Ngô Thế Vinh
(Gửi
Nhóm Bạn Cửu Long)
30/12/2017
Lời
dẫn: Đây chỉ là trích đoạn từ một bút ký về chuyến khảo
sát Đồng Bằng Sông Cửu Long tháng 12.2017 vừa qua, Đồng Tháp cũng là chặng cuối
của chuyến đi ấy.
Đoàn khảo sát môi sinh ĐBSCL 12.2017, từ trái: Ngô Thế Vinh, TS Lê Anh Tuấn,
Viện Nghiên cứu Biến Đổi Khí hậu ĐHCT, TS Dương Văn Ni, Khoa Quản lý Tài Nguyên
Thiên nhiên ĐHCT, KS Phạm Phan Long, Hội Sinh Thái Việt, BS Nguyễn Văn Hưng,
ThS Nguyễn Hữu Thiện, Chuyên gia Vùng Đất Ngập / Wetlands, TS Lê Phát Quới, Viện
Tài Nguyên - Môi Trường ĐHQG Tp. HCM, và tài xế Sang.
Về tới Cao Lãnh cũng đã gần nửa khuya. Trên chiếc xe
Van của tài xế Sang có Wi-Fi di động, nên suốt cuộc hành trình nếu muốn, chúng
tôi vẫn có thể kết nối mạng và làm việc với iPhone, iPad. Ngày hôm sau
12.12.2017, chúng tôi vẫn thức dậy sớm để khởi hành đi vào Đồng Tháp Mười, ghé
qua Gò Tháp.
Gò Tháp có khu di chỉ Ốc Eo và là chiến khu chống Pháp của Thiên Hộ
Dương, nay là khu di tích quốc gia đặc biệt. (nguồn: Gò Tháp, Nxb Văn Hoá - Văn
Nghệ, Saigon 2016)
Tới vùng trũng Đồng Tháp Mười không thể không nhớ tới
một Du kí Biên khảo ngắn Bảy Ngày Trong Đồng Tháp Mười của
Nguyễn Hiến Lê, năm đó ông mới 22 tuổi, vừa tốt nghiệp Trường Công Chánh Hà Nội
tháng 7 năm 1934, người cán sự công chánh thời còn rất trẻ ấy đã chọn vào Nam tới
nhiệm sở là Miền Tây, đi đo đạc “lênh đênh trên khắp các kinh rạch từ Hồng
Ngự tới Thủ Thừa, từ Cái Thia lên Mộc Hóa, có khi đi bộ trọn một tuần giữa một
vùng bát ngát toàn lau sậy bàng năng, hai ba chục cây số không có một nóc nhà,
một bóng người”. (Nguyễn Hiến Lê sanh năm 1912 mất 1984, được biết tới
như là một nhà giáo, nhà văn, học giả, dịch giả, với hơn 100 tác phẩm sáng tác,
biên soạn và dịch thuật thuộc rất nhiều thể loại).
Nguồn gốc tên Đồng Tháp Mười, Plaine des
Joncs hay Đồng Cỏ Lát có nhiều giả thiết: hoặc là nơi xây tháp thứ mười
của Thiên Hộ Dương kể từ sông Lớn đi vào trong thời kỳ chống Pháp, hoặc do ngôi
tháp có mười bậc, nhưng cũng có người bảo rằng đó là ngôi chùa tháp thứ mười của
người Khmer thời vua Jayavarman VII tính từ điểm xuất phát.
Đồng Tháp Mười nằm bên tả ngạn Sông Tiền, bao gồm ba
tỉnh Tiền Giang, Đồng Tháp, Long An với diện tích ngót một triệu hecta nếu kể cả
vùng đất giữa hai con sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây, [cộng với 300,000 hecta
phía Svay Rieng bên Cambodia]. Đồng Tháp Mười, nơi mà hơn nửa thế kỷ trước đây
thôi còn là một vùng hoang dã bát ngát sình lầy, dưới nước đỉa lội như bánh
canh, trên trời muỗi bay rợp như đám mây... Đồng Tháp Mười ngày nay đã hoàn
toàn đổi khác, dân tụ về ngày một đông, các vùng đất hoang kể cả các khu rừng
tràm ngày một thu hẹp nhường chỗ cho nhà cửa và ruộng đồng. Khi mà đất chật người
đông thì thiên nhiên chẳng còn ưu đãi và cuộc sống cũng không còn dễ dàng như
những ngày xưa nữa “những ngày làm chơi ăn thiệt”.
