Xuân Ất Mão 1975: Tại sao Sài Gòn vẫn tưng bừng ăn
Tết?
Nguyễn
Tiến Hưng
Gửi tới BBC News Tiếng Việt từ
California, Hoa Kỳ
6 tháng 2
2024, 12:17 +07
https://www.bbc.com/vietnamese/articles/cy6ej71e290o
https://ichef.bbci.co.uk/ace/ws/800/cpsprodpb/aecf/live/e4a97080-c4ad-11ee-896d-39d9bd3cadbb.jpg
Hình ảnh khai thác dầu ngày nay tại Bạch Hổ,
mỏ dầu đã được phát hiện từ thời VNCH
Đường
phố đã lên đèn. Sài Gòn ‘đêm ba mươi’ thật nhộn nhịp. Người người
tưng bừng đón giao thừa, chào đón ngày đầu Xuân.
Sáng
sớm ngày mùng một Tết Ất Mão (nhằm ngày 11/2/1975), Thủ tướng Trần
Thiện Khiêm hướng dẫn Nội các đến Dinh Độc Lập chúc tết Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu.
Tuy
bối cảnh của thời điểm ấy thật là khó khăn - với tình hình kinh tế
ảm đạm và chiến trường sôi động, mọi người vẫn cố gắng quên đi
những lo lắng để chúc nhau sức khỏe và may mắn trong năm mới.
Mà
may mắn thật. Ngay buổi trưa hôm ấy đã có một tin thật vui. Sự kiện
mà mọi người chờ mong bao nhiêu lâu nay thì bây giờ đã đến. Đài phát
thanh bất chợt ngắt chương trình ca hát mừng Xuân để loan một tin
nóng:
"Hãng
Mobil khoan dầu ngoài khơi cho biết: ngày 11/2/1975 đã thực sự thu được
lượng dầu với sản lượng là 430 thùng một ngày và 5.600 mét khối
khí đốt."
Từ
mùa Hè 1974, báo chí đã luôn luôn đăng tải những tin tức khả quan về
dầu lửa ở thềm lục địa. Dư luận xôn xao, nhưng chưa ai trông thấy dầu,
trừ một lượng rất nhỏ. Văn phòng Tổng thống đã yêu cầu hãng dầu
gửi về Sài Gòn một thùng dầu thô và được đưa đến Biên Hòa.
Ngày
Chiến sĩ Trận vong (3/11/1974), lúc sương mù vẫn còn lãng đãng trên đồi
Nghĩa trang Quân đội, toàn thể nội các và nhân viên Văn phòng Tổng thống đã có
mặt. Nghi lễ đặt vòng hoa bắt đầu, TT Thiệu châm lửa vào một vạc dầu lớn để
ngay trước đài tưởng niệm.
Lửa
bốc cháy sáng rực, át đi cả ánh bình minh lúc vừa hé rạng. Ban Quân nhạc chầm
chậm cử bài Chiêu hồn tử sĩ, mọi người chắp tay vái lạy, cầu xin hương hồn các
chiến sĩ anh hùng phù hộ cho đất nước trong giờ phút hiểm nghèo này.
https://ichef.bbci.co.uk/ace/ws/405/cpsprodpb/80ec/live/585d92d0-c496-11ee-8685-316409d66f25.png
Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu châm lửa vào vạc dầu đầu tiên để phúng viếng các
chiến sĩ trận vong
Đó
là ngày ‘Chiến sĩ Trận vong’ cuối cùng của VNCH.
Bây
giờ, bản tin của Mobil Oil giống như một món quà đầu Xuân chợt được
gửi đến, mọi người lại vui vẻ ăn Tết mặc dù tình hình chiến sự đen
tối. Người vui nhất có lẽ là TT Thiệu. Vài ngày sau Tết, ông gọi tôi
vào Dinh Độc Lập để hàn huyên. Nhìn thấy nụ cười hiếm hoi, tôi chia
sẻ được tâm tư của người lãnh đạo miền Nam. Biết đâu, biết đâu đấy,
Trời đã gửi đến một tia sáng ở cuối đường hầm. Rồi ông nói: “Anh đi
với tôi ra thăm giàn khoan xem sao.”
