Sunday, March 24, 2019

ANH HÙNG HỒ NGỌC CẨN (Trần Khải)




24/03/2019

Chúng ta đang bước vào tuần lễ cuối của tháng 3... Trong tuần cuối tháng 3, không chỉ là những ngày dân quân Miền Nam liên tục di tản về phía Nam, nhưng cũng có một ngày để ghi nhớ: sinh nhật Đại tá Hồ Ngọc Cẩn, người vẫn cầm súng tác chiến nhiều tuần lễ sau ngày 30/4/1975.

Đại tá Hồ Ngọc Cẩn sinh ngày 24 tháng 3 năm 1938 tại Rạch Giá, Việt Nam. Bị CSVN xử tử ngày 14 tháng 8, 1975 (hưởng dương 37 tuổi) tại Cần Thơ, Việt Nam.

Binh nghiệp: hai mươi năm tác chiến, tại ngũ 1955-1975.

Cấp bậc: Đại tá Lục quân VNCH.

Tự điển bách khoa mở Wikipedia ghi rằng anh hùng Hồ Ngọc Cẩn (1938 - 1975), nguyên là một sĩ quan Bộ binh cao cấp của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Đại tá. Ông xuất thân từ trường Thiếu sinh quân và tốt nghiệp khóa Sĩ quan Hiện dịch Đặc biệt tại Trường Hạ sĩ quan Đồng Đế, Nha Trang vào đầu thập niên 60, và là Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng một tỉnh thuộc Quân khu 4 vào giai đoạn cuối Chiến tranh Việt Nam.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, mặc dù có lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh từ Sài Gòn kêu gọi buông súng, ông vẫn tiếp tục chiến đấu chống lại lực lượng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam vào tiếp quản. Hết đạn, ông bị bắt giam. Ngày 14 tháng 8 năm 1975, ông bị Chính quyền Cách mạng tử hình bằng cách xử bắn tại Sân vận động Cần Thơ.

Ông sinh ngày 24 tháng 3 năm 1938 tại xã Vĩnh Thanh Vân, Rạch giá, Kiên Giang, miền tây Nam phần Việt Nam. Thân phụ ông là một hạ sĩ quan trong Quân đội Quốc gia Việt Nam.

Năm 1945, khi Hồ Ngọc Cẩn bắt đầu đi học Tiểu học thì Chiến tranh Pháp-Việt Minh bùng nổ, nên sự học bị gián đoạn một thời gian ngắn. Đến năm 1947 ông mới tiếp tục đi học trở lại.

Năm 1951, thân phụ nộp đơn xin cho ông nhập học trường Thiếu sinh quân Đệ nhất quân khu ở Gia Định. Ông được thu nhận vào lớp nhất (lớp 5 hiện nay) niên khóa 1951-1952 và thi đậu Tiểu học vào cuối niên học. Ông tiếp tục học lên hệ Trung học theo giáo trình Pháp, song song với chương trình Phổ thông ông cũng được đào tào căn bản về lĩnh vực quân sự. Cuối năm 1952, trường sở chuyển từ Gia Định về Mỹ Tho. Ông tiếp tục theo học ở đây cho đến hết niên học đệ tứ (lớp 8 hiện nay).

Tháng 8 năm 1955, ông tốt nghiệp Trung học đệ nhất cấp và được cấp "chứng chỉ tốt nghiệp" tương đương với văn bằng Thành chung. Ngay sau đó ông được gửi lên học tại Liên trường Võ khoa Thủ Đức, chuyên ngành "vũ khí" (niên khóa 1955-1956). Sau 3 tháng, ông đậu chứng chỉ chuyên môn về vũ khí bậc nhất với hạng ưu. Sáu tháng sau đó, ông lại đậu chứng chỉ bậc nhì.

...Ông được nhập học khóa 2 Nhân Vị ở trường Hạ sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hòa tại Đồng Đế, Nha Trang, khai giảng ngày 27 tháng 2 năm 1961. Ngày 31 tháng 1 năm 1962 mãn khóa tốt nghiệp với Cấp bậc Chuẩn úy hiện dịch. Ra trường, ông được chọn về Binh chủng Biệt động quân, tiếp tục được cử theo học một khóa huấn luyện đặc biệt đào tạo cán bộ Biệt động quân và khóa "Rừng núi Sình lầy" tại Trung tâm Huấn luyện Biệt động quân Dục Mỹ (Ninh Hòa) trong thời gian 4 tháng rưỡi.

Giữa năm 1962 mãn khóa học ở Dục Mỹ, ông được chuyển về Tiểu đoàn 42 Biệt động quân, đồn trú và hoạt động tại khu vực Đồng bằng sông Hậu Giang thuộc Khu 42 chiến thuật với chức vụ Trung đội trưởng.

