Du Tử
Lê / Người Việt
February
9, 2018
Nhà
văn Nguyễn Sỹ Tế là một trong hai nhân vật được coi là “lý thuyết gia” của nhóm
Sáng Tạo, ngay tự những ngày còn phôi thai, theo nhà văn Mai Thảo. Nhưng ông lại
là thành viên ít được biết tới nhất của nhóm này. Ông giống như một người đứng
ngoài Sáng Tạo.
Từ trái, Mai Thảo, Vũ
Khắc Khoan, Nguyễn Sỹ Tế, Phạm Đình Chương, Tạ Tỵ. (Hình: Du Tử Lê cung cấp)
Số
người có tình thân và theo dõi cận cảnh sinh hoạt của nhóm Sáng Tạo, ngay tự những
năm giữa thập niên 1950 ở Sài Gòn cho rằng, khác hơn nhà văn Trần Thanh Hiệp
(lý thuyết gia thứ hai của Sáng Tạo), nhà văn Nguyễn Sỹ Tế bản chất khép kín.
Ông chọn nếp sống xa khuất tiền trường của những ngọn đèn trực chiếu.
Là
một trí thức sớm được biết đến, ngay từ thời điểm trước hiệp định Genève Tháng
Bảy, 1954, chia đôi đất nước, ở Hà Nội, di cư vào Nam, nhà văn Nguyễn Sỹ Tế là
một thành viên sáng lập tạp chí Sáng Tạo, nhưng ông lại được ghi nhận là người
nằm ngoài mẫu số chung của đa số thành viên Sáng Tạo.
Cũng
có người cho rằng, vì ngoài tính cách nhà văn, ông còn là một nhà giáo dục kể từ
năm 1945 ở Hà Nội, nhà văn, giáo sư Nguyễn Sỹ Tế còn được mời giữ một số chức vụ
trong ngành giáo dục cũng như chính quyền ở Sài Gòn, kể từ ngày di cư vào miền
Nam; nên ông rất thận trọng, dè dặt trong mọi giao tiếp, sinh hoạt có tính cách
ồn ào, sôi nổi, dù cho những lãnh vực ông tham gia, có thể không mâu thuẫn với
cung cách sống đã định hình rất sớm của cuộc đời ông.
Trang
mang Wikipedia-Mở, ghi nhận rằng, năm 1958, Nguyễn Sỹ Tế làm hiệu trưởng trường
Trung Học Tư Thục Trường Sơn (Sài Gòn). Năm 1956-1958, những năm đầu khi trường
Luật Sài Gòn chuyển từ chương trình Pháp qua chương trình Việt, ông làm phụ khảo
(assistant) môn dân luật và tư pháp quốc tế cho cố Giáo Sư Vũ Văn Mẫu – khoa
trưởng trường Luật. Năm 1957-1963, ông dạy môn kịch nghệ tại trường Quốc Gia Âm
Nhạc và Kịch Nghệ Sài Gòn.
Từ
1962, ông dạy tại các trường đại học miền Nam: Đại Học Sư Phạm, Đại Học Vạn Hạnh
(Sài Gòn), Đại Học Đà Lạt, Đại Học Cần Thơ. Năm 1964, ông làm chánh văn phòng Bộ
Ngoại Giao cho Bác Sĩ Phan Huy Quát…
Với
một quá khứ như vậy, một số người đã không ngần ngại kết luận, Nguyễn Sỹ Tế là
nhà văn của những kín đáo, không phô trương. Cũng chính vì không ra mặt tham
gia những sinh hoạt, vận động lớn, nhỏ của Sáng Tạo, nên các thành viên của
nhóm này, dù quý trọng ông cách mấy, cũng không có lý do, cơ hội, để nhắc tới
ông, như một “niên trưởng” của họ.