Chỉ
ba tuần trước, sau
khi Phước Long thất thủ, ông đã phải viết hai lá thư liên tục
(ngày 14 và 15 tháng 1/1975) cho Tổng thống Mỹ Gerald Ford mô tả tình
trạng co cụm của người quân nhân VNCH và yêu cầu tiếp viện. Trong thư
có câu:
“Cường
độ tấn công mãnh liệt của quân đội Bắc Việt, yểm trợ bằng hỏa lực
và thiết giáp ồ ạt.” Và ngược lại, “quân đội VNCH
phải đếm từng viên đạn khi bắn để cầm cự được lâu hơn.”
Nhưng
cả hai thư đều không có hồi âm (như được ghi lại về trận chiến Phước
Long trong cuốn sách Bức tử VNCH – Kissinger và 8 thủ đoạn nham hiểm –
được xuất bản nay mai).
Tổng
thống Thiệu đi thăm giàn khoan
Mấy
hôm sau, Việt Tấn Xã loan tin:
"Hôm
nay, 15 giờ, thứ hai, ngày 24-2-1975, tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn
Thiệu đã rời Sài Gòn đi quan sát giếng dầu Bạch Hổ-1X khoan cách Sài Gòn chừng
200 cây số về hướng đông nam trên thềm lục địa Việt Nam... Cùng tham dự với
tổng thống hôm nay có thủ tướng chính phủ Trần Thiện Khiêm, ông tổng trưởng kế
hoạch Nguyễn Tiến Hưng, ông tổng cuộc trưởng Dầu hỏa và khoáng sản Trần Văn
Khởi và ông tổng giám đốc Mobil Vietnam Peter Gelpke."
Tin
tức từ Việt Tấn Xã được phổ biến rộng rãi. Thấy vậy, ngoài chiến
trường, những người quân nhân trong hoàn cảnh cùng cực đã phấn khởi:
“Người chiến sĩ mắt sáng ngời nghe tin xuân đang về ngàn nơi.”
(‘Mộng đêm Xuân’ - Tuấn Khanh).
Trên
chuyến trực thăng bay ra khơi, xa xa khi nhìn thấy ngọn lửa cháy sáng rực trên
vòm trời từ giàn khoan, vẻ mặt ông Thiệu tươi hẳn lên, ông nhìn thật chăm chú.
“Bao giờ thì mới thực sự có dầu,” ông quay lại hỏi. Tôi trả lời là theo Bộ Kinh
tế ước tính dựa trên những thông tin của các hãng thì muộn lắm là tới cuối
1977.
Trên
giàn khoan, khi chuyên gia trình bày về khả năng sản xuất, ông Thiệu lắng nghe
mọi chi tiết. Chuyên gia kết luận rằng nếu có thêm sự khuyến khích (incentive)
thì hãng có thể cố gắng để đào nhanh hơn. Trên chuyến bay về Sài Gòn, ông
hỏi: “Khuyến khích làm sao để họ có thể xuất cảng thất nhanh?” Tôi
trình bầy vắn gọn là có thể xem xét lại hợp đồng rồi cho họ chia phần cao
hơn, hoặc dùng những điều quy định về thuế má để cho họ ưu đãi khi bắt đầu
xuất cảng dầu. Ngoài ra còn có thể quy định thời gian khai thác kéo
dài hơn là theo hợp đồng họ đã ký. Ông Thiệu đồng ý ngay: “Được chứ,
được chứ.”
Trở
về Bộ Kế hoạch, chúng tôi tìm hiểu sâu hơn về hồ sơ của những vị tiền
nhiệm.
5 điều cần biết về
ngành dầu khí Việt Nam
24
tháng 8 năm 2017
Hai mỏ khí đốt trên Biển Đông
của VN góp phần phá vỡ thỏa thuận khí hậu Paris?
