Nhìn lại xung đột năm 2022 và ngẫm về hòa bình trong năm mới -
Stephen M. Walt - Foreign Policy
Nguyễn Thị Kim Phụng, biên dịch
Bạn
không cần phải là một người theo chủ nghĩa lý tưởng thì mới muốn chấm dứt chiến
tranh.
Mỗi năm, mùa nghỉ lễ là khoảng thời gian ngắn ngủi mà chúng ta được
khuyến khích để nghĩ về hòa bình. Các bên tham chiến đôi khi sẽ tuyên bố ngừng
bắn vào thời điểm này, và các cộng đồng tôn giáo khác nhau trên khắp thế giới
được dạy bảo rằng theo đuổi và gìn giữ hòa bình là một nghĩa vụ thiêng liêng. Nếu
may mắn, hầu hết chúng ta sẽ dành một phần thời gian trong kỳ nghỉ lễ để tận hưởng
niềm vui bên bạn bè và gia đình, cố gắng gạt bản năng độc ác của loài người
sang một bên, dù là trong khoảnh khắc.
Thành thật mà nói: Năm 2022 không phải là năm của hòa bình. Ngoài cuộc
chiến tàn khốc và vô nghĩa ở Ukraine – một cuộc chiến không có dấu hiệu kết thúc
và nhiều khả năng sẽ còn tồi tệ hơn – xung đột bạo lực vẫn đang diễn ra ở
Yemen, Myanmar, Nigeria, Ethiopia, Syria, và nhiều nơi khác. Dù Tổng thống Mỹ
Joe Biden và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã có một cuộc gặp khá thân thiện
tại hội nghị thượng đỉnh G-20 ở Bali vào tháng 11, hai quốc gia hùng mạnh nhất
thế giới vẫn chia rẽ về một loạt các vấn đề quan trọng. Xét đến hiện trạng của
thế giới và mong muốn duy trì vị thế cường quốc hàng đầu của Mỹ, không có gì ngạc
nhiên khi Thượng viện nước mày vừa biểu quyết tăng 8% ngân sách quốc phòng.
Ngay cả các quốc gia trước đây từng theo chủ nghĩa hòa bình như Đức và Nhật
cũng đã thực hiện các bước để tái vũ trang trong năm 2022.
Đối với một người theo chủ nghĩa hiện thực như tôi, những diễn biến này
không có gì đáng ngạc nhiên. Bài học trung tâm của chủ nghĩa hiện thực là,
trong thế giới của các quốc gia độc lập, một thế giới không có chính quyền
chung, khả năng chiến tranh sẽ luôn hiện hữu, phủ bóng đen lên phần lớn những
gì các quốc gia đang làm. Và bởi vì chiến tranh vốn có tính hủy diệt và bất định,
nên những người theo chủ nghĩa hiện thực có xu hướng cảnh giác với các cuộc thập
tự chinh của chủ nghĩa lý tưởng, và thường lưu tâm đến nguy cơ đe dọa điều người
khác coi là lợi ích sống còn, dù có chính đáng hay không. Thành viên của mọi
trường phái hiện thực đều nhấn mạnh những bi kịch của một thế giới trong đó các
nhà lãnh đạo dễ mắc sai lầm bởi sự thiếu thông tin hoặc bởi ảo tưởng của chính
họ, nơi mà ngay cả những mục tiêu cao cả cũng có thể dẫn đến những kết quả đáng
tiếc.
Tuy nhiên, những người theo chủ nghĩa hiện thực và cả những người chỉ
trích họ đều không thể đơn giản giơ tay đầu hàng, tuyên bố rằng không thể làm
gì trước khả năng xảy ra xung đột nghiêm trọng. Chiến tranh giữa các quốc gia
và trong nội bộ các quốc gia đúng là mối nguy hiểm thường trực, nhưng thách thức
thực sự nằm ở việc đề ra và thực hiện các chính sách nhằm giảm thiểu rủi ro của
các cuộc chiến mới và giúp chấm dứt các cuộc chiến hiện tại. Vì lợi ích của hòa
bình, cũng như chi phí và rủi ro của chiến tranh chưa bao giờ lớn hơn lúc này,
chúng ta đang có một nhiệm vụ cấp bách hơn bao giờ hết trong lịch sử loài người.
