Nguyễn
Thu Quỳnh tường thuật buổi nói
chuyện của Ts Nguyễn Thị Hậu
17-4-2018
Tường
thuật buổi nói chuyện ngày 14-4-2018 của TS. Nguyễn Thị Hậu “Sài Gòn –
nhìn từ một người giao hòa Nam – Bắc” do Tia Sáng tổ chức trong khuôn
khổ chuỗi hoạt động thường kỳ đưa khoa học và nghệ thuật đến công chúng.
*
Sài
Gòn, vẫn được cho là “vùng đất mới”, được khai phá bởi những lưu dân từ phía Bắc
vào. Dường như đó mới là cái nhìn một cách quá vội vã, của “kẻ khác” – từ bên
ngoài, về không gian văn hóa đa dạng này. Và cái nhìn đó đã dẫn tới nhiều hệ lụy
trong phát triển, bảo tồn văn hóa Sài Gòn, có thể gây ra những đổ vỡ, đứt gãy
đáng tiếc.
Trong
buổi nói chuyện “Sài Gòn –
nhìn từ một người ‘giao hòa Nam – Bắc’ ” vào ngày 14/4, TS. Nguyễn Thị Hậu,
người “sống với” Sài Gòn, hiểu và nhìn Sài Gòn đa chiều, từ sự “phân thân"
nhiều góc độ - nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa, xã hội – một người sống, chứng
kiến bao thăng trầm ở Sài Gòn ngót nửa thế kỷ - và một người “giao hòa Nam – Bắc”,
đã phân tích về những “định kiến” trong quan điểm phát triển Sài Gòn. Định kiến đầu tiên về Sài
Gòn, là coi đây có niên đại muộn, và thường bị “nhìn từ phía trung tâm ở Hà Nội”.
Tâm lý này thường thấy trong giới quản lý và thậm chí phổ biến ngay cả ở những
người nghiên cứu lịch sử văn hóa xã hội. Thứ hai, Sài gòn luôn bị coi, bị gắn vai trò lớn
nhất là kinh tế. Thứ ba,
trong khoảng vài chục năm gần đây, người Nhập cư vào Sài gòn quá nhiều, rất
nhanh. Tầng lớp cư dân mới này không thể đặt mình vào tâm thức của người Sài
Gòn đã sinh sống lâu ở đây, và càng không thể đặt mình vào tâm thức của người
Sài Gòn đã đi khỏi Sài Gòn từ lâu nên khó lòng hiểu được những giá trị văn hóa,
những di sản của Sài Gòn.
Ba
định kiến đó khiến cho những di sản bị thay mới, bị phá bỏ một cách tiêu cực,
nhanh chóng hơn bao giờ hết. Bởi vì chỉ nhìn Sài Gòn là “muộn”, là “mới” thì sẽ
dẫn tới tâm lý lướt qua, không thừa nhận những giá trị đã tồn tại lâu bền. Đồng
thời, khi đặt nặng vai trò kinh tế của Sài Gòn, thì tất cả những yếu tố khác chỉ
là thứ yếu. Ví dụ gần đây nhất là khu vực Thủ Thiêm, vì chỉ được coi là vùng đất
mới, nên rất nhanh chóng, những xóm làng có hàng trăm năm lịch sử bị dẹp đi để
xây dựng khu đô thị mới mà không cần thời gian nghiên cứu, thẩm định giá trị
văn hóa.
Đồng
tình với TS Nguyễn Thị Hậu, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan cảnh
báo, Sài Gòn có thể sẽ trở thành một "thành phố không còn ký ức" nếu
không gìn giữ di sản kịp thời. Bà nói: “Bây
giờ người Sài Gòn có tiếc những cái cũ không? tiếc nhiều chứ! đã có một thời
gian nhiều người bạn tôi ở Sài Gòn kêu trời lên, rằng giờ Sài Gòn chẳng lẽ là một
thành phố không có ký ức nữa hay sao? Khi mà đem đập phá hết một lô những ngôi
nhà cũ, những chỗ rất đẹp, hoặc ngay cả đổi tên những con đường một cách vội
vã. Nhưng tôi muốn thật rằng, có muốn phá đi, và thay bằng những cái mới vào
như vậy cũng không áp đặt được đâu”.