9
tháng 8 năm 2023
Biển Đông: VN theo
sát tàu TQ gần mỏ dầu do Nga khai thác trong EEZ
28
tháng 3 năm 2023
Hành
trình đi tim dầu lửa
Ngay
từ cuối thập niên 1960, những tin tức thăm dò đã cho thấy thực sự có
túi dầu lửa ở ngoài khơi. Cho dù không bằng túi dầu của Indonesia, một
nước trong khối OPEC, dự trữ dầu lửa và dầu khí ở thềm lục địa miền Nam
nằm trong một vùng rộng 500.000 cây số vuông thì không phải là nhỏ.
Trước
hết là phải có một bộ luật về dầu lửa. Vì miền Nam chưa có kinh
nghiệm nên đã nhờ Iran giúp đỡ. Iran dưới thời Quốc vương Mohammad Reza
Shah thì rất gần gũi với VNCH cho nên đã đồng ý ngay. Như kỹ sư Trần
Văn Khởi, Tổng Giám đốc Ủy ban Quốc gia Dầu hỏa (UBQGDH), đã ghi lại
trong bài “Những hợp đồng tìm dầu đầu tiên ở Việt Nam” (Tập san Việt
học, Năm Nhâm Thìn 2022):
“Đầu
mùa Xuân năm 1971, các chuyên viên của National Iranian Oil Company (NIOC) đến
Saigon và làm việc với chuyên viên của UBQGDH… Trong ba tuần lễ, các chuyên
viên Iran đã kể cho chúng tôi nghe nguồn gốc và tiến hóa của chế độ đặc nhượng
dầu hỏa ở Trung Đông. Họ trình bày chi tiết những tranh chấp với các công ty
dầu, ngay từ những năm đầu khởi công, tiếp tục qua việc thành lập OPEC năm 1960
(Organization of Petroleum Exporting Countries) mà Tổng trưởng Jamshid
Amouzegar của Iran là một người đề xướng thành lập. Nghe chuyện dầu khí họ kể
thấy còn hấp dẫn hơn là truyện Ngàn lẻ một đêm. Họ thẳng thắn trả lời các câu
hỏi của chúng tôi, không tỏ vẻ dấu giếm chuyện gì cả.
Họ
giúp soạn thảo một Hợp đồng đặc nhượng mẫu (Model Concession Agreement) để cùng
với Luật Dầu hỏa và các sắc lệnh, nghị định liên hệ sẽ làm căn bản cho hồ sơ
gọi thầu quốc tế. Chúng tôi thảo luận ngày này qua ngày kia cách thức và thủ
tục gọi thầu, và những đề mục (bid items) của đề cung (offer), sao cho phản ảnh
đúng những ưu tiên VNCH nhắm trong công cuộc tìm dầu, và sao cho việc thẩm
lượng, so sánh các đề cung được dễ dàng, minh bạch, tránh mâu thuẫn và mơ hồ…
Việc
giúp đỡ của các chuyên viên Iran thực sự đã rất hữu hiệu và bổ ích, (i) cho
chúng tôi những bài học sâu rộng về kỹ nghệ dầu khí và tương quan với công ty
dầu, (ii) soạn thảo một hợp đồng mẫu tiến bộ và đầy đủ, (iii) đúc kết những thủ
tục gọi thầu và chọn lựa đề mục đề cung, sau này giúp việc gọi thầu và chọn
thầu được suôn sẻ, nhanh chóng; (iv) xác nhận tiềm năng dầu khí sáng sủa ở
ngoài khơi, và (v) đã làm hết thảy công việc đó nhanh chóng vào đúng lúc mình
cần.”
Ban hành
luật số 011/70
Luật
Dầu hỏa VNCH được TT Thiệu ký và ban hành. Theo đó, thời gian các công ty
tìm kiếm dầu được quy định là 5 năm, có thể gia hạn thêm 5 năm; riêng thời
gian sản xuất là 30 năm, có thể gia hạn thêm 10 năm. Đạo luật quy định cụ thể
diện tích đặc nhượng tìm kiếm dầu hỏa, được chia thành từng nhượng địa, gọi là
“lô.” Mỗi nhượng địa không quá 20.000 km2. Mỗi công ty không được cấp quá 5
nhượng địa, tức không quá 100.000 km2.