Ngày Quốc khánh của Chính thể Đệ nhất Cộng hòa 26 tháng 10 năm 1962, ông được đặc cách tại mặt trận thăng cấp Thiếu úy và được cử giữ chức vụ Đại đội trưởng. Do lập được nhiều công lao nên chỉ một thời gian ngắn, sau cuộc Chỉnh lý nội bộ ngày 30 tháng 1 năm 1964 của tướng Nguyễn Khánh, ông được đặc cách thăng cấp Trung úy và lên giữ chức vụ Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 42 BĐQ. Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1965, lần thứ ba ông được đặc cách tại mặt trận thăng cấp Đại úy tại nhiệm.

Đầu năm 1966, ông rời khỏi đơn vị Biệt động quân, nhận sự vụ lệnh chuyển sang Sư đoàn Bộ binh ông được cử làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Tiểu đoàn 1, thuộc Trung đoàn 33 của Sư đoàn 21 Bộ binh.

-Vào thời điểm (1962-1966), tại chiến trường khu vực miền Tây Nam phần có 5 vị Tiểu đoàn trưởng can đảm, lập nhiều chiến công hiển hách. Khi chạm địch, họ điều quân chiếm mục tiêu nhanh chóng. Khi dừng quân, họ hòa mình vui sống với chiến sĩ và đồng bào. Do đó, quân dân miền Tây đã vinh danh họ với 4 chữ "Ngũ Hổ Miền Tây". Sự kiện này không những đã lan truyền trên khắp cả Vùng 4 chiến thuật mà quân dân toàn miền Nam đều nghe và biết đến họ:

-Năm vị Tiểu đoàn trưởng có tên như sau:

1 -Hồ Ngọc Cẩn (Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 42 Biệt động quân. Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 33, Sư đoàn 21 Bộ binh).

2 -Lê Văn Hưng (Đại úy Tiểu đoàn phó (1964), rồi Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng (1965) Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 31, Sư đoàn 21 Bộ binh.

3 -Lưu Trong Kiệt (Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 42 Biệt động quân).

4 -Nguyễn Văn Huy (Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 44 Biệt động quân).

5 -Vương Văn Trổ (Đại úy Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 33, Sư đoàn 21 Bộ binh).

Giữa năm 1968, nhờ có nhiều công lao trong Mặt trận tết Mậu Thân tại khu vực đơn vị trấn đóng, ông được thăng cấp Thiếu tá tại nhiệm.

Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1970, ông được thăng cấp Trung tá, chuyển sang Sư đoàn 9 Bộ binh, ông được chỉ định làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 15, đơn vị cơ hữu của Sư đoàn. Năm 1972, ông cùng Trung đoàn 15 được lệnh tham gia giải vây mặt trận An Lộc, Bình Long. Sau thành tích này, ông được thăng cấp Đại tá và được tặng thưởng một số huy chương. Cuối năm 1973, ông được bổ nhiệm làm Tỉnh trưởng, kiêm Tiểu khu trưởng tỉnh Chương Thiện.

Trận chiến cuối cùng...

Ngày 1 tháng 5 năm 1975, không tuân lệnh của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh ra lệnh từ Sài Gòn kêu gọi buông súng đầu hàng, ông vẫn tiếp tục chỉ huy đơn vị trực thuộc chiến đấu đến cùng chống lại lực lượng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam vào tiếp quản Tiểu khu. Hết đạn, ông bị quân CSVN bắt tại mặt trận. Sau đó, ông bị biệt giam tại nhà tù Cần thơ 3 tháng rưỡi.

Ngày 14 tháng 8 năm 1975, CSVN tuyên án tử hình ông và đưa ông ra xử bắn tại sân vận động Cần Thơ. Ông mất khi mới 37 tuổi.

Huy chương

-Bảo quốc Huân chương đệ tứ đẳng.

-Hai mươi lăm Anh dũng Bội tinh với nhành Dương liễu

-Ba Chiến thương Bội tinh

-Hai Huy chương Hoa Kỳ.

Gia đình

Phu nhân: Bà Nguyễn Thị Cảnh, sinh năm 1941 tại Thủ Đức, Gia Định. Kết hôn với Đại tá Cẩn khi ông còn là một viên Hạ sĩ quan vào năm 1959. Bà mới chỉ có một người con trai duy nhất với ông. Sau khi ông mất, bà đã ở vậy nuôi con thờ chồng. Hiện nay đang cùng con cháu định cư ở Hoa Kỳ.

Trân trọng tưởng niệm anh hùng Hồ Ngọc Cẩn.





No comments:

Post a Comment