Đầu tiên, về lợi ích. Nhiều người tin rằng sự phụ thuộc lẫn nhau về
kinh tế sẽ thúc đẩy hòa bình giữa các quốc gia và trong các quốc gia, một ý kiến
khiến người ta phải nghi ngờ sau cuộc xâm lược Ukraine của Nga. Có lẽ, đúng hơn
phải là điều ngược lại: Hòa bình làm cho sự phụ thuộc lẫn nhau trở nên khả thi
hơn, và cho phép chúng ta tận hưởng những lợi ích của trao đổi kinh tế với rủi
ro thấp hơn. Khi nguy cơ chiến tranh giảm xuống, các nhà đầu tư có thể chuyển vốn
sang các nước khác một cách an toàn; các chính phủ có thể bớt lo lắng về việc
liệu các đối tác thương mại có kiếm được nhiều tiền hơn họ trong việc trao đổi
thương mại hay không; các quốc gia có thể chào đón du khách và sinh viên nước
ngoài mà không còn ngần ngại rằng các đối thủ sẽ thu thập thông tin có thể được
sử dụng để làm hại họ; các chuỗi cung ứng phức tạp sẽ chứa ít rủi ro hơn; và mọi
người có thể theo đuổi lợi ích chung thay vì không ngừng cố gắng đạt lợi thế
tương đối. Việc không có đối đầu giữa các cường quốc đã tạo điều kiện thuận lợi
cho kỷ nguyên toàn cầu hóa gần đây, mang lại lợi ích to lớn cho nhân loại dù vẫn
còn nhiều khiếm khuyết. Và khi người ta không còn phải bàn cãi về chiến tranh,
các xã hội có thể cởi mở hơn trong việc trao đổi ý tưởng và bài học từ các nền
văn hóa khác với nền văn hóa của chính họ.
Tiếp theo là chi phí và rủi ro. Tất nhiên, điều quan trọng nhất là cái
giá phải trả về con người và kinh tế. Gần 200.000 người Ukraine và người Nga có
lẽ đã thiệt mạng hoặc bị thương kể từ khi chiến tranh bắt đầu, và hàng triệu
người tị nạn đã phải chạy trốn. Thiệt hại kinh tế đối với Ukraine là vô cùng khủng
khiếp, còn nền kinh tế Nga thì rơi vào suy thoái. Chiến tranh Ukraine cũng làm
trầm trọng thêm các vấn đề kinh tế và tình trạng thiếu lương thực ở nhiều quốc
gia khác. Tương tự, cuộc nội chiến (và sự can thiệp của Ả Rập Saudi) ở Yemen đã
giết chết gần 400.000 người và tàn phá một quốc gia vốn đã rất nghèo, trong khi
các cuộc xung đột dân sự ở châu Phi và Mỹ Latinh tiếp tục hủy hoại các khu vực
này và thúc đẩy làn sóng di cư ra bên ngoài.
Nhưng chi phí trực tiếp của xung đột chỉ là một phần của cái giá mà
thôi. Khi cạnh tranh giữa các quốc gia ngày càng gay gắt và nguy cơ chiến tranh
gia tăng, khả năng hợp tác ngay cả trong các vấn đề đôi bên cùng có lợi cũng sẽ
giảm đi. Ngày nay, nhân loại đang phải đối mặt với một loạt vấn đề nan giải,
bao gồm biến đổi khí hậu, đại dịch, và dòng người tị nạn gia tăng. Không vấn đề
nào trong số đó dễ giải quyết, và tất cả chúng đều có tầm quan trọng lớn hơn việc
ai sẽ cai trị Crimea, Đài Loan, hay Nagorno-Karabakh. Càng nhiều quốc gia tham
chiến, hoặc càng dành nhiều thời gian, công sức, và tiền bạc để chuẩn bị cho
chiến tranh, thì càng khó giải quyết những vấn đề quan trọng này.