Theo
bà, không thể coi đây là vùng đất mới về văn hóa, lịch sử, mà chỉ có thể coi
tính “mới”, vùng đất mới - vì đây là vùng đất “sẽ đang tiếp tục mở ra, sẽ phát
triển tiếp, chứ không phải là không có cái gì để mà giữ cho nó”. Bà nhấn mạnh: “không nên chỉ coi Sài Gòn là một trung tâm
kinh tế để mà coi kinh tế là số một. Mặc dù tôi là chuyên gia kinh tế nhưng
không bao giờ tôi coi kinh tế là số một. Mà văn hóa mới là cội rễ, cội nguồn. Nếu
vì kinh tế mà hi sinh văn hóa, chặt bỏ quá khứ thì đó là một sự thiển cận”.
Trước
những thực trạng đó, TS. Nguyễn Thị Hậu cho rằng, chính quyền có quyết định
quan trọng trong việc ứng xử sao cho phát triển được Sài Gòn một cách hài hòa với
bảo tồn những giá trị văn hóa, không đánh đổi vội vã để khiến nơi đây bị đứt gãy
một cách đột ngột. “Khi mà chính quyền
không có ý thức bảo vệ di sản, vẫn coi đây là vùng đất mới thì khó lòng có thể
bảo vệ được, đặc biệt là đằng sau họ lại là những nhà đầu tư luôn muốn phát triển
Sài Gòn vì lợi ích kinh tế”, bà nói.
Một số
ý kiến trao đổi
Khi
bước vào buổi nói chuyện, nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên giải
thích ngay chữ "giao hòa Nam Bắc" là từ mượn của cố GS Trần Quốc Vượng.
Khái niệm này còn được gọi là đan xen văn hóa, hỗn dung văn hóa, giao hòa văn
hóa, và cuối cùng, được sử dụng một cách phổ biến bởi giới nghiên cứu lịch sử
là "tiếp biến văn hóa".
TS.
Nguyễn Thị Hậu chia
sẻ, buổi nói chuyện này "chỉ là trải nghiệm cá nhân. Cũng không phải với
tư cách người nghiên cứu văn hóa, mà là những cảm nhận của người bên
trong". Đặc biệt là bà tránh sự so sánh, bởi vì văn hóa mỗi nơi có một đặc
điểm khác nhau. Và bởi vì sự phân biệt, kỳ thị, so sánh văn hóa Bắc Nam vẫn
luôn tồn tại, khiến người ta xa cách và không thể hiểu về văn hóa của nhau.
Bà
trình bày trong hơn một giờ đồng hồ, về những nét văn hóa đặc trưng của Sài
Gòn, thông qua cảm nhận cá nhân - đã được chia làm các thời kỳ khác nhau:
+
Thời kỳ đầu tiên với những ấn tượng về Sài Gòn của một người mới trở về từ miền
Bắc, chông chênh và "đôi lúc cảm thấy cô đơn trong xã hội Sài Gòn lúc đó
đang bị chia rẽ về mặt chính trị, còn mình thì lại có cảm giác bị cô lập, rất
nhớ về Hà Nội".
+
Thời kỳ thứ hai, tìm và hiểu về Sài Gòn, trong 20 - 30 năm, dưới góc độ nghề
nghiệp khai quật khảo cổ, làm bảo tàng nên rất hiểu về lịch sử văn hóa phía
Nam, rất hiểu về Sài Gòn, và bắt đầu có sự phản biện những quan điểm chưa thực
sự "thấu hiểu" và nhìn Sài Gòn như nó vốn có.