Quy
định này là khôn ngoan vì giúp có nhiều công ty cạnh tranh với nhau cũng
như tránh dẫn đến tình trạng ngành dầu hỏa quốc gia phải phụ thuộc quá nhiều
vào sự độc quyền của một công ty quốc tế.
Tới
tháng 6/1971, Tổng
trưởng Kinh tế Phạm Kim Ngọc công bố sẽ cấp quyền đặc nhượng tìm
kiếm, thăm dò và khai thác dầu mỏ tại thềm lục địa với thể thức đấu thầu.
Toàn
bộ vùng này nằm trong thềm lục địa miền Nam Việt Nam, được chia thành 61 nhượng
địa, tức 61 lô. Trong đó 60 nhượng địa có diện tích tương đối bằng nhau, riêng
nhượng địa thứ 61 rộng hơn với tổng diện tích khoảng 300.000km2.
Kết
quả đo đạc địa vật lý năm 1970 của Công ty Ray Geophycical Madrel trên thềm lục
địa miền Nam Việt Nam để làm cơ sở cho các công ty đấu thầu.
Những
bước tiến về nỗ lực thăm dò, khai thác dầu hỏa của VNCH được đánh giá là rất
nhanh chóng so với các nước khác (với thời gian thăm dò kéo dài tới
10 năm).
Năm
1973, vừa hô lên đã có bao nhiêu hãng dầu quốc tế nhảy vào, bất chấp là tình
hình an ninh chưa ổn định. Hai vòng đấu thầu năm đó cũng đã mang lại được 17
triệu đôla. Giá trị về tâm lý của số tiền này còn lớn hơn gấp mấy lần. Năm
1974, người kế nhiệm ông Ngọc là Nguyễn Đức Cường, Tổng trưởng Thương
mại và Kỹ nghệ, lại thu được trên 30 triệu đôla do các hãng dầu nộp
thêm. Đây là số tiền tuy nhỏ nhoi nhưng thật quý giá vào lúc đó, khi
dự trữ của Ngân hàng Quốc gia VN chẳng còn bao nhiêu.
Chính
phủ cấp giấy phép cho sáu tổ hợp công ty dầu lửa được khai thác 13 địa điểm
trong một khu vực 82.000 cây số vuông. Đó mới chỉ là 16,4% của thềm lục địa.
https://ichef.bbci.co.uk/ace/ws/440/cpsprodpb/65c3/live/9ff005b0-c496-11ee-8685-316409d66f25.jpg
HÌNH
1 : VNCH phân lô cho những hãng trúng thầu
Vết
sáng trên bầu trời ảm đạm
Mùa
Hè 1974, giữa bối cảnh lạm phát phi mã và những tin tức bi đát về
viện trợ, lại có những tin vui được loan đi liên tục. Các hãng thăm dò
dầu lửa báo cáo đã thực sự tìm thấy dầu trên thềm lục địa. Ngày 17/8/1974, hãng
Pecten đào được dầu ở lô 08-TLD, đặt tên là HỒNG-1X.
Kết
quả cho thấy có dầu dưới độ sâu 1.374 mét. Rồi giếng thứ hai, DỪA 1-X, trong
cùng một diện tích lại tìm được khả năng dầu thô và dầu khí còn cao hơn. Thử
nghiệm cho thấy tất cả có hai nguồn: mỗi nguồn có khả năng khai thác ngay
1.514 thùng dầu thô mỗi ngày và 5,8 triệu thước khối (cubic feet) dầu khí.
Tới
tháng 10/1974, hãng Mobil khoan giàn BẠCH HỔ 1 (White Tiger), tại lô 04-TLD,
xác định là thực sự có "lượng dầu quan trọng" dưới độ sâu trên
2,7 cây số (9.000 feet).
Rồi Bạch Hổ tiếp tục
thử nghiệm ở độ sâu trên 9.000 feet cho thấy khả năng của túi
dầu có thể khai thác là 2.400 thùng dầu thô (3.400 lít) và 25.000 thước
khối dầu khí một ngày.
