Tội
lợi dụng các quyền tự do dân chủ – một điều luật hoàn toàn thừa thãi
TRỊNH HỮU LONG - Luật
Khoa
29/03/2022
Nhưng lại rất cấp
thiết để bảo vệ quyền lực độc tôn của chính quyền Đảng Cộng sản.
Ảnh: Reuters. Đồ họa: Luật Khoa
Có hằng hà sa số điều luật có vấn đề nghiêm trọng
trong Bộ luật Hình sự nói riêng và luật Việt Nam nói chung, nhưng Điều 331 của
Bộ luật Hình sự là một điều luật có vấn đề… đặc biệt nghiêm trọng.
Nó đặc biệt nghiêm trọng vì nó hoàn toàn thừa
thãi.
Ta hãy đọc nguyên văn điều luật này: [1]
Điều
331. Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền,
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân |
Thoạt nghe, điều luật này có vẻ… có lý. Xâm phạm
lợi ích của người khác thì phải bị trừng phạt chứ.
Vậy thì ta hãy xem lý do tại sao cần phải có
luật.
Về cơ bản, luật được sinh ra để làm hai việc:
quy định những gì công dân không được làm và những gì chính
quyền được làm.
Pháp luật hiện đại được xây dựng dựa trên giả
định rằng “tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền
mưu cầu hạnh phúc”, như Tuyên ngôn Độc lập Mỹ 1776 đã nói và được Hồ Chí Minh
trích dẫn trong Tuyên ngôn Độc lập 1945 do chính ông soạn thảo và đọc. Giả định
này xuất phát từ thuyết luật tự nhiên, do các triết gia Khai Sáng ở châu Âu
phát triển vào thế kỷ 17 – 18. [2] Theo đó, chỉ cần là con người được sinh ra
là đã nghiễm nhiên có quyền tự do chứ không cần ai ban phát. Ban phát quyền là
giả định phổ biến trong các xã hội quân chủ – một loại hình xã hội xoay quanh một
cá nhân hay một dòng họ.
Vì con người có sẵn quyền tự do như vậy, họ có
thể lạm dụng quyền đó để gây hại cho người khác. Nếu ai cũng có quyền tự do tuyệt
đối thì hậu quả là một xã hội loạn lạc. Nhà nước vì vậy được sinh ra để thiết lập
trật tự xã hội thông qua một khế ước xã hội (social contract), hoặc ít nhất là
các triết gia Khai Sáng đã nghĩ như vậy và đặt nền tảng cho nhà nước hiện đại.
[3] Cái nhà nước đó sẽ ban hành ra pháp luật để hạn chế bớt quyền tự do của mỗi
cá nhân, đặt ra những điều cấm, biến tự do thành những quyền tương đối.
Chẳng hạn, anh/ chị có quyền tự do ngôn luận,
nhưng quyền đó sẽ bị giới hạn trong các trường hợp vu khống, tung tin đồn thất
thiệt về dịch bệnh, kích động bạo lực tức thì, v.v.
Hoặc, anh/ chị có quyền biểu tình, nhưng phải
thông báo/ đăng ký với chính quyền và chỉ được biểu tình ở ngoài những khu vực
cấm.
Hoặc, anh/ chị có quyền sở hữu tài sản, nhưng
tài sản đó có thể bị nhà nước trưng dụng cho những mục đích an ninh, quốc phòng
khi có lý do hợp lý và có bồi thường thỏa đáng; việc sử dụng tài sản cũng bị giới
hạn trong trường hợp gây ảnh hưởng tới môi trường; và, gần gũi nhất, nhà nước
có quyền khám xét mảnh đất, ngôi nhà bạn sở hữu khi điều tra tội phạm, v.v.
Nếu bạn vi phạm những điều cấm hoặc không tuân
thủ những giới hạn trên, bạn có thể phải chịu chế tài (và chế tài này cũng
không nhất thiết phải là tù tội trong luật hình sự).