Bà
cũng nói về sự đa dạng văn hóa, tính mở và khoan dung trong đặc điểm văn hóa
Sài Gòn. Rằng: "người trong đó không có khái niệm “người Sài Gòn xịn/ gốc”
như ở Hà Nội vẫn nghĩ. Có lẽ, những người vào Sài Gòn, đa dạng nguồn gốc, tầng
lớp, khi vào đó sẽ thương yêu nhau, chấp nhận nhau, chứ không xa lánh, vì như
thế không thể tồn tại. Ở Sài Gòn, bạn không cần thay đổi tiếng nói, không cần
phải cố tỏ ra là người Sài Gòn".
Về
"tính cách" của Sài Gòn, "bên ngoài sự lạnh lùng của một đô thị
lớn, thì Sài gòn có những khoảng lặng, những người Sài Gòn vẫn nghe Bolero, bởi
vì có sự cô đơn, có lẽ cũng vì cơ tầng văn hóa của những người lưu dân".
TS
Nguyễn Thị Hậu tổng kết: "Số phận SG thăng trầm. Sài Gòn như một người đàn
ông từng trải, lịch lãm nhưng chân tình, đa cảm, trượng nghĩa, bao dung. Có
thể nói đây là những tính cách khá “dương tính”, “hướng ngoại”, như nhiều
nghiên cứu nhà văn hóa phân tích".
Họa
sỹ Lê Thiết Cương bổ
sung thêm phân tích của anh về "tính cách người đàn ông Hà Nội", một
"ông có chất âm, không phải là nơi sinh ra văn nhân tài tử, nhưng nó dưỡng
được văn nhân tài tử, là một cục nam chân hút tinh hoa về phía mình".
Nhà
văn Thái Kế Toại nhấn
mạnh rằng giao thoa văn hóa Nam Bắc ở Sài Gòn không phải khi nào cũng
"xuôi chèo mát mái". Đó là tình trạng sau giải phóng, khá căng thẳng
và có sự đổ vỡ quan hệ Nam Bắc do sự khác biệt quan điểm chính trị. Nhưng sau
này, cũng may là với sự phát triển của kinh tế xã hội, thì sự căng thẳng đó nhạt
dần đi, và bây giờ thì dấu ấn của nó cũng không còn nhiều nữa.
Nhà
phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên bổ sung thêm "tại thời điểm lịch sử
đó, sự khác biệt là có, bởi vì [đất nước] bị chia cắt, [Bắc Nam] là hai vùng
lãnh thổ, hai chính quyền, hai đời sống văn hóa khác nhau. Thậm chí, trước đây
chúng ta phủ nhận nhiều giá trị, nhưng nay thì đã có sự thay đổi, ví dụ như nói
là Việt Nam cộng hòa, quân đội của VNCH chứ không phải là “ngụy”. Tuy nhiên
chúng ta không bàn sâu về khía cạnh chính trị trên vùng đất này, mà chúng ta
bàn sâu dưới khía cạnh lịch sử, văn hóa. Chúng ta đang bàn tản mạn dưới khía cạnh
cá nhân, như là mỗi chúng ta đều có một Sài Gòn, một Hà Nội trong lòng vậy. Nếu
như ngoài này là khép, là đóng thì trong kia là mở, ngoài này là thâm trầm sâu
sắc, thì trong kia là phóng khoáng, hào hiệp".
Anh
Lê Quang Bình,
điều phối viên Understanding Vietnam Forum nhìn nhận dưới khía cạnh phát triển
xã hội "Có phải mối quan hệ giữa con người với cảnh quan tự nhiên đang nhẹ
đi hay không? Nên người ta chặt cây dễ hơn, phá hủy di sản dễ hơn? [Tương tự] với
Hà Nội, khi người Hà Nội liên kết, liên hệ mình với cảnh quan nhiều hơn, thì đó
có phải là cơ hội giữ gìn di sản tốt hơn không? Có thể thấy ví dụ qua phong
trào bảo vệ 6700 cây xanh ở Hà Nội chẳng hạn".