Hãng
Marathon và Union Texas quyết định khoan giếng đầu tiên vào cuối 1974.
Một
sự trùng hợp lạ lùng: hai hãng Esso và Sunningdale có kế hoạch khoan dầu –
lại đự định đào dầu vào chính ngày 30 tháng Tư 1975.
Dựa
trên báo cáo của các hãng tìm dầu, khả năng xuất cảng được ước tình là
vào năm 1977 VNCH sẽ có thể xuất cảng dầu lửa từ 6 giàn khoan với số tiền là 1
tỷ USD mỗi năm - với giá dầu thô (vào lúc ấy) chỉ là 12 USD mỗi thùng.
Như
vậy là ông Trời đã gửi đến một vì sao cứu tinh? Đang khi xoay xở chỉ có 300
triệu đôla để mua xăng nhớt, tiếp liệu mà cũng không thành công, bây giờ có
khả năng là dầu sẽ mang tới cả tỷ đôla.
Ngoài
giá trị vật chất, nó còn có một giá trị tinh thần: số tiền này đã mang đến một
niềm hy vọng – dù chỉ là hy vọng dang dở - cho cả lãnh đạo lẫn người dân miền
Nam.
Khi
nộp đơn đấu thấu, dù các công ty chưa biết có thực sự đào được dầu hay không và
còn phải chi tiêu nhiều tiền cho công việc tìm kiếm, nhân sự, giàn khoan, mà họ
đã phải nộp tiền trước.
Như
vậy là chắc chắn lắm rồi? Miền Nam có thể nghĩ tới khả năng phát triển lâu dài
và bền vững.
https://ichef.bbci.co.uk/ace/ws/800/cpsprodpb/3fa0/live/4439ed10-c4ac-11ee-8685-316409d66f25.jpg
Mỏ
Bạch Hổ ngày nay
Ba
điểm đáng lưu ý về dầu khí
Trở
lại quá trình tìm kiếm dầu lửa, chúng tôi xin ghi lại nơi đây 3 điểm đáng lưu
ý:
1. Trong chuyến viếng
thăm giàn khoan dầu cùng với TT Thiệu, các chuyên gia còn cho biết rằng: Túi
dầu lửa lớn của VNCH ở quần đảo Trường Sa có ăn thông vào với túi dầu của
Indonesia. Như vậy, ta có thể hỏi liệu Indonesia – một trong những thành
viên của tập đoàn dầu lửa OPEC - đã và đang khai thác dầu lửa (và dầu khí)
của Việt Nam?
https://ichef.bbci.co.uk/ace/ws/705/cpsprodpb/a99d/live/0886ecb0-c497-11ee-ace0-c35c1b4f6d82.png
Ảnh
chụp vệ tinh đảo Trường Sa Lớn
2. Mùa Xuân 1975, hãng
GSI (Geophysical Service Incorporation (GSI) bắt đầu khảo sát dầu lửa ở vùng
Duyên hải miền Trung lên tới vĩ tuyến 17. Hai tàu được dùng vào công cuộc khảo
sát là DUNLAP và CECILE GREEN. Hãng GSI đã có kế hoạch bán tài liệu kỹ thuật về
kết quả khảo sát cho những hãng nào muốn tham gia tìm và đào dầu ở khu vực
này. VNCH cho GSI khảo sát với điều kiện sẽ phải chia 50% lợi nhuận thu được
cho chính phủ.
3. Có lần chúng tôi
được nghe một anh phi công trực thăng người Pháp nói: "Theo kinh
nghiệm làm việc cho các hãng dầu lửa nhiều năm, tôi thấy ở nơi nào có nhiều tôm
là có dầu lửa.” Tôi liền hỏi: “Vậy anh nghĩ Việt Nam có dầu ở đất liền
không?" Anh ta vui vẻ trả lời: |Tôi không biết rõ, nhưng tôi nghĩ rằng
các ông có dầu lửa ở Đồng bằng Cửu Long.”