Đồng Tháp Mười cò bay thẳng cánh,
Nước Tháp Mười lóng lánh cá tôm...
Nước Tháp Mười lóng lánh cá tôm...
Đã qua rồi cái hình ảnh ước lệ của một Nam kỳ Lục Tỉnh
thời Phạm Quỳnh báo Nam Phong và thi sĩ Tản Đà Đông Pháp Thời Báo từ ngoài Bắc
vào thăm không ngớt lời ca ngợi về đời sống trong Nam dễ dãi vui tươi, với gạo
trắng nước trong và tôm cá thì đầy đồng: nay thì chính những người nông dân Nam
Bộ hào sảng hiếu khách ấy đang phải đổ mồ hôi sôi nước mắt, làm lúa cao sản ba
vụ / năm để kiếm sống, “làm thiệt mà cũng chưa chắc có ăn”.
Trở lại thăm Đồng Tháp, cũng không thể không nhớ tới
con cá đuối nước mặn Selachian, tên khoa học là chondrichthyes, thuộc loài cá sụn
mà ngư dân đánh bắt được trên sông Tiền, đoạn giữa hai xã Tân Mỹ và Tân Khánh
Trung. Con cá đuối có chiều dài hơn 4 mét ngang 2 mét và nặng tới 270 ký. Đây
cũng là lần đầu tiên ngư dân Đồng Bằng Sông Cửu Long lưới được một con cá nước
mặn lớn như vậy trên một khúc sông nằm sâu trong đất liền rất xa biển mười ngày
trước Giáng Sinh năm 2000. (2)
ĐẾN VỚI GÒ THÁP TRÊN VÙNG TRŨNG ĐỒNG THÁP MƯỜI
Đồng Tháp Mười và khu Tứ giác Long Xuyên vốn là hai vùng trũng thiên nhiên của ĐBSCL. Theo bài viết " Vùng Đất Ngập Đồng Tháp Mười" của BS Trần Ngươn Phiêu thì vùng trũng Đồng Tháp Mười có thể là lòng sông cũ của Cửu Long, nay sông Cửu đã đổi dòng và dời qua vị trí hiện nay. Biển Hồ Tonle Sap là vùng trũng rộng lớn khác được ví như trái tim của Cambodia. Ba vùng trũng ấy là ba bể chứa nước khổng lồ có chức năng điều hoà mực nước lên xuống của con Sông Mekong vùng hạ lưu trong cả hai Mùa Mưa và Mùa Khô. Với những bước phát triển không bền vững (unsustainable development) chính con người đã và đang phá huỷ nhịp điều hòa thiên nhiên tuyệt hảo ấy của con Sông Mekong vốn có hàng bao ngàn năm.
Đến Gò Tháp là đến với một giồng lớn nhất của Đồng
Tháp Mười, được biết tới như vùng đất của "sen hồng" nằm về phía đông
nam của Tràm chim Tam Nông, cách Sài Gòn không quá 100 km. Nơi có di chỉ của nền
văn hóa Óc Eo, Vương Quốc Phù Nam hiện diện từ thế kỷ thứ II trước Công nguyên
kéo dài tới thế kỷ XII sau CN trên ĐBSCL.
Trong lòng gò, qua những lần khai quật đã phát hiện
được một di tích kiến trúc cổ với hai tượng thần Vishnu, được xác định là có
niên đại từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ XII, được xếp vào hàng "Bảo vật Quốc
gia", rồi cạnh đó là cây Trôm trăm tuổi cũng được xếp vào Cây Di sản Việt
Nam.