Anh
đã "suy nghĩ rất nhiều đến sức ép phát triển, đến sự đánh đổi của chúng ta
cho phát triển và tin rằng chỉ có thể bảo vệ được Hà Nội khi chúng ta yêu Hà Nội.
Chỉ bảo vệ Sài Gòn được khi yêu Sài Gòn."
Chuyên
gia kinh tế Phạm Chi Lan: "những biến thiên lịch sử của nước mình làm cho
phân biệt vùng miền nhiều, làm chúng ta trở nên xa cách nhau nhiều hơn. Cả sau
thống nhất đất nước cũng vậy, mình chưa làm tốt việc hòa nhập, hòa giải trở lại.
Mình rất hăng hái hòa nhập với thế giới bên ngoài, nhưng bên trong thì mình lại
không chịu. Cho đến bây giờ vẫn còn nhiều cái chúng ta chưa chịu hòa nhập với nhau,
không hòa giải được bên trong, cái đó nó rất đau, nó làm chúng ta cứ cách xa
nhau và nhiều khi phải có sự so sánh này khác. Đáng nhẽ ra, trong cả một chặng
đường rất dài hàng nghìn năm, chỉ có 20 năm chia cắt đất nước đâu phải là quá
dài, nhưng thực sự đau là 40 năm sau chiến tranh, chúng ta không xóa được những
khoảng cách của 20 năm trong nội bộ dân tộc mình. Đó là cái trở nên đau và là
trách nhiệm của rất nhiều người, trước hết là với những người có trách nhiệm quản
lý, rất tiếc là chúng ta đã không chìa tay ra được, như là cách tiếp cận của
ông Võ Văn Kiệt. Nhưng mà thôi, bây giờ cuộc sống cũng ngày càng khác đi rồi".
Bà
nói về tính "mở" của Sài Gòn và Hà Nội: " khó mô tả được hết
tính cách của con người. Nhưng mà sự cởi mở, chân thành, phóng khoáng, sẵn sàng
tiếp nhận, kể cả sự phê phán, một cách không thành kiến, thì người Sài Gòn hơn
hẳn so với những người ở phía Bắc hay Hà Nội. Người Sài Gòn có sự tự hào chứ,
nhưng không phải tự hào đến mức ngạo mạn đến mức coi thường nơi khác, trong tự
hào vẫn sẵn sàng chia sẻ, lắng nghe và tiếp nhận những cái hay cái mới ở những
nơi khác đưa về. Người Sài Gòn rất mở lòng với những người ở tất cả các nơi
khác đến, Sài Gòn luôn mở rộng cánh tay để đón mình vào, chứ không đẩy người mới
đến xa ra và kỳ thị mình là một người gây khó cho Sài Gòn.
Còn
người Hà Nội cũng có cách mở của mình. Chúng ta cũng nhớ rằng, vào thời Pháp,
Hà Nội chỉ có 200.000 dân, còn bây giờ cả chục triệu rồi. Nhưng Hà Nội vốn dĩ
chỉ có 200.000 thôi, số người đó đi Nam một phần sau năm 1954, di cư nơi khác một
phần. Số còn lại có còn bao nhiêu đâu, nói như vậy có nghĩa là Hà Nội rất mở,
tiếp nhận rất nhiều người ở các nơi khác về đây sinh sống. Nhưng tại sao Hà Nội
không có tiếng “mở” như Sài Gòn, có lẽ là đặc điểm văn hóa khác nhau, người Hà
Nội đôi khi thích sự nhẹ nhàng, kín đáo hơn."
Một
độc giả bày
tỏ "công việc chị đang làm có giá trị rất lớn, thì chị có nghĩ liệu bao giờ
có nhiều người hơn, đi tìm lại quá khứ, và sẽ tìm lại được gì trong 20 năm nữa?"
TS.
Nguyễn Thị Hậu:
"Không phải bây giờ chỉ có một mình chị đi tìm đâu. Mà các bạn trẻ ở sài
Gòn vẫn đang tiếp tục đi tìm quá khứ. Ví dụ, gần đây có trưng bày gần đây nhất
là trưng bày dinh Norodom cho đến dinh thống nhất, do các bạn trẻ cùng tham gia
làm - phần lớn trong đó là các bạn nhập cư mới tới Sài Gòn, đi tiên phong là
các kiến trúc sư, sau đó là các nhà bảo tồn sát cánh cùng."
Tuy
nhiên TS Nguyễn Thị Hậu hơi bi quan về tương lai của di sản ở đây sau 20 năm nữa.
Bởi vì, tuy đấu tranh để gìn giữ rất nhiều, nhưng văn hóa vẫn chỉ được coi là
thứ yếu. Chính vì vậy, bà sẽ tiếp tục viết về văn hóa Sài Gòn, không chỉ với tư
cách nhà nghiên cứu, mà viết tản văn, viết bằng tình yêu. Sài Gòn, để dễ
chạm vào tình cảm của những người yêu Sài Gòn.
GS.
Trần Ngọc Vương vẫn
giữ quan điểm Sài Gòn và Nam Bộ là vùng đất mới, mới được khai phá bởi nhà Nguyễn.
Ông nói: "Hậu nói rằng không nên coi Sài Gòn là vùng đất mới, không, Sài Gòn là vùng đất mới, và Nam Bộ là vùng đất mới so với toàn bộ lịch sử Việt Nam. Nếu không nhìn như thế sẽ không nhìn ra đặc điểm của Sài Gòn. Vùng đất mới chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới sự thu hút cư dân, và quá trình lập nghiệp ở đây".
Nhà
phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên bày tỏ quan điểm: " 'Mới' là từ
góc độ của miền Bắc, người Bắc nhìn vào, chứ không phải là mới thực sự, mà trước
đó đã có cư dân sống. Xưa nay chúng ta chỉ nghĩ nó mới có 300 năm thôi, còn trước
đó là các quốc gia khác như Phù Nam, Chân Lạp."
TS
Lê Thị Minh Lý,
Ủy viên Hội đồng Di sản Quốc gia, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu và phát huy giá
trị di sản lo lắng "Sài Gòn đúng là một thành phố có rất nhiều giá trị văn
hóa, nhưng thực sự là chúng ta chưa nhận diện đúng và có chính sach đúng. Ví dụ,
Sài Gòn chưa có kết quả kiểm kê văn hóa phi vật thể, đúng là không bao giờ có
thể kiểm kê hết di sản văn hóa phi vật thể được, nhưng ít nhất là chúng ta cũng
cần nghiên cứu và nhìn ra được có gì đang cần phải bảo tồn khẩn cấp chứ".
PGS.TS
Nguyễn Hoàng Ánh tiếc
và buồn vì sự phân biệt văn hóa vùng miền giữa Nam và Bắc "tại sao lại có
tâm lý đó? có cách nào xóa đi không? vì lý do gì mà chúng ta lại kỳ thị một
cách buồn bã đến vậy?"
Bà
Phạm Chi Lan chia sẻ:
"Tôi rất thích tản văn của chị Hậu viết, vì giúp tôi hiểu hơn về Sài Gòn,
nhưng tôi còn cảm nhận được cái hay hơn nữa là nó tác động với nhiều người Sài
Gòn đi ra ngoài, họ rất thích đọc những gì Hậu viết, vì khi đó họ thấy yêu, gắn
bó với Sài Gòn hơn nhiều. Qua đó, người ta thấy được, cuộc sống ở trong nước
đang trong dòng chảy của nó, nhưng những giá trị của Sài Gòn vẫn còn ở đấy, vẫn
còn được người dân Sài Gòn cũng như người dân trong nước giữ gìn, cố gắng bảo vệ
nó. Ngay cả cái tên Sài Gòn cũng vậy, người dân vẫn gọi là Sài Gòn nhiều, đó
cũng là một cách mà chúng ta nhớ tới mảnh đất như vậy."
No comments:
Post a Comment