Tính
khiêm cung của ông còn bộc lộ rõ hơn trong bài “Vũ Khắc Khoan và Tôi,” một người
bạn cùng thời với ông. (1)
Ngay
câu mở đầu phần thứ hai của bài viết, ông đã nhấn mạnh: “…Đối với tôi, Vũ Khắc
Khoan bao giờ cũng là ‘người đi bước trước.’ Trước từ lúc ra đời, đi những bước
trên đường đời và cuối cùng từ giã cõi đời. Người sinh năm Tỵ, tôi năm Tuất…”
Dọc
theo bài viết của mình, đôi khi ông cũng dùng chữ “người” hoặc hai chữ “tiên
sinh” để nói về người bạn cùng thời với mình: “…Mùa Xuân năm 1950, tôi lặn lội
từ hậu phương trở về thành (Hà Nội) rồi vào dạy học tại trường Chu Văn An, đã
nghe học trò nói người dạy học từ trước, tại trường Nguyễn Trãi…”
Chi
tiết hơn, Nguyễn Sỹ Tế kể, hằng ngày, ở Hà Nội, ông đạp xe từ Chợ Hôm lên trường
Chu Văn An, Cửa Bắc cũ – trong khi Vũ Khắc Khoan lại đi ngược chiều, từ Quan
Thánh xuống Nguyễn Trãi. Hai bên không gặp nhau. Cuộc giao du giữa họ, rất “sơ
khoáng” (chữ của Nguyễn Sỹ Tế)…
Thế
rồi sau khi hiệp định Genève được ký kết thì Tháng Tám, 1954, không đợi các
giáo sư Chu Văn An sẽ được đưa đi di cư theo chương trình của Bộ Giáo Dục thời
đó, ông cùng vợ con theo đoàn sinh viên đại học, đáp máy bay vào Nam.
Ông
viết: “…Tưởng di cư như tôi là sớm sủa rồi, không ngờ vào Sài Gòn được mấy hôm
tôi đã gặp Vũ gia ngồi chễm chệ trên ghế Công Cán Ủy Viên Bộ Thông Tin với Bộ
Trưởng Phạm Xuân Thái. Ngoài ra, tiên sinh còn là một cây bút chủ lực của nhật
báo Tự Do – cơ quan ngôn luận của người di cư – cùng với mấy cây bút gạo cội:
Hiếu Chân, Đinh Hùng, Mặc Thu, Trần Việt Sơn…”
(…)
“Mùa
Hè 1958, một số giáo sư đang dạy học tại Chu Văn An trong đó có Vũ Khắc Khoan,
Bùi Đình Tấn, Bạch Văn Ngà. Nguyễn Xuân Kỳ (con cụ Chữ) lên tận Bộ Ngoại Giao rủ
tôi ra mở trường tư để ‘kiếm thêm.’ Tôi đã nhận lời. Và đó là trường trung học
tư thục, đệ nhị cấp Trường Sơn trước ở đường Tự Đức (Đa Kao) sau dọn về đường
Lê Văn Duyệt, gần đường Hồng Thập Tự, Vũ Khắc Khoan và tôi trở thành đôi bạn
chí thân từ đó…”
Về
tình bạn của hai người, ông kể thêm, dư luận giới trí thức Sài Gòn từng đề cập
tới chuyện, ông đã đứng ra hòa giải mối bất hòa giữa hai nhóm trí thức là nhóm
Quan Điểm của Vũ Khắc Khoan, với các tên tuổi như Nghiêm Xuân Hồng, Mặc Đỗ, Nhuệ
Hồng, Vương Văn Quảng, Tạ Văn Nho… và “Nhóm Phi-Nhóm” Sáng Tạo với Mai Thảo,
Thanh Tâm Tuyền và Nguyễn Sỹ Tế. (Tác giả bài “Vũ Khắc Khoan và Tôi” khi nhắc tới
Sáng Tạo, chỉ ghi tên ba người như trên. Ông cũng nhấn mạnh phần góp công hòa
giải hai bên của ông, vốn… nhỏ thôi, không đáng kể).
Tinh
thần hay bản chất khiêm cung của nhà văn Nguyễn Sỹ Tế, còn được thể hiện qua việc
ông kể lại một câu chuyện có tính cách đùa cợt của dư luận về nhóm Sáng Tạo. Do
ông là người ghi nhận, rồi kể cho nhà văn Trần Thanh Hiệp nghe, nên sau đó, ông
Hiệp mới thuật lại câu chuyện ấy, trong bài viết “Mai Thảo người kể chuyện bằng
văn xuôi.” (2)
Đại
ý câu chuyện mà tác giả tập truyện “Chờ Sáng” (3) ghi nhận được là giữa lúc tiếng
tăm của tạp chí Sáng Tạo lên tới đỉnh cao nhất, thì dư luận người dân Sài Gòn
khi đó đã truyền tai nhau rằng: Nếu ai đó, có dịp ghé thăm “ngôi nhà” Sáng Tạo…,
thì sẽ “chỉ thấy bốn năm ông nhà văn, mỗi ông ngồi một xó trước cái bàn thờ tổ
sư riêng.” Ngụ ý, mỗi nhà văn trong nhóm Sáng Tạo là một ốc đảo độc lập. Họ tự
mãn chính họ (?)