Ngoài ra, còn có rủi ro không thể tránh khỏi là chiến tranh sẽ leo
thang hoặc mở rộng. Các quốc gia luôn bị cám dỗ phải làm mọi cách để đạt được
chiến thắng (hoặc tránh thất bại), và các bên thứ ba thường tham gia sâu hơn mức
cần thiết do chủ ý hoặc vô tình. Rõ ràng, những mối nguy này đặc biệt đáng lo
ngại nếu chúng liên quan đến một quốc gia có vũ khí hạt nhân. Leo thang hạt
nhân dù cực kỳ khó xảy ra, nhưng sẽ thật liều lĩnh nếu chúng ta loại bỏ hoàn
toàn khả năng đó. Đây không phải một lập luận để kêu gọi hòa bình, nhưng là lý
do mạnh mẽ để chúng ta muốn có hòa bình hơn chiến tranh.
Rất dễ để đổ lỗi rằng sự kiêu ngạo và điên rồ của
những kẻ chuyên chế đã khiến loài người không thể đạt được hòa bình, và rõ ràng
không hề thiếu những kẻ như thế trong năm nay. Tổng thống Nga Vladimir Putin
có thể có lý do chính đáng để lo lắng về việc NATO mở rộng và tác động của nó đối
với an ninh của Nga, nhưng “giải pháp” của ông cho những lo ngại đó đã gây ra
hàng ngàn cái chết vô tội, để lại nỗi đau rất lớn, nhưng lại chẳng khiến nước
Nga mạnh hơn hay an toàn hơn. Có thể nói điều tương tự với sự can thiệp của
Thái tử Ả Rập Saudi Mohammed bin Salman vào Yemen, hay các cuộc đàn áp tàn bạo
do chế độ ở Iran và chính quyền quân sự ở Myanmar thực hiện. Nhưng trước khi bạn
kết luận rằng vấn đề nằm ở chế độ chuyên chế, hãy nhớ rằng các nền dân chủ hùng
mạnh đôi khi cũng sụp đổ dưới sự kết hợp nguy hiểm của thói hoang tưởng và sự
ngạo mạn, như cựu Tổng thống Mỹ George W. Bush, Phó Tổng thống Dick Cheney, và
những phụ tá của họ đã thể hiện vào năm 2003.
Tôi không có công thức nào để đạt hòa bình vĩnh viễn, nhưng tôi có một
quan sát. Một đặc điểm nổi bật của hầu hết các cuộc chiến gần đây là mức độ thường
xuyên phản tác dụng đối với các quốc gia khơi mào chúng. Đã qua rồi cái thời
các cường quốc có thể phát động một cuộc chiến lớn và đạt được những thắng lợi
chiến lược lớn – như Nhật Bản đã làm với Nga năm 1905, hay nước Phổ của
Bismarck đã làm trong các cuộc chiến thống nhất nước Đức. Cựu Tổng thống Iraq
Saddam Hussein đã tấn công Iran và xâm chiếm Kuwait, nhưng đều thua đậm cả hai
lần. Mỹ đã xâm lược Iraq và Afghanistan, rồi kết thúc trong vũng lầy tốn kém,
trong khi sự can thiệp của nước này vào Libya vào năm 2011 đã tạo ra một nhà nước
thất bại. Sự can thiệp của Israel vào Lebanon đã dẫn đến một cuộc chiếm đóng
kéo dài 18 năm, với hồi kết chẳng khá hơn nỗ lực lâu dài của Mỹ ở Afghanistan
là bao. Cuộc tấn công của Serbia vào Kosovo cuối cùng đã dẫn đến việc nhà lãnh
đạo Serbia Slobodan Milosevic bị buộc tội là tội phạm chiến tranh và bị phế truất.