Mọi giới hạn và can thiệp của nhà nước, về
nguyên tắc, phải thỏa mãn tiêu chí cần thiết, tức là có thể biện minh được bằng
những lý do hợp lý. [4] Chẳng hạn, nhà nước có quyền triệu tập nhân chứng để phục
vụ việc xét xử tại một phiên tòa hình sự.
Đó là cách tiếp cận của những người theo trường
phái nhà nước tối thiểu (minimal state). Dần dần, người ta xây dựng những mô
hình nhà nước lớn hơn, có mức độ can thiệp sâu hơn vào xã hội, giới hạn nhiều
quyền hơn, đánh thuế cao hơn và cung cấp nhiều dịch vụ hơn. Pháp luật khi đó
không còn chỉ là để ngăn chặn và trừng phạt các hành vi gây hại, bảo vệ tự do của
người dân, mà còn để phân phối của cải và cung cấp những phúc lợi gia tăng cho
người dân. Đó là mô hình nhà nước phúc lợi (welfare state). [5]
Nhưng dù là nhà nước tối thiểu hay nhà nước
phúc lợi, căn bản pháp luật vẫn dựa trên nguyên lý đã nêu ở đầu bài: mọi người
đều nghiễm nhiên có quyền tự do, luật được đặt ra để giới hạn các quyền tự do
đó, ngăn chặn hoặc trừng phạt những hành vi xâm hại đến lợi ích của người khác
hoặc của xã hội.
Và đó chính là nội dung của… Điều 331.
Ta hãy đọc lại điều luật đó: “Người nào lợi
dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự
do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thì bị…”.
Nói cách khác, Điều 331 này cõng trên lưng
toàn bộ chức năng gốc và căn bản của cả một hệ thống pháp luật. Bản thân nó
không giải quyết một vấn đề xã hội nào cụ thể cả, mà nó chính là triết lý chung
đằng sau tất cả những đạo luật. Nó là tuyên ngôn chung của mọi hoạt động lập
pháp để giải quyết các vấn đề pháp lý của xã hội, chứ nó không phải là một điều
luật như điều khoản về tội giết người, tội cướp tài sản, hay tội gây rối trật tự
công cộng.
Đó cũng chính là lý do mà nhiều người đã nhận
xét rằng điều luật này mơ hồ, không rõ ràng. Làm sao rõ ràng được khi nó không
giải quyết một vấn đề cụ thể mà chỉ có ý nghĩa tuyên ngôn về triết lý lập
pháp?
Đến đây, ta sẽ thấy vì Điều 331 không giải quyết
một vấn đề cụ thể nào nên nó không có lý do để được sinh ra. Nó hoàn toàn thừa
thãi.
Vậy thì tại sao nó
vẫn được sinh ra?
Tôi xin đề xuất hai điều để lý giải chuyện
này.
Một, chính quyền Việt Nam và
Đảng Cộng sản cần một công cụ hình sự để bảo vệ quyền lực của chính nó khỏi những
mối đe dọa từ xã hội, chẳng hạn như những lời chỉ trích, những cuộc biểu tình,
những hội đoàn độc lập. Chính vì thế, họ đặt ra những tội an ninh quốc gia như
tội tuyên truyền chống nhà nước, tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân
dân.
Nhưng những điều luật an ninh quốc gia này nặng
tính chính trị, thường bị quy cho là tội chính trị, và do đó, những ai bị truy
cứu theo những tội danh này cũng được gọi là tội phạm chính trị, và những vụ án
đó được gọi là vụ án chính trị. Là một đảng từng tranh đấu để loại bỏ ách nô lệ
và những vụ án chính trị như vậy, Đảng Cộng sản không muốn mang tiếng là một kẻ
cai trị tương tự như người Pháp. Do đó, họ cần tạo ra một điều luật ít tính
chính trị hơn, nằm ngoài nhóm tội an ninh quốc gia. Và tội lợi dụng các quyền tự
do dân chủ ra đời, nằm trong nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính –
nghe nhạt nhẽo hơn nhiều.