Việc
kể lại mẩu chuyện đùa vui trên của nhà văn Nguyễn Sỹ Tế, có người cho rằng, có
vẻ như họ Nguyễn không mấy hài lòng trước sự kiện này (?) (Du Tử Lê)
Chú
thích:
(1)
Sưu tầm của Lê Hoàng Tuấn Kiệt. Nguồn website dutule.com.
(2)
Đọc thêm “Trần Thanh Hiệp, lý thuyết gia của nhóm Sáng Tạo,” nhật báo Người Việt,
Thứ Bảy, 16 Tháng Mười Hai, 2017).
(3)Tập
truyện “Chờ Sáng” của Nguyễn Sỹ Tế xuất bản năm 1962 tại Sài Gòn. Nhưng trước
đó cả chục năm, vở kịch “Mưa” của ông đã được xuất bản tại Hà Nội năm 1953 và,
kịch “Trắng Chiều” xuất bản năm 1955.
*
*
Du Tử Lê
February
17, 2018
(Tiếp
theo và hết)
Từ phải: Giáo Sư Lê
Văn - người chủ trương tập san văn hóa Dòng Việt (1993-2009), Nguyễn Sỹ Tế,
Viên Linh, Trần Minh Tùng và Nguyễn Khắc Hoạch. (Hình: Viện Việt-Học)
Đa
số thành viên nòng cốt nhóm Sáng Tạo, căn bản vốn là nhà văn, họa sĩ hay lý luận
văn học như Mai Thảo, Ngọc Dũng, Duy Thanh, Doãn Quốc Sỹ, Trần Thanh Hiệp,…
không phải là nhà thơ, nhưng họ vẫn làm thơ, để cổ súy, yểm trợ cho phong trào
thơ tự do mà, Thanh Tâm Tuyền, được nhìn như mũi nhọn chính.
Là
“niên trưởng” của nhóm, nhà văn Nguyễn Sỹ Tế không ngoại lệ. Với bút hiệu Người
Sông Thương, thỉnh thoảng họ Nguyễn cũng có thơ cho tạp chí Sáng Tạo. Tuy
nhiên, ngay lãnh vực này, nhà văn Nguyễn Sỹ Tế cũng cho thấy tính cách riêng của
ông. Với họ Nguyễn, thi ca không nhất thiết phải mặc, khoác vai trò mở đường
hay, nhiệm vụ khai phá một thử nghiệm nào!
Bài
thơ được trích dẫn dưới đây của Nguyễn Sỹ Tế, tuy có nhiều so sánh hay liên tưởng
mới mẻ, nhưng tới khi ra khỏi bài thơ, nó cũng không hề mang vác một “thông điệp”
lớn lao, quan trọng nào ở phần nội dung. Đó là bài “Trời Xanh Con Chim Nhỏ,”
đăng trong Sáng Tạo, số 6 Tháng Ba năm 1957, đề tặng các con ông:
“Một
con chim nhỏ lạc vào hồn tôi
để lại trời xanh sau lũy mắt
lẻ loi nhà thi sĩ hôm nay
bước đi im lặng
hiện diện bằng nhiệm mầu
tiếng hót thoáng chìm đáy tim
nghe hương vương ngấn lệ
tôi khẽ động hàng mi
nó biến rồi
để lại trời xanh sau lũy mắt
lẻ loi nhà thi sĩ hôm nay
bước đi im lặng
hiện diện bằng nhiệm mầu
tiếng hót thoáng chìm đáy tim
nghe hương vương ngấn lệ
tôi khẽ động hàng mi
nó biến rồi
“Hai
con chim nhỏ đi về hồn tôi
khuân nửa trời xanh qua ngõ mắt
siêng năng người thợ ngày mai
chúng đẽo cái chi
chí cha chí chát
gió múa hoa bay xuân giục giã
chúng kéo cái gì
hì hà hì hục
lôi trái tim lên xây giếng óc
lấy tóc dệt võng
lấy mây vàng nệm gối
dựng liễu xanh làm rèm
nghe nắng mưa khuất nẻo
tôi khép cửa hàng mi
chúng dựng đời
khuân nửa trời xanh qua ngõ mắt
siêng năng người thợ ngày mai
chúng đẽo cái chi
chí cha chí chát
gió múa hoa bay xuân giục giã
chúng kéo cái gì
hì hà hì hục
lôi trái tim lên xây giếng óc
lấy tóc dệt võng
lấy mây vàng nệm gối
dựng liễu xanh làm rèm
nghe nắng mưa khuất nẻo
tôi khép cửa hàng mi