Thật vậy, gần đây, dường như không có nhiều ví dụ cho thấy quyết định bắt đầu
chiến tranh sẽ mang lại kết quả xứng đáng cho bên phát động cuộc chiến. Chẳng hạn,
chiến dịch của Ethiopia chống lại Mặt trận Giải phóng Nhân dân Tigray có thể đã
kết thúc bằng một thỏa thuận hòa bình có lợi cho chính phủ, nhưng cuộc chiến đã
làm hoen ố đáng kể danh tiếng của Thủ tướng Ethiopia Abiy Ahmed.
Việc khơi mào chiến tranh hiếm khi đem lại lợi ích tương xứng đã cho
chúng ta biết một điều quan trọng về thế giới hiện đại: chủ nghĩa dân tộc, liên
lạc ngoại giao nhanh chóng, một thị trường vũ khí quốc tế phát triển vốn có thể
thúc đẩy các phong trào kháng chiến, các chuẩn tắc chống xâm lược dù không hoàn
hảo nhưng được chấp nhận rộng rãi, ảnh hưởng nghiêm trọng của vũ khí hạt nhân,
và xu hướng mạnh mẽ của các quốc gia nhằm cân bằng chống lại các mối đe dọa – tất
cả đã kết hợp với nhau để làm cho hầu hết các cuộc chiến trở thành một đề xuất
đáng ngờ đối với bên khởi xướng. Điều này vẫn chưa chấm dứt cạnh tranh quốc tế
– điều còn lâu mới kết thúc – nhưng dường như có những giới hạn thực sự đối với
những gì mà các quốc gia, thậm chí là các cường quốc hùng mạnh, có thể đạt được
bằng cách phát động chiến tranh.
Vì vậy, thông điệp nhân dịp lễ mà tôi muốn gửi đến các nhà lãnh đạo thế
giới là: Bằng mọi cách, hãy duy trì lực lượng phòng vệ có đủ khả năng bảo vệ
lãnh thổ của bạn nếu bạn chẳng may bị tấn công, hoặc đủ khả năng giúp đỡ một đồng
minh chủ chốt nếu điều gì đó tương tự xảy ra với họ. Đồng thời, hãy tự hỏi liệu
chính sách đối ngoại và an ninh của quốc gia bạn có thể vô tình xâm phạm lợi
ích sống còn của quốc gia khác hay không. Nếu đúng như vậy, hãy cân nhắc liệu bạn
có thể làm gì để giảm thiểu vấn đề mà không khiến đất nước của mình bị tổn
thương. Hãy khám phá khả năng đó cùng với đối thủ của mình một cách chân thành
và cởi mở – việc làm đó có thể mang lại hiệu quả.
Quan trọng nhất: Nếu một trong những cố vấn của bạn bắt đầu cố gắng thuyết
phục rằng bạn có thể giải quyết một số vấn đề chính trị bằng cách phát động một
cuộc chiến, và nếu họ nói với bạn rằng các điều kiện đang là tối ưu, tình hình
đã chín muồi, thời điểm là rất thích hợp, cái giá phải trả sẽ thấp, rủi ro
không đáng kể và đã đến lúc hành động, hãy lịch sự cảm ơn vì lời khuyên của họ
và ngay lập tức tìm kiếm một ý kiến khác. Nhân tiện, hãy dành thời gian suy
nghĩ về tất cả các nhà lãnh đạo trước đây đã tham chiến với niềm tin chiến thắng,
và những người đáng ra đã có kết thúc tốt đẹp nếu lựa chọn hòa bình.
--------------------------
Stephen
M. Walt là
chuyên gia bình luận tại Foreign Policy và là giáo sư quan hệ quốc tế tại Đại học
Harvard.
Nguồn: Stephen M. Walt, “The Realist
Guide to World Peace,” Foreign Policy, 23/12/2022
No comments:
Post a Comment