Hai, chính quyền và Đảng Cộng
sản cần một điều luật có phạm vi áp dụng đủ rộng để họ muốn diễn giải thế nào
cũng được, phù hợp với nhiều mục đích. Vì thế, họ tạo ra một điều luật có phạm
vi rộng tới mức không thể rộng hơn, như tôi đã trình bày ở bên trên: nó cõng
toàn bộ chức năng gốc và căn bản của hệ thống pháp luật. Với phạm vi điều luật
lớn như vậy, về lý thuyết, họ có thể diễn giải nó thành bất kỳ cái gì và lấn át
cả chức năng của các điều luật khác.
Chẳng hạn, muốn trừng phạt một người vì bịa
chuyện nói xấu một người khác, họ có thể dùng Điều 331 và như vậy vô hình trung
vô hiệu hóa một điều luật sẵn có là tội vu khống.
Hoặc, muốn trừng phạt những người biểu tình
bên ngoài các khu vực cho phép, gây tắc nghẽn giao thông, họ cũng có thể dùng
Điều 331 và phớt lờ một tội danh sẵn có là tội gây rối trật tự công cộng.
Tuy nhiên, bằng cách gom tất cả những hành vi
và khái niệm này với nhau, nhà nước Việt Nam có một tập hợp những vi phạm không
lằn ranh, không giới hạn, không cần phân biệt mà cũng không thể giải thích.
“Bịa chuyện nói xấu sai sự thật” hay đơn thuần
chỉ là vài ngôn từ thô lỗ vô thưởng vô phạt?
“Gây tắc nghẽn giao thông” hay đơn thuần chỉ
là một buổi tuần hành trên vỉa hè gây chướng mắt nhà chức trách?
Tất cả là tùy hứng của cơ quan chức năng. Luật
pháp vốn dĩ cần phải định nghĩa rõ ràng những gì công dân không được làm và những
gì nhà nước được làm – với triết lý ngầm định là nhằm bảo vệ quyền tự do của
người dân và giới hạn quyền lực nhà nước – thì nay biến thành một công cụ vạn
năng với khả năng diễn giải vô hạn cho nhà nước.
Và sự thật cho thấy Điều 331 đang đóng vai trò
gần như tương tự Điều 117 – tội tuyên truyền chống nhà nước và Điều 156 – tội
vu khống. Nó được dùng để truy cứu những ai chỉ trích chính quyền/ quan chức
chính quyền/ những ai thân cận với chính quyền.
Như vậy, Điều 331 có thể thừa thãi với công
dân, chứ không thừa thãi với quan chức. Đó là khi ta biết quan chức và chính
quyền nói chung có địa vị pháp lý cao hơn thường dân. Trong lịch sử, đó chính
là triết lý cốt lõi, nền tảng để xây dựng nên các chính quyền quân chủ.
Chú thích :
1. thuvienphapluat.vn. (2017). Văn
bản hợp nhất 01/VBHN-VPQH 2017 Bộ luật Hình sự. Thuvienphapluat.vn.
2. natural law | Definition, Theory,
Ethics, Examples, & Facts | Britannica. (2022). In Encyclopædia
Britannica.
https://www.britannica.com/topic/natural-law
3. social contract | Definition,
Examples, Hobbes, Locke, & Rousseau | Britannica. (2022). In Encyclopædia
Britannica.
https://www.britannica.com/topic/social-contract
4. 4 Permissible limitations of the
ICCPR right to freedom of expression | Australian Human Rights Commission.
(2013). Humanrights.gov.au.
https://humanrights.gov.au/our-work/4-permissible-limitations-iccpr-right-freedom-expression
5. neoliberalism | Definition, Ideology,
& Examples | Britannica. (2022). In Encyclopædia Britannica.
https://www.britannica.com/topic/neoliberalism
No comments:
Post a Comment