chúng dựng đời
“Triệu
con chim nhỏ bay vào hồn tôi
mang trọn trời xanh qua cửa mắt
yên hàn xã hội ngày kia
ân tình thơm gió
thương nhau bằng thuần cảm
sum vầy thành giếng trái tim
nghe thời gian ngưng đọng
tôi khép kín hàng mi
chúng ngủ rồi.” (Nđd)
mang trọn trời xanh qua cửa mắt
yên hàn xã hội ngày kia
ân tình thơm gió
thương nhau bằng thuần cảm
sum vầy thành giếng trái tim
nghe thời gian ngưng đọng
tôi khép kín hàng mi
chúng ngủ rồi.” (Nđd)
Bài
thơ được họ Nguyễn viết từ đầu năm 1957, nhưng tới hôm nay, những câu như “trời
xanh sau lũy mắt”; hoặc: “Lôi trái tim lên xây giếng óc/lấy tóc dệt võng/lấy
mây vàng nệm gối / nghe nắng mưa khuất nẻo / tôi khép cửa hàng mi…” theo tôi,
chúng vẫn mới, dù người đọc có thể không chia sẻ, đồng cảm.
Và,
rốt ráo của toàn thể bài thơ, như đã nói, vẫn không nhằm mục đích chứng minh
hay, thuyết phục một điều gì, ngoài việc nó là thơ, là chính nó. Vậy thôi.
Sau
nhiều năm tháng tù đày, năm 1992, họ Nguyễn chọn định cư tại miền Nam
California. Hai năm sau, 1994, ông cho xuất bản thi phẩm “Khúc Hát Gia Trung.”
(4)
Trước
khi chuyển dịch thi phẩm “Khúc Hát Gia Trung” của nhà văn Nguyễn Sỹ Tế sang Anh
ngữ, nhà phê bình văn học Đinh Từ Bích Thủy trong bài viết tựa đề “Hương thái cổ,
cánh chim trời: Đọc và dịch thơ Nguyễn Sỹ Tế,” đã ghi nhận rằng:
“Tập thơ Khúc Hát Gia Trung: Thơ Hồi Niệm của Một Tội Đồ (NXB
lmn: 1994), ghi lại những cảm nghĩ của nhà thơ trong 10 năm đi tù. Sau một năm
bị giam giữ tại sở An Ninh Nội Chính Sài Gòn, vào năm 1977, chính quyền Cộng Sản
tải ông đến trại tù Gia Trung, Pleiku (Gia Trung được phiên âm từ chữ Ya-Zung,
trong ngôn ngữ Thượng có nghĩa là ‘nơi có suối’). Vào Tháng Giêng năm 1985,
Nguyễn Sỹ Tế bị chuyển đến trại tù Hàm Tân (Long Khánh), nơi ông nhận xét ‘còn
nổi tiếng hơn Gia Trung về mặt khai thác sức lao động của người tù để kinh
doanh kiếm lời rất mau và rất lớn..’ Ông bị giam ở đây đến tháng 10 năm 1987
thì được trả tự do…”
Cũng
trong bài viết vừa kể, họ Đinh đã ghi lại quan điểm về thi ca của nhà văn Nguyễn
Sỹ Tế, không giống các nhà thơ khác trong nhóm Sáng Tạo, ông nói:
“Cả hai Thanh Tâm Tuyền
và Tô Thùy Yên đều chủ quan và hiền lành. Các anh đã gán cho thi ca những cứu
cánh quá cao xa và hướng vào một thứ thẩm mỹ còn ‘cổ điển.’ Tôi thấy thi ca chỉ
là một hiện tượng cá nhân, trong đó những yếu tố trí tuệ, tâm lý, sinh lý của
nhà thơ và người đọc thơ bị khuấy động. Tôi nghiêng về một thứ thẩm mỹ của sự
chênh vênh, của sự mất cân đối, một thứ thẩm mỹ của sự va chạm.” (Nđd)
Cụ
thể, nhà phê bình văn học Đinh Từ Bích Thủy nêu đích danh 4 bài trích dịch từ
“Khúc Hát Gia Trung” là: , “Áo Xanh,” “Không Xuân,” “Cái Chết của Một Con Sáo,”
“Nhớ Biển” và kết luận rằng, chúng đã biểu lộ điều mà Nguyễn Sỹ Tế định nghĩa
là “thứ thẩm mỹ của sự va chạm.”