Thực
hư không biết, nhưng đầu năm 1975, qua sự giới thiệu của Trung tướng Đặng Văn
Quang (Cố vấn Quân sự của TT Thiệu), đại diện của một hãng dầu lửa quốc
tế ở Hồng Kông (chúng tôi không nhớ tên) đã đến Bộ Kế hoạch để trình bày rằng
họ đã tìm thấy dầu khí ở vùng Đồng bằng Cửu Long. "Ở đâu?," tôi vội
vàng hỏi. "Chúng tôi không thể trả lời ông được, vì phải chi phí tốn kém
mới có những thông tin này." Họ đề nghị chính phủ hai điểm: thứ nhất, cho
công ty đào ngay mà không phải qua thủ tục đấu thầu, thủ tục hành chánh rườm
rà; và thứ hai, khi khai thác và xuất cảng được dầu thì sẽ chia đều 50%
giữa họ và Chính phủ.
Chúng
tôi báo cáo với TT Thiệu và ông chỉ thị phải xúc tiến ngay.
Tại
Bộ Kế hoạch, anh em hết sức vui mừng. Đặc biệt là Kỹ sư Nguyễn Kim
Cương, nguyên Tổng Giám đốc Ngân sách Ngoại viện. Vui mừng vì triển
vọng thành công của Kế hoạch Ngũ niên 1976-1980 là trông thấy. Kế
hoạch này nhằm tiến tới tự túc tự cường và hết còn phải phụ
thuộc vào “viện trợ Mỹ.”
Thế
nhưng niềm vui của ngày Tết Ất Mão đã qua mau. Nó như môt tia sáng đã
lóe lên rồi vụt tắt!
Tới
ngày 10/3/1975 thì những tiếng đại pháo đã vang rền trên bầu trời Ban
Mê Thuột, rồi tới Huế, Đà Nẵng, Xuân Lộc…
***
Nhìn
lại lịch sử, ta thấy ông Trời đã ban phát cho nhân dân Việt Nam một
tài nguyên lớn lao. “Tiền rừng” thì chẳng có là bao, nhưng “bạc biển”
thì cất kỹ ở ngay ngoài khơi.
Những
thành công ban đầu của VNCH đã dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của ngành
dầu lửa và dầu khí của Việt Nam ngày nay. Và mỏ dầu Bạch Hổ vẫn tiếp
tục đóng vai chủ lực. Trong những thập niên qua, xuất cảng dầu lửa
và dầu khí đã mang tới cả trăm tỷ đôla. Theo Statistica Reseach thì năm
2012, trị giá xuất cảng dầu đã lên tới 8,3 tỷ USD (cao nhất).
Ấy
là chưa kể túi dầu ở Trường Sa Lớn. Nếu như thông tin của chuyên gia
Mobil Oil về túi dầu của VN ăn thông với những mỏ dầu của Indonesia
(như đề cập trên đây) là chính xác thì thật là thiệt thòi cho Việt
Nam trong bao nhiêu năm qua.
Ngày
Tết Giáp Thìn, chúng ta cầu mong cho tiềm năng dầu lửa ở Trường Sa
sẽ mãi mãi thuộc về sở hữu của người dân Việt.
------------------------
Bài
viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, cựu Tổng
trưởng Kế hoạch VNCH từ năm 1973 đến 1975, phụ tá về tái thiết của Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu. Hiện định cư tại Hoa Kỳ, ông đã xuất bản các cuốn sách Khi Đồng minh tháo
chạy (2005) và Khi Đồng minh nhảy vào (2016).
.
TIN
LIÊN QUAN
Tập đoàn dầu khí
ConocoPhillips kiện VN - nguy cơ hay cơ hội?
4
tháng 7 năm 2019
Biển Đông: Phát hiện Mỏ
Kèn Bầu 'lớn nhất' lịch sử, VN có lo TQ can thiệp?
5
tháng 8 năm 2020
Nghị định chống thăm dò
dầu khí trái phép của VN có khả thi?
29
tháng 9 năm 2020
No comments:
Post a Comment