn khi mùa mưa (Lưu lượng là thể tích nước chảy trong một giây, ở đây nói trung bình cho cả mùa). Hiểu nôm na lưu lượng là nước nhiều/ít làm dòng chảy sông mạnh/ yếu.

 

Hồi xưa, mùa mưa lưu lượng nước lớn, dòng sông chảy mạnh ra biển, khi thủy triều lên nước biển đẩy ngược vào sông không được bao xa thì nước ròng lại bị đẩy ra nên mùa mưa nước sông ngọt hầu như tới sát cửa biển. Mùa kiệt thì khi thủy triều lên nước mặn đẩy vô sông xa hơn, nhưng cách biển 20km thì suốt mùa kiệt là nước lợ, dân gọi “nước pha chè”, uống không ngon nhưng vẫn uống được, tắm giặt cũng được, không bị rít. Cây dừa vẫn sống khỏe, cho trái bình thường.

 

Khoảng 10 năm trở lại đây, do thượng nguồn sông từ Trung Quốc xuống Miến Điện, Lào, Thái lan…có nhiều đập thủy điện và do vài lý do khác nên lượng nước sông Cửu Long trong mùa kiệt ít hẳn, khiến dòng chảy sông yếu lại, khi thủy triều lên thì nước biển đẩy sâu hơn vào dòng sông, và càng cuối mùa kiệt thì nước mặn càng đẩy sâu hơn, từ mới bây giờ báo chí gọi là hạn mặn.

 

Năm 2016 là năm hạn mặn khốc liệt, nhưng năm 2020 khốc liệt hơn. Năm 2020 trên sông Hàm Luông (là một cửa của sông Tiền) nước mặn lên tới Cái Mơn (chỗ đánh dấu ngôi sao trong bản đồ) là nơi mà nước ngọt quanh năm từ hồi “mở cõi” đến nay, khiến cho cây sầu riêng, là đặc sản của vùng Cái Mơn chết sạch. Vùng Cái Mơn từ đó không còn là vùng cây trái ngọt lành nữa rồi dù không phải năm nào nước mặn cũng xâm nhập tới!

 

 

Vì sao “ngọt hoá” không hiệu quả?

 

Ngọt hóa là từ mới, để chỉ các dự án ngăn nước mặn vô vườn ruộng, để bảo vệ lúa và cây trồng. Dự án ngọt hóa ở vùng châu thổ Cửu Long nhiều vô kể. Dự án lớn có: “Ngọt hóa bán đảo Cà Mau”, “dự án cống đập Ba Lai”, “dự án ngọt hóa Gò Công”. Mới nhứt có dự án “ngọt hóa vùng sông Cái Lớn Cái Bé”. Các dự án này tôi sẽ nói kỹ hơn ở các bài sau. Hôm nay nói về dự án ngọt hóa Gò Công, vì hiện nay Gò Công đang bị hạn mặn khốc liệt, báo chí la làng, người vùng khác nghe tưởng cả miền Tây đang chết khô.

 

Vùng dự án ngọt hóa Gò Công là ngọt hóa vùng từ kinh Chợ Gạo về phía đông, bao gồm các huyện Chợ Gạo, Gò Công Tây, Thị xã Gò Công và Gò Công Đông (xem bản đồ). Các kinh rạch nối ra sông Cửa Tiểu (phía dưới) và sông Vàm Cỏ (phía trên) đều xây cống đập để ngăn nước mặn vào khu vực.

 

https://vietnamthoibao.org/wp-content/uploads/2024/04/Han-man-Go-Cong.jpg

Vùng “ngọt hoá” Gò Công

 

Năm hạn mặn 2020 mặn xâm nhập sâu tới Cái Mơn (chỗ khoanh tròn trên bản đồ) cách cửa biển khoảng 60 cây số. Quê nội tôi ở Hưng Nhượng Bến Tre cách biển khoảng 20 cây số (chỗ đánh dấu trái tim trên bản đồ) nước mặn không tắm giặt được, cây dừa không chết nhưng trái bị đèo và rụng. Năm nay, tới thời điểm này (20-04-2024) ở xã Hưng Nhượng quê tôi nước vẫn pha chè, còn tắm giặt được, chỉ không uống được mà thôi. Vậy mà sao năm nay vùng ngọt hóa Gò Công lại bị “hạn mặn” khốc liệt hơn năm 2020?

 

Nhìn vào bản đồ ta thấy những kinh rạch trong vùng ngọt hóa lấy nước ngọt từ sông Tiền và sông Vàm Cỏ. Khi nước sông mặn thì đóng cống lại để ngăn mặn. Như đã nói ở phần trên, nước sông mặn theo thủy triều, khi thủy triều lên thì nước biển đẩy vào, khi triều xuống thì nước ngọt trên nguồn đẩy xuống, nước mặn lui ra chứ không phải mặn suốt ngày đêm. Vận hành cống thì canh lúc nước triều xuống mở cống cho nước ngọt vào, khi triều lên thì đóng cống cho nước mặn không xâm nhập. Một ngày có hai lần thủy triều lên xuống, mỗi lần 2 tiếng từ khi nước chảy ngược đến lúc nước chảy xuôi, tính ra là thời gian sông chảy ngược ngắn hơn khi chảy xuôi rất nhiều.

 

Không biết do “quan trắc” độ mặn (đo độ mặn) ở cửa cống sai hay do đóng cống trước để ngăn mặn cho chắc mà lượng nước lấy vô đồng thiếu, khiến cho cả vùng vốn dùng nước ngọt từ sông Vàm Cỏ và sông Tiền để tưới ruộng vườn mà đột nhiên bị ngăn dòng nước khiến cho nông dân trở tay không kịp. Đến lúc kinh rạch, vườn ruộng nội vùng bị khô nứt nẻ thì lại sinh nạn xì phèn ở ruộng và lở đất bờ kinh rạch. Lúc này canh mở đóng cống để lấy nước ngọt thì cũng đã muộn màng, vì nước đã mặn nhiều hơn (nhưng đài báo đang ca ngợi đội ngũ canh cống). Nước uống dễ tiếp tế chứ nước cho ruộng vườn thì không thể nào khắc phục kip!

 

Dù vì lý do gì đi nữa thì dự án ngọt hóa Gò Công đã thất bại hoàn toàn ở mùa kiệt năm nay. Ngăn mặn nhưng ngăn luôn nước ngọt thì thật là vô ích. Ở xã Hưng Nhượng (Bến Tre) quê tôi, gần biển hơn vùng Chợ Gạo, Gò Công Tây mà mùa kiệt năm nay nước mặn chưa đủ ảnh hưởng đến vườn dừa. Nước uống từ nước mưa tích trong mùa mưa cũng còn đủ. Thế nhưng thành phố Bến Tre, Châu Thành Bến Tre (chỗ đánh dấu sao), những chỗ xa biển hơn quê tôi nhưng xài nước máy thì nước máy đều bị nhiễm mặn vì lấy nước từ sông lớn.

 

(Bài tôi viết từ kinh nghiệm thực tế của người dân vùng châu thổ, không phải bài nghiên cứu khoa học nên tôi không dẫn các số liệu vì sẽ rườm rà, khó nắm bắt. Nếu muốn thì bạn đọc có thể tra cứu độ xâm nhập mặn các năm 2016, 2020, 2024 để biết thêm chi tiết.)

_____________

 

Nguồn:

Facebook Hồ Phương Trinh

 


 

 

Tin Bài Liên Quan:

1.    VNTB – Một tháng nữa thì miền Tây gặp hạn mặn?

2.    VNTB – ‘Bỏ xứ mà đi thôi cô ơi’

3.    VNTB – Một đồng bằng sông đang chết khát

4.    VNTB – Thuỷ điện: hạn hán sông Mekong

 

 

                                                      *****

 

 

Miền Tây: Vùng châu thổ bị tàn phá ( bài 4-5)

Hồ Phương Trinh   -   Việt Nam Thời Báo

29.04.2024 3:02

https://vietnamthoibao.org/vntb-mien-tay-vung-chau-tho-bi-tan-pha-bai-4-5/

 

HÌNH : https://vietnamthoibao.org/wp-content/uploads/2024/04/ban-dao-Ca-mau.jpeg

 

(VNTB) – Đang thiếu ăn mà đi đến xuất khẩu gạo thì các đỉnh cao trí tuệ choáng ngợp, bèn nghĩ cách sao cho lượng gạo xuất khẩu được nhiều hơn.

Miền Tây: Vùng châu thổ bị tàn phá ( bài 1-3)

 

Các công trình “ngọt hoá’ thất bại

 

Công đập Ba Lai 

 

Miền châu thổ sông Cửu Long có nhiều vùng, khác nhau thổ nhưỡng, chế độ thủy văn, về mức độ cao ráo hay trũng thấp.

 

Miệt vườn là gì?

 

Là vùng được khai thác đầu tiên trong quá trình mở đất. Các vùng đất cao ven sông rạch là nơi lý tưởng để cất nhà, lập vườn. ĐÀO MƯƠNG LÊN LIẾP là một kỹ thuật làm vườn rất khoa học của dân miền Tây. Đào mương lấy đất đắp lên liếp, liếp rộng hẹp tùy loại cây trồng. Trong một mảnh vườn thì các liếp , mương song song nhau, và mương luôn luôn thông ra sông rạch. Nước từ sông rạch ra vô mang phù sa cho vườn. Mặt liếp cao hơn nước mương chừng 4-5 tấc nên hầu như là không phải tưới vườn. Mỗi năm vét bùn (là phù sa lắng xuống dưới mương) đắp lên mặt liếp một lần, gọi là bồi vườn. Trong miệt vườn cũng có ruộng xen kẽ, chứ không có cánh đồng cò bay thẳng cánh. Nếu đủ tài lực thì người ta sẽ “lên vườn” tức là đào mương lên liếp để lập vườn. Vườn cho huê lợi cao hơn ruộng. Dân miệt vườn ai cũng có mảnh vườn của mình, không có chuyện dân miệt vườn cho thuê hay đi thuê vườn để trồng trọt. Người ta cất nhà trong vườn luôn, thường là quay mặt ra sông rạch.

 

Như đã nói bài trước, miệt vườn vùng gần biển thì sẽ có mùa nước lợ, người ta trồng dừa. Lên xa biển hơn, nước ngọt quanh năm thì trồng cam, xoài, vú sữa, sầu riêng v.v… Vùng nước ngọt thì người ta uống nước sông. Vùng có vài tháng nước lợ thì hứng nước mưa uống. Nước tắm giặt thì cuối mùa mưa người ta đắp một cái đập trong một con mương vườn sát nhà để giữ nước ngọt trong con mương đó mà xài. Các con mương khác trong vườn vẫn thông với sông rạch. Hết mùa hạn thì phá đập ra để lấy nước sông trở lại

 

Ở chỗ đất GIỒNG thì đào giếng lấy nước ngọt. Giếng đào 5-10m là có nước. Đất giồng gần biển cũng đào được giếng nước ngọt quanh năm.Trong miệt vườn có nhiều địa danh GIỒNG : Giồng Trôm, Giồng Tre, Giồng Trường, Giồng Quéo…

 

Nói chung là dân miệt vườn không thiếu nước ngọt, nước cho canh tác và nước uống.

Đập Ba Lai

 

Là cái đập xây để chặn nước mặn từ biển vào sông Ba Lai. Dự án “ngọt hóa” cho miệt vườn hai bên sông Ba Lai, từ sông Cửa Đại đến sông Hàm Luông gồm các huyện Ba Tri, Giồng Trôm, Châu Thành, Bình Đại và Thành phố Bến Tre, nghĩa là hơn một nửa tỉnh Bến Tre. Đập được khởi công năm 2000 và hoàn thành, đưa vào sử dụng năm 2002.

 

Bến Tre là tỉnh ven biển, sông bao bọc khắp phía. Từ xưa người dân đã sinh sống trồng trọt cày cấy, đánh bắt tôm cá v.v…thuận theo sự xoay vần tự nhiên của mưa nắng, con nước. Nước ngọt thì làm gì, nước lợ làm gì, mưa trồng gì, nắng trồng gì thì nông dân đã thành thuộc. Tự nhiên bây giờ “ngọt hóa” hết thảy, rồi nói nhờ ngọt hóa mà thau chua rửa phèn gì đó. Có chua có phèn đâu mà thau mà rửa???

 

Ngăn dòng chảy sông làm cho những người làm nghề đóng đáy thất thu nặng nề. Nước bị ngăn lại làm cho miệt vườn không còn là nơi sông sâu nước chảy, liếp vườn hết phù sa, mương vườn thành nơi ao tù nước đọng. Ngọt hóa không làm tăng năng suất cho vuờn cho ruộng, cũng không chuyển đổi được từ cây dừa sang cây sầu riêng. Chỗ đang nuôi tôm thì nước không đủ mặn để nuôi, chỗ đang làm muối thì nước không đủ mặn để làm muối, đành thất nghiệp!

 

Ủa, tai sao cứ phải ngọt hóa để trồng lúa, trái cây? Giá lúa rẻ mạt, có tăng thêm bao nhiêu đi nữa thì cũng đâu thêm được nhiêu tiền (bán bao nhiêu tấn lúa mới mua được một cái Iphone?) mà đổi lại hệ sinh thái bị đảo lộn, sinh kế của người dân bị đảo lộn, và khi nhận ra sai lầm thì không thể vãn hồi được!

 

Nhưng ngọt hóa cũng đâu có thành công, không biết do kỹ thuật đắp đập hay do gì khác mà rồi nước mặn cũng vô tuốt luốt. Năm 2016, 2020 ở quê nội tôi xã Hưng Nhượng, Giồng Trôm ở trong vùng ngọt hóa, mà cũng bị “hạn mặn” gay gắt như ai ở vùng không được ngọt hóa!

 

Lắm lúc tôi cũng suy nghĩ, hay là chuyện ngọt hóa này có ẩn tình gì chăng?

 

Trên đây là tôi nói theo thực tế tai nghe mắt thấy vì tôi quê Bến Tre. Người dân thấp cổ bé họng nói ai nghe? Nhưng hồi năm 2018 một số nhà khoa học độc lập có lên tiếng đòi đánh giá hiệu quả của cống đập Ba Lai sau 16 năm vận hành để rút kinh nghiệm cho những dự án ngọt hóa khác sắp triển khai, nhưng tất cả đều bị bỏ qua, và lại một dự án ngọt hóa mới toanh vừa hoàn thành trong năm 2022 ở Kiên Giang.

 

https://vietnamthoibao.org/wp-content/uploads/2024/04/Vung-ngot-hoa-cua-dap-Ba-Lai.jpeg

Vùng ngọt hóa của đập Ba Lai

 

Cù lao đánh dấu sao: sáu tháng nước ngọt sáu tháng nước mặn. Trên cù lao có giếng nước ngọt quanh năm. Tôi đã đi đến cù lao đó

 

 

Ngọt hoá bán đảo Cà Mau 

 

Bán đảo Cà Mau là vùng trên bản đồ, từ vạch tím về phía Nam, đến mũi Cà Mau. Từ vạch tím lên phía bắc là vùng Thốt Nốt, Cần Thơ là miệt vườn sông sâu nước chảy vườn tốt ruộng tốt từ hồi xửa xưa, không cần làm thêm thủy lợi gì nữa.

 

Trong bán đảo Cà Mau có mấy vùng khác nhau về thổ nhưỡng, chế độ thủy văn, hệ sinh thái. Vùng Mũi Cà Mau, (trên bản đồ là địa phận tỉnh Cà Mau) có các con sông đổ ra biển Đông, biển Tây (vịnh Thái Lan). Vùng này kinh rạch chằng chịt, nước sông chịu ảnh hưởng của thủy triều hai phía biển. Khi thủy triều lên nước biển hai phía Đông Tây chảy vào sông và gặp nhau ở vùng mà người địa phương gọi là vùng “giáp nước”. Vì thủy triều biển Đông cao hơn biển Tây nên vùng giáp nước lệch về phía Tây. Hiện nay còn địa danh cầu Giáp Nước. 

 

Mùa khô thì nước mặn vô sâu nội địa nhưng mùa mưa thì nước ngọt, nước lợ. Vùng này xưa kia là rừng đước rừng tràm. Sau khi khai phá (cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20) thì người ta trồng lúa trong mùa mưa nước ngọt, mùa nắng thì nuôi tôm cá quảng canh, tức là cuối mùa mưa sau khi thu hoạch lúa thì cho nước mặn tràn vô, đem theo cá tôm giống. Giữ nước lại nuôi trong vài tháng, khi tới mùa kiệt, nước mặn nhiều thì đánh bắt lên bán và để ruộng tự nhiên chờ đến khi mưa xuống đủ ngọt lại trồng lúa. Đại khái là giống như mô hình lúa tôm bây giờ nhưng nuôi,trồng hoàn toàn tự nhiên.

 

Vùng phía đông bắc tỉnh Cà Mau tức là Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, từ thời “thực dân” Pháp họ đã đào nhiều kinh dẫn nước từ sông Hậu vô. Kinh Xà No từ rạch Cần Thơ tới sông Cái Lớn ở Vị Thanh (đường số 1 trên bản đồ). Ngã Bảy, Ngã Năm là nơi bảy con kinh, năm con kinh từ đó tỏa đi khắp miền Hậu Giang. Kinh Quản Lộ – Phụng Hiệp từ Ngã Bảy tới Cà Mau, đi qua Ngã Năm (đường số 2 trên bản đồ). Nhờ hệ thống kinh đào này mà vùng Bạc Liêu được khai phá trở thành vùng đất ruộng cò bay thẳng cánh. Điền chủ ở Bạc Liêu là đại điền chủ so với các điền chủ ở Gò Công, Trà Vinh… là những vùng đất “cũ” khai phá từ trước. Công tử Bạc Liêu giàu có cũng nhờ cha là đại điền chủ xứ Bạc Liêu. Từ đầu thế kỷ 20 cho tới trước 1945 lượng lúa xuất cảng của miền Tây cứ tăng theo thời gian.

 

Dưới thời “đế quốc Mỹ”, nhờ luật Người Cày Có Ruộng của VNCH và khoa học Canh Nông được áp dụng mà nghề nông ở vùng bán đảo Cà Mau này phát triển vượt bực. Máy cày, máy bơm nước rất phổ biến. Cho đến trước 1975 thì vùng Ba Xuyên ( Bạc Liêu, Sóc Trăng) có sản lượng lúa cao nhứt miền Tây.

 

 

Tại sao sau ’75 lại bị thiếu đói?

 

Dài dòng lắm, do chính sách hợp tác hóa sai lầm, do ngăn sông cấm chợ nên vật tư nông nghiệp không lưu thông phân phối được, do cao ngạo nghỉ chơi với đế quốc nên bị cấm vận v.v… nên vùng châu thổ phì nhiêu mà sản xuất lúa gạo bị thiếu ăn, còn tệ hơn thời thực dân Pháp!

 

Sau khi “mở cửa” năm ’86 thì chỉ mấy năm thôi, là năm ’89 ta đã lần đầu tiên xuất khẩu gạo sau ngày “giải phóng”. Trong mấy năm ngắn ngủi từ khi mở cửa đến khi xuất khẩu gạo đảng ta chưa kịp làm công trình thủy lợi gì ở miền Tây, cũng chưa kịp chỉ đạo gì mà sản lượng lúa vẫn tăng cao. Đang thiếu ăn mà đi đến xuất khẩu gạo thì các đỉnh cao trí tuệ choáng ngợp, bèn nghĩ cách sao cho lượng gạo xuất khẩu được nhiều hơn. Từ đó mới nảy ra các công trình thủy lợi: đê bao “chống lũ” ở tứ giác Long Xuyên, “ngọt hóa” khắp nơi từ bán đảo Cà Mau tới Bến Tre, Gò Công, tất cả là để tăng sản xuất lúa vụ ba. Ở tứ giác Long Xuyên thì bao đê để làm lúa vụ ba luôn trong mùa nước nổi. Những vùng bị nước mặn xâm nhập thành nước lợ trong mùa kiệt thì phải đắp đập ngăn nước biển, phải “ngọt hóa” để làm lúa trong mùa kiệt mới chịu. Tất cả cho sản xuất lúa!

 

 

Làm sao để ngọt hoá? 

 

Nhìn bán đảo Cà Mau, hai bên là biển, phía đông bắc là sông Hậu. Muốn ngăn nước mặn thì phải bịt kín hết những lối thông ra biển, mà ở vùng kinh rạch chằng chịt, đi đường thủy nhiều hơn đường bộ thì việc này khá tốn kém. Khi đắp đập như vậy thì mực nước hai bên đập sẽ chênh lệch nên phải xây âu thuyền thì thuyền bè mới đi qua được chỗ nước chênh lệch đó. Dự án ngọt hóa bán đảo Cà Mau với rất nhiều cống, đập và một âu thuyền Tắc Thủ, tốn kém nhiều tiền của nhưng thất bại từ trong trứng nước.

 

 

Vì sao thất bại?

 

Vào những năm 199s, dự án ngọt hóa bán đảo Cà Mau được triển khai. Hệ thống cống đập xây lên nhưng nông dân không đồng tình. Xây đập ngăn mặn nhưng nước ngọt không đủ, trồng lúa không trúng mùa mà nuôi tôm không được. Thêm nữa sông rạch bị bít đường chảy gây ô nhiễm nguồn nước. Cuối năm 1998 nông dân Cà Mau hè nhau phá cống bửa đập để lấy nước mặn vào nuôi tôm. Trước áp lực của nông dân, năm 2000 Chính Phủ đã ra nghị quyết cho phép chuyển đổi đất trồng lúa không hiệu quả sang nuôi tôm. Thế là dự án ngọt hóa chết yểu. Vậy mà âu thuyền Tắc Thủ, một hạng mục của dự án ngọt hóa vẫn được khởi công vào năm sau, năm 2001 với kinh phí 80 tỉ đồng lúc đó, từ khi khánh thành là bỏ hoang luôn cho tới bây giờ, trở thành đống sắt thép mục nát!

 

Những cống đập đã xây thì cứ bỏ ngỏ, nhưng cũng gây ách tắc dòng chảy, nhiều nơi bị bồi lắng, bị ô nhiễm vì nước chưa thoát ra được đã chảy trở vô. Đường giao thông thủy cũng bị trở ngại vì các đập này, nhưng nông dân Cà Mau rất thông minh, họ đã sáng chế một hệ thống ròng rọc kéo ghe thuyền qua đập trong vòng một nốt nhạc!

 

(còn tiếp kỳ sau: Tái khởi động “ngọt hóa” Cà Mau bằng dự án đập sông Cái Lớn Cái Bé: thất bại được thấy trước)

 


 

Tin Bài Liên Quan:

1.   VNTB – Những hiểu lầm về hạn, mặn, lũ ở Miền Tây

2.   VNTB – Miền Tây cạn nước vì… miền Bắc

3.   VNTB – Đảng đang thành thực dân Bắc kỳ?

4.   VNTB – Trở lại Sài Gòn sau kỳ nghỉ Tết Giáp Thìn

 

 

                                                            *****

 

Miền Tây: vùng châu thổ bị tàn phá ( bài cuối)

Hồ Phương Trinh   -   Việt Nam Thời Báo

10.05.2024 10:37

https://vietnamthoibao.org/vntb-mien-tay-vung-chau-tho-bi-tan-pha-bai-cuoi/

 

(VNTB) – Nhà khoa học mà còn nói không lại với các đỉnh cao trí tuệ thì dân nào có cửa!

 

Miền Tây: vùng châu thổ bị tàn phá ( bài 1-3)

Miền Tây: vùng châu thổ bị tàn phá (bài 4-5)

 

 

Bài 6 – Đập Sông Cái Lớn, Cái Bé:  Thất bại được thấy trước 

 

Như các bài trước đã nói, vùng đồng bằng Cửu Long lấy nước ngọt tưới cho vườn ruộng là từ sông Tiền, sông Hậu. Ở bán đảo Cà Mau có thêm các sông Cái Lớn từ Vị Thanh , sông Cái Bé từ Giồng Riềng, cả hai sông đổ ra biển Tây, chỗ Rạch Giá. Hai con sông này nối với sông Hậu nhờ hệ thống kinh được đào từ hồi thời “thực dân’ Pháp,”đế quốc” Mỹ. Phía mũi Cà Mau thì hệ thống sông kinh rạch chằng chịt nối hai bờ biển Đông Tây.

 

Thuận theo tự nhiên thì mùa mưa nước sông nhiều, chảy mạnh, thủy triều ở biển đẩy ngược vào sông không nhiều, nên mùa mưa nước sông ngọt ra tới gần biển. Mùa kiệt nước sông chảy yếu, nước biển xâm nhập sâu vào dòng sông, thời nay gọi là “hạn mặn”. Người xưa trồng lúa trồng cây nuôi tôm nuôi cá, đánh bắt tôm cá tự nhiên đều dựa theo mùa vụ, nước sông, nước mưa, nước ngọt, nước lợ nước mặn theo mùa, thích hợp lúc nào thì làm lúc ấy, không bắt thiên nhiên phải theo ý con người.

 

Các công trình thủy lợi NGỌT HÓA ở đồng bằng Cửu Long đều là muốn đi ngược tự nhiên. Mùa nước mặn, nước lợ mà vẫn muốn trồng lúa, vẫn muốn trồng cây ăn trái nhạy cảm với nước mặn. Vậy là đắp đập ngăn nước mặn từ biển vào, và phía trong đập, theo lý thuyết là nước ngọt. Nước ngọt này sẽ tưới hoa màu vườn ruộng. Bi kịch là đây: nước ngọt không đủ khiến cho lòng sông và các chi lưu của sông cạn nước, lưu vực sông cũng bị khô nứt. Rồi chuyện phải đến đã đến: ruộng đất khô cạn sẽ bị xì phèn lên. Đất khô co lại gây nứt nẻ, sập đường đi, sập bờ kinh.

 

Dự án ngọt hóa bán đảo Cà Mau lần trước đã bị tình trạng xì phèn lở đất, mùa kiệt phải mở cống cho nước mặn vào trám phèn, ngăn lở, hóa ra cống đập vô tác dụng. Mùa mưa thì dòng chảy bị ngăn nghẽn khiến trong đập bị ô nhiễm vì nước mưa không rút được nhanh. (Thử tưởng tượng chỉ một cái nhà mà bị mưa làm ngập vài ngày là ô nhiễm rồi, huống chi cả một vùng đọng nước, không thoát được).

 

Dự án ngọt hóa Cà Mau khi trước đã thất bại, cống đập vô dụng, âu thuyền bỏ hoang, thì đến năm 2018 “ai đó” lại vẽ ra dự án đập sông Cái Lớn Cái Bé, cũng với cơ sở lý luận y chang như dự án ngọt hóa Cà Mau lần trước, chỉ khác hơn là lần này vùng ngọt hóa nhỏ lại. Tuy bị nhiều ý kiến phản đối của các chuyên gia độc lập nhưng dự án vẫn được tiến hành và đưa vào sử dụng năm 2022.

 

Năm nay đập Cái Lớn Cái Bé đóng ngăn mặn thành công, mà trong đồng thì không có nước ngọt thì làm sao “giữ ngọt”. Đồng ruộng kinh rạch khô queo xác xơ, đường đi nứt, sụp. Huyện U Minh Thượng (Kiên Giang) mới công bố thiên tai. Thiên tai là hạn hán ư? Hạn hán mà cứ để nước mặn xâm nhập thì bất quá ngưng một mùa lúa, chờ mùa mưa thì làm lại, có chết “thằng tây” nào. Đắp đập ngăn sông làm khô nước, đồng ruộng xì phèn nứt nẻ, đường sụp, cầu gãy. Đắp đập mà không có nước ngọt thì mùa lúa cũng tiêu, mà thêm đất sụp xì phèn gây hậu quả trầm trọng, hết mùa hạn mặn cũng không khắc phục nổi. Vậy thiên tai này do hạn hán hay do đắp đập?

 

Dân miền Tây thích sông sâu nước chảy. Nước sông nước hồ có đặc tính tự làm sạch. Nước có lưu thông thì mới có sự sống, nước bị ngăn dòng là trái tự nhiên, phản khoa học. Nhứt là khi ngăn dòng mà không có nghiên cứu thấu đáo dựa trên cơ sở khoa học thì thất bại là việc hiển nhiên. Nhìn lại, toàn bộ các dự án “ngọt hóa” từ Gò Công, Ba Lai đến Cà Mau đều thất bại thê thảm, hậu quả nhãn tiền chứ không cần đợi “hết nhiệm kỳ”.

 

Dân có biết không? Dân biết nhưng thấp cổ bé họng làm sao nói? Nhà khoa học mà còn nói không lại với các đỉnh cao trí tuệ thì dân nào có cửa. Tuy nhiên dân không nói mà sẽ làm. Dân Cà Mau bữa đập phá cống là một thí dụ.

 


 

Tin Bài Liên Quan:

 

1.   VNTB – Những hiểu lầm về hạn, mặn, lũ ở Miền Tây

2.   VNTB – Miền Tây cạn nước vì… miền Bắc

3.   VNTB – Miền Tây, vùng châu thổ bị tàn phá (bài 1-3)

4.   VNTB – Miền Tây: Vùng châu thổ bị tàn phá ( bài 4-5)

 

 

                                             *****

NGUỒN :

 

Hồ Phương Trinh

28 tháng 4 lúc 23:09  

https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=pfbid02ofoGTQp936N3SCvFSsE5umXdeXTgfGTapkeZcD2LhdUuXNbPxEp7uNFy4dYsub76l&id=1620456182

 

MIỀN TÂY: VÙNG CHÂU THỔ BỊ TÀN PHÁ Bài 6: ĐẬP... | Facebook

Bài 6: ĐẬP SÔNG CÁI LỚN CÁI BÉ: THẤT BẠI ĐƯỢC THẤY TRƯỚC.

 

Như các bài trước đã nói, vùng đồng bằng Cửu Long lấy nước ngọt tưới cho vườn ruộng là từ sông Tiền, sông Hậu. Ở bán đảo Cà Mau có thêm các sông Cái Lớn từ Vị Thanh , sông Cái Bé từ Giồng Riềng, cả hai sông đổ ra biển Tây, chỗ Rạch Giá. Hai con sông này nối với sông Hậu nhờ hệ thống kinh được đào từ hồi thời "thực dân' Pháp,"đế quốc" Mỹ. Phía mũi Cà Mau thì hệ thống sông kinh rạch chằng chịt nối hai bờ biển Đông Tây.

Thuận theo tự nhiên thì mùa mưa nước sông nhiều, chảy mạnh, thủy triều ở biển đẩy ngược vào sông không nhiều, nên mùa mưa nước sông ngọt ra tới gần biển. Mùa kiệt nước sông chảy yếu, nước biển xâm nhập sâu vào dòng sông, thời nay gọi là "hạn mặn". Người xưa trồng lúa trồng cây nuôi tôm nuôi cá, đánh bắt tôm cá tự nhiên đều dựa theo mùa vụ, nước sông, nước mưa, nước ngọt, nước lợ nước mặn theo mùa, thích hợp lúc nào thì làm lúc ấy, không bắt thiên nhiên phải theo ý con người.

Các công trình thủy lợi NGỌT HÓA ở đồng bằng Cửu Long đều là muốn đi ngược tự nhiên. Mùa nước mặn, nước lợ mà vẫn muốn trồng lúa, vẫn muốn trồng cây ăn trái nhạy cảm với nước mặn. Vậy là đắp đập ngăn nước mặn từ biển vào, và phía trong đập, theo lý thuyết là nước ngọt. Nước ngọt này sẽ tưới hoa màu vườn ruộng. Bi kịch là đây: nước ngọt không đủ khiến cho lòng sông và các chi lưu của sông cạn nước, lưu vực sông cũng bị khô nứt. Rồi chuyện phải đến đã đến: ruộng đất khô cạn sẽ bị xì phèn lên. Đất khô co lại gây nứt nẻ, sập đường đi, sập bờ kinh.

Dự án ngọt hóa bán đảo Cà Mau lần trước đã bị tình trạng xì phèn lở đất, mùa kiệt phải mở cống cho nước mặn vào trám phèn, ngăn lở, hóa ra cống đập vô tác dụng. Mùa mưa thì dòng chảy bị ngăn nghẽn khiến trong đập bị ô nhiễm vì nước mưa không rút được nhanh. (Thử tưởng tượng chỉ một cái nhà mà bị mưa làm ngập vài ngày là ô nhiễm rồi, huống chi cả một vùng đọng nước, không thoát được).

Dự án ngọt hóa Cà Mau khi trước đã thất bại, cống đập vô dụng, âu thuyền bỏ hoang, thì đến năm 2018 "ai đó" lại vẽ ra dự án đập sông Cái Lớn Cái Bé, cũng với cơ sở lý luận y chang như dự án ngọt hóa Cà Mau lần trước, chỉ khác hơn là lần này vùng ngọt hóa nhỏ lại. Tuy bị nhiều ý kiến phản đối của các chuyên gia độc lập nhưng dự án vẫn được tiến hành và đưa vào sử dụng năm 2022.

Năm nay đập Cái Lớn Cái Bé đóng ngăn mặn thành công, mà trong đồng thì không có nước ngọt thì làm sao "giữ ngọt". Đồng ruộng kinh rạch khô queo xác xơ, đường đi nứt, sụp. Huyện U Minh Thượng (Kiên Giang) mới công bố thiên tai. Thiên tai là hạn hán ư? Hạn hán mà cứ để nước mặn xâm nhập thì bất quá ngưng một mùa lúa, chờ mùa mưa thì làm lại, có chết "thằng tây" nào. Đắp đập ngăn sông làm khô nước, đồng ruộng xì phèn nứt nẻ, đường sụp, cầu gãy. Đắp đập mà không có nước ngọt thì mùa lúa cũng tiêu, mà thêm đất sụp xì phèn gây hậu quả trầm trọng, hết mùa hạn mặn cũng không khắc phục nổi. Vậy thiên tai này do hạn hán hay do đắp đập?

Dân miền Tây thích sông sâu nước chảy. Nước sông nước hồ có đặc tính tự làm sạch. Nước có lưu thông thì mới có sự sống, nước bị ngăn dòng là trái tự nhiên, phản khoa học. Nhứt là khi ngăn dòng mà không có nghiên cứu thấu đáo dựa trên cơ sở khoa học thì thất bại là việc hiển nhiên. Nhìn lại, toàn bộ các dự án "ngọt hóa" từ Gò Công, Ba Lai đến Cà Mau đều thất bại thê thảm, hậu quả nhãn tiền chứ không cần đợi "hết nhiệm kỳ".

Dân có biết không? dân biết nhưng thấp cổ bé họng làm sao nói? Nhà khoa học mà còn nói không lại với các đỉnh cao trí tuệ thì dân nào có cửa. Tuy nhiên dân không nói mà sẽ làm. Dân Cà Mau bửa đập phá cống là một thí dụ.

 

Link bài 1: https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=pfbid0wbZjPviNGnkQZexovnf8SpJpogP3vQ4ABjkNY5pYDtBuj7NpKUoDBm1hX2tk97Tal&id=1620456182

Bài 2:

https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=pfbid0GM5cqKGGQnyYBnR88a7d9VuQveqPz6CzwgFcZvgUZFeCvXB3sXvHZJmAcmWMnPJxl&id=1620456182

Bài 3:

https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=pfbid02XLPgVL48oKkyZvVkHFxgFqdx3f2PGSj5M3L7wwKcCw8eAcD7TNbYyqHmy2g4fiuyl&id=1620456182

Bài 4:

https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=pfbid02KyXdmaJDJbEpTSMa3PvqTmvJ4xE818B4NUdGqQi37Yb8bfrkA7gGY5kczZwWhqyRl&id=1620456182

Bài 5:

https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=pfbid0QjPu5CwHUca25mPWtmyExs997Cg4zJUh7fXPyfdrq3QhvoLsY5gpkXnTgerwHp3bl&id=1620456182

 

HÌnh: https://www.facebook.com/photo/?fbid=10229398300934891&set=pcb.10229398318255324

Bản đồ khu vực dự án đập Cái Lớn Cái Bé, huyện U Minh Thượng (viền đỏ) cặp sông Cái Lớn đang công bố thiên tai.

 

Bài báo công bố thiên tai

https://www.facebook.com/photo/?fbid=10229398300734886&set=pcb.10229398318255324

 

 




No comments:

Post a Comment