“Đây
là những bài thơ giản dị, u uẩn, đượm ‘hương thái cổ’ dập dình giữa hiện thực
và trừu tượng, và đồng thời, như những ‘cánh chim trời,’ cũng hàm súc những tư
tưởng, tình cảm phổ quát, mà khi được dịch sang Anh ngữ vẫn tạo được sự gần gũi
với độc giả ngoại quốc (…).
“Áo
Xanh
(Tặng
Thanh Tâm Tuyền)
“Anh
ngồi trong nắng thủy tinh
Ôm sầu dã thú nép mình cô đơn
Thời gian lả tả vàng son
Dậu thưa hiện thực lối mòn suy tư.
Âm ba chuyển độ bao giờ
Suối nghe tưởng tiếng trẻ thơ nô đùa.
Xuân, Thu, Nhã Điển mấy mùa
Mùi hương thái cổ gió lùa rừng phong.
Ven đồi mấy nấm vùi nông
Nỗi hờn siêu thực một dòng vây quanh.” (Nđd)
Ôm sầu dã thú nép mình cô đơn
Thời gian lả tả vàng son
Dậu thưa hiện thực lối mòn suy tư.
Âm ba chuyển độ bao giờ
Suối nghe tưởng tiếng trẻ thơ nô đùa.
Xuân, Thu, Nhã Điển mấy mùa
Mùi hương thái cổ gió lùa rừng phong.
Ven đồi mấy nấm vùi nông
Nỗi hờn siêu thực một dòng vây quanh.” (Nđd)
Tôi
nhớ khoảng giữa năm 1996, trong một họp mặt buổi tối, tại tư gia của nhà thơ,
nhà báo Y Dịch/Lê Đình Điểu (5) ở quận hạt Orange County; gồm có nhà văn Nguyễn
Sỹ Tế, Mai Thảo (6) và tôi, thi phẩm “Khúc Hát Gia Trung” của họ Nguyễn đã được
nhắc tới, với nhiều câu hỏi…
Trả
lời câu hỏi của nhà báo Lê Đình Điểu về cách lưu giữ những bài thơ viết trong
tù của mình, tác giả “Khúc Hát Gia Trung” cho biết, đại ý: Cũng như tất cả những
người làm thơ khác, bị giam nhốt trong trại cải tạo, dù chuyên hay không thì,
cũng chỉ có một cách ghi nhớ là “chép” chúng trong… óc mà thôi. Ông nhấn mạnh rằng,
ngay trong lời “Nói Đầu” mở vào tập thơ, để lưu giữ được những bài thơ làm
trong thinh lặng, ông bó buộc phải trở lại với các hình thức thơ cũ hiền lành
và, dung dị hơn, chỉ vì một lẽ đơn giản là sự đòi hỏi của ký ức! Nó cần phải dễ
bề thuộc lòng, dễ bề bảo tồn và, hồi tưởng… Mặc dù kể từ năm 1954, khi di cư
vào miền Nam, ông đã chủ trương từ bỏ việc sáng tác những bài thơ theo quy luật
cũ, kể cả thơ mới ông có tự buổi thiếu thời; Để chuyển qua thơ tự do khi tham
gia phong trào này ở miền Nam sau 1954, qua tạp chí Sáng Tạo. (7)
Theo
ông, công việc làm thơ trong tù là một phương tiện giải thoát tự nhiên như bản
năng sinh tồn… Ông đã tạo cho mình hình thức làm thơ thầm trong đầu, lẩm
nhẩm đọc trên đầu ngón tay trong đêm tối, học thuộc lòng chúng…
Ông
nói:
“Ngay lúc đó đã cả là
một cuộc chiến đấu khó khăn vì, trí nhớ đã bị suy thoái theo tháng năm và trong
cảnh rù đầy, bị dập vùi…”
Ông
kể thêm:
“Một lần ở Hàm Tân,
tôi đã liều lĩnh viết thơ ra giấy, xếp thành tập. Nhưng rồi vì một biến động
trong trại, tôi phải hủy bỏ tác phẩm của mình. Về Saigon, tôi tái lập những thi
phẩm của tôi một lần nữa, đưa cho Thanh Tâm Tuyền đọc. Năm 1989, trong chiến dịch
‘tái đánh văn nghệ sĩ,’ tôi lại buộc lòng phải hủy bỏ chúng thứ hai!”