Cũng theo BS Trần Ngươn Phiêu thì "Các nhà khảo
cổ danh tiếng như Etienne Aymonier và Henri Parmentier thuộc trường Viễn Đông
Bác Cổ đều đã viếng thăm Tháp Mười nhiều lần. [Trường Viễn Đông Bác Cổ / École
française d'Extrême-Orient / EFEO, tiền thân là Phái đoàn Khảo cổ tại Đông
Dương có từ năm 1898 và Trường Viễn Đông Bác Cổ chính thức thành lập ngày 20
tháng 1 năm 1900 là một trung tâm nghiên cứu thực địa của Pháp về Đông
phương học, có nhiệm vụ nghiên cứu, khai quật khảo cổ trên toàn bán
đảo Đông Dương]. Louis Malleret là quản thủ Viện Bảo Tàng Sài Gòn, là Viện
trưởng trường Viễn Đông Bác Cổ là người có công nghiên cứu nhiều nhất về Tháp
Mười. Malleret còn là tác giả bộ Le Delta du Mekong, trong đó quyển thứ IV (Le
Cisbassac) là chuyên khảo về Đồng Tháp. Các viên gạch di tích Tháp Mười còn được
lưu giữ ở Bảo tàng viện Sài Gòn là do công của L. Malleret." (3)
Khai quật tượng thần Vishnu tại Gò Tháp Mười. [nguồn: tư liệu Bảo tàng Đồng
Tháp]
Di tích đền thần Shiva Gò Minh Sư: Gò Minh Sư được khai quật vào năm 2009
có dạng hai khối gần vuông gá vào nhau. Trong đó, hình khối vuông lớn ở phía
Tây có cạnh dài14.95m, khối vuông nhỏ phía Đông có cạnh dài 4.20m. Tại di tích
này, các nhà khảo cổ đã tìm thấy một nhẫn vàng có khắc hình con ốc Sankha biểu
tượng của thần Vishnu, các vòng đeo tay bằng đồng, một mảnh vỡ Yoni và đặc biệt
là một máng nước thiêng (Somasutra) - dấu hiệu để nhận biết đền thần Shiva. Các
nhà khảo cổ học đã xác định di tích này là đền thần Shiva, có niên đại từ thế kỷ
thứ VI đến thế kỷ thứ XII. Năm 2012, di tích được xây mái để bảo quản. [Photo
by Ngô Thế Vinh]
Cây Trôm Trăm Tuổi - Sterculia foetida L., [nguồn: Gò Tháp, Di tích Quốc
gia Đặc biệt. Nxb Văn Hoá-Văn Nghệ, Saigon 2016]. Hình dưới: bảng ghi nhận là
cây Di Sản Việt Nam.
Bảng ghi nhận là cây Di Sản Việt Nam.
Có truyền thuyết cho rằng trên con đường bôn ba đầy gian truân khi bị
quân Tây Sơn truy đuổi, Nguyễn Ánh đã mất một người em gái tại đây, cô chết thời
còn rất trẻ và người dân nhớ thương lập miếu lập mộ thờ và nay vẫn còn ngôi cổ
mộ Hoàng Cô. [Photo by Ngô Thế Vinh]
Vào hậu bán thế kỷ XIX (1862-1866), đây cũng là chiến
khu chống Pháp nổi tiếng của Thiên Hộ Dương / Võ Duy Dương. Trong suốt hơn 3
năm, quân đội Pháp đã vô cùng vất vả, chịu cả tổn thất mà không thể nào xâm nhập
được vào chiến khu Đồng Tháp Mười của Thiên Hộ Dương và Đốc Binh Kiều. Ngoài sức
chiến đấu kiên cường của các nghĩa binh, còn phải kể tới yếu tố trận địa mà đội
quân viễn chinh Pháp rất sợ khi phải lội vào một vùng lau sậy cao hơn đầu người,
quanh năm sình lầy ngay cả mùa khô, với đỉa trâu như bánh canh, đầy muỗi mòng,
khí hậu ẩm thấp với cái nóng thiêu đốt của mặt trời nhiệt đới gần xích đạo. Sau
cùng, nhờ có sự dẫn đường hai tên Quản Tấn và huyện Lộc cùng với đám lính Việt
theo Pháp mà lần đầu tiên quân Pháp thắng được trận chiến sình lầy mà Đô đốc De
Lagrandière cho là một thắng lợi rất lớn về chính trị. (1)
Đền thờ Thiên Hộ Dương là công trình kiến trúc mới xây sau này [Photo by
Ngô Thế Vinh], hình dưới: Tượng đồng Thiên Hộ Dương [nguồn: Gò Tháp, Di tích Quốc
gia Đặc biệt. Nxb Văn Hoá-Văn Nghệ, Saigon 2016]
Từ thời vua Thiệu Trị (1841-1847) trên gò từng có một
Ngôi Tháp Cổ Tự. Đến năm 1956, thời Đệ Nhất Cộng Hòa, chính quyền Ngô Đình Diệm
cho dời ngôi Tháp Cổ Tự về phía bắc để xây dựng một "Viễn Vọng Đài"
mười tầng cao 36 mét nhằm "quan sát hoạt động của lực lượng Cách mạng
trong vùng Đồng Tháp Mười. Rạng sáng ngày 04.01.1960, "Viễn Vọng Đài"
bị đặc công tiểu đoàn 502 tỉnh Kiến Phong đánh sập và chỉ còn lại phế tích ngổn
ngang trên bề mặt gò." [sic]
Gò Tháp với diện tích 300 hecta, không chỉ là vùng
khai quật khảo cổ quan trọng, nhưng cũng là nơi diễn ra các lễ hội hàng năm: rằm
tháng 3 lễ vía Bà Chúa Xứ, rằm tháng 11 lễ giỗ Thiên Hộ Dương và Đốc Binh Kiều.
Viễn Vọng Đài hay còn gọi là Tháp Mười Tầng, được chính phủ VNCH thời TT
Ngô Đình Diệm dựng tại Gò Tháp làm trạm quan sát. [nguồn: Gò Tháp, Di tích Quốc
gia Đặc biệt. Nxb Văn Hoá-Văn Nghệ, Saigon 2016]. Hình dưới: bảng Di Tích Gò
Tháp, có ghi ngày 04.01.1960 Viễn Vọng Đài bị đánh sập, nhưng trên bản viết tay
bên trên bài thơ Dân Đồng Tháp ghi ơn Tổng thống Ngô Đình Diệm thì ghi là ngày
20.12.1959 [Photo by Ngô Thế Vinh]
HỆ
SINH THÁI ĐỒNG THÁP MƯỜI
Không có mục đích du lịch khi tới đây, phần chúng
tôi quan tâm nhiều hơn là hệ sinh thái Đồng Tháp Mười. Theo Th.S Nguyễn Hữu Thiện,
tốt nghiệp Đại học Wisconsin chuyên gia về wetlands / các vùng đất sình lầy và
TS Lê Anh Tuấn, chuyên gia về Biến Đổi Khí hậu, TS Lê Phát Quới, Viện Tài
Nguyên - Môi Trường người quê Long An, thì Gò Tháp không trũng sâu như vùng
Tràm Chim Tam Nông nhưng có thể coi đây là một Đồng Tháp Mười thu nhỏ, mang đủ
các đặc tính hệ sinh thái của vùng trũng Đồng Tháp Mười, có thảm thực vật tiêu
biểu với rừng tràm, cỏ lác, năng, và đầm sen, bông điên điển, cùng với các loài
động vật rất đa dạng những loài cá theo mùa, tôm cua ốc, rùa lươn rắn và các loại
chim muông.
Từ trên xuống: Th.S Nguyễn Hữu Thiện, TS Lê Anh Tuấn, TS Lê Phát Quới, TS
Dương Văn Ni (hình dưới), Trong chuyến đi ĐBSCL lần này, chúng tôi có những người
bạn đồng hành khá lý tưởng, thuộc nhiều lãnh vực chuyên môn, các anh là
"kho chất sám" đang có những nỗ lực cứu nguy con Sông Mekong và
ĐBSCL, với tầm nhìn xa ra toàn vùng và điều đáng ghi nhận là tiếng nói của các
anh đang bắt đầu được lắng nghe. Dự trù ban đầu, đoàn có thêm TS Nguyễn Ngọc Đệ,
Khoa Nông Học ĐHCT nhưng anh phải đi tham dự một hội nghị lúa gạo tại Chiang
Mai, Thái Lan. [Photo by Ngô Thế Vinh]
Từ bao ngàn năm rồi, con sông Mekong dài hơn 4,800
km bắt nguồn từ xứ tuyết Tây Tạng, với ngót nửa chiều dài chảy qua Vân Nam TQ,
xuống tới Thái Lào rồi chảy qua Cambodia, khi tới Phnom Penh thì chia ra là 4
Nhánh (người Pháp gọi là Quatre Bras / Bốn Cánh Tay): cánh tay thứ nhất là
Mekong Thượng hay dòng chính sông Mekong chảy từ Lào vào Cam Bốt, cánh tay thứ
hai con sông Tonle Sap chảy vào Biển Hồ và hai nhánh kia là Sông Mekong Hạ vào
Việt Nam trở thành Sông Tiền, Sông Bassac trở thành Sông Hậu khi tới Việt Nam.
Điều hòa mực nước Sông Mekong vùng hạ lưu là ba hồ
chứa nước lớn: Biển Hồ ở Cambodia có dung lượng 80 tỉ m3, ĐBSCL có vùng trũng Đồng
Tháp Mười với sức chứa 10 tỉ m3 nước và khu Tứ Giác Long Xuyên có sức chứa 9.2
tỉ m3 [Cánh đồng Tứ Giác Long Xuyên nối liền với cánh đồng Takeo bên Cambodia về
mặt thuỷ văn]. Vào Mùa Mưa, khi lưu lượng nước Sông Mekong dâng cao, về phía
Cambodia con Sông Tonle Sap đổi chiều chảy ngược vào Biển Hồ khiến diện tích Biển
Hồ tăng gấp 5 lần vào Mùa Mưa so với Mùa Khô.
Khi xuống tới ĐBSCL, nước hai con Sông Tiền và Sông
Hậu dâng cao và rồi tràn bờ như một tấm thảm nước đổ tràn / sheet flow -
"vừa chảy vừa chứa" vào hai vùng trũng thiên nhiên khổng lồ là Đồng
Tháp Mười và Khu Tứ Giác Long Xuyên. Không chỉ có lượng nước tràn bờ từ hai con
Sông Tiền và Sông Hậu, còn phải kể tới lượng nước tràn từ biên giới Cambodia qua
ĐBSCL, do nước khúc Sông Mekong bên Cambodia cũng tràn bờ đổ vào các cánh đồng
lũ / floodplain đổ tràn qua Đồng Tháp Mười và Tứ Giác Long Xuyên.
Chính là nhờ có 3 hồ chứa lớn: một ở Cambodia, hai ở
ĐBSCL Việt Nam khiến hai con Sông Tiền và Sông Hậu vào Mùa Mưa, cho dù lưu lượng
dòng chảy rất lớn từ 36,000 m3/ giây, có khi tới 39,000 m3/ giây nhưng mực nước
hai con sông vẫn chỉ dâng lên từ từ, không đột ngột gây lụt và tàn phá khủng
khiếp như ở các tỉnh miền Trung và miền Bắc, và cư dân Miền Tây quen gọi đó là
Mùa Nước Nổi hàng năm và họ có kinh nghiệm chung sống hài hoà biết xem lũ như một
tài nguyên.
Sang Mùa Khô, con Sông Tonle Sap lại đổi chiều chảy
xuôi dòng [Tonle Sap là con sông duy nhất có đặc tính chảy hai chiều theo mùa];
dòng chảy từ Biển Hồ kéo theo bao nhiêu tấn cá xuống ĐBSCLvà đồng thời nước từ
hai túi chứa Đồng Tháp Mười và Khu Tứ Giác Long Xuyên cũng bắt đầu rỉ rả đổ ra
các con sông, kéo dài từ 2 tới 4 tháng khiến ruộng đồng không thiếu nước và
không bị ngập mặn.
Nhưng rồi sự điều hoà nhịp nhàng và kỳ diệu ấy của hệ
sinh thái Sông Mekong đã phải chịu nhiều "