Qua
phần tự thuật của ông, tôi hỏi tác giả “Khúc Hát Gia Trung” rằng: Ngoài bản
năng sinh tồn, chúng ta có thể nói, những người làm thơ trong tù, còn có chiếc
“phao cứu sinh” thứ hai là hy vọng sống sót, trở về, để chờ cơ hội phổ biến những
bài thơ được ghi nhớ bằng ký ức?
Họ
Nguyễn đáp:
“Nhiều
phần là như vậy. Hy vọng luôn là chỗ vịn lớn nhất cho mỗi con người khi phải
đương đầu với đường cùng, tuyệt vọng! Bởi thế, ta đừng ngạc nhiên khi có nhiều
cựu tù cải tạo, tuy làm thơ không chuyên, nhưng cũng đã cho ra đời những tập
thơ rất hiện thực…”
(Du
Tử Lê)
(Tháng
Hai, 2018)
*
Chú
thích:
(4)
Trại tù Gia Trung thuộc địa bàn tỉnh Gia Lai (Pleiku). Trong quá khứ là nơi từng
giam giữ hàng ngàn sĩ quan, công chức cao cấp của chính quyền VNCH, sau biến cố
Tháng Tư, 1975. Đây cũng là nơi nhốt tù nhiều văn nghệ sĩ tên tuổi của miền
Nam… Sống lại giai đoạn đó, nhà văn Doãn Quốc Sỹ Doãn viết: “…Nhớ lại kỷ niệm với
anh Nguyễn Sỹ Tế, khi Cộng Sản chiếm nốt miền Nam, chúng tôi cùng bị đi tù
chung và cùng bị đày lên tận miền Gia Trung thuộc núi rừng cao nguyên Pleiku,
Kontum. Vùng này sở dĩ mang tên Gia Trung vì có dòng suối YA YUNG chảy qua. Tiếng
địa phương là Ya Yung được chuyển sang tiếng Việt là Gia Trung!…” (Nđd)
(5)
Nhà thơ, nhà báo Y Dịch/Lê Đình Điểu sinh năm 1939, ở ngoại thành Hà Nội. Ông mất
năm 1999 tại miền Nam California.
(6)
Nhà văn Mai Thảo sinh năm 1927 tại Nam Định, mất năm 1998 tại thành phố
Westminster, Nam California.
(7)
Nhà văn Nguyễn Sỹ Tế, sinh năm 1922 tại Nam Định, mất ngày 16 Tháng Mười Một năm
2005, tại Hoa Kỳ.
-------------------------
Nhà
Văn Nguyễn Sỹ Tế Từ Trần, Thọ 83 Tuổi - Việt Báo
Nov 18, 2005
QUẬN
CAM, California (VB) -- Nhà văn Nguyễn Sỹ Tế đã ra đi tại Quận Cam, hưởng thọ
83 tuổi. Đây là một mất mát lớn cho giới cầm bút hải ngoại.
Gia
đình cho biết Giáo Sư Nguyễn Sỹ Tế, pháp danh Quảng Thế, đã từ trần vào lúc
12:10 trưa thứ tư, ngày 16 tháng 11 năm 2005, tại bệnh viện Coastal Communities
Hospital, Santa Ana, CA 92704.
Giaó
sư hưởng thọ 83 tuổi.
Tác
giả & tác phẩm: Nguyễn Sỹ Tế - DaiHocSuPhamSaigon 15
tháng 05.2015
No comments:
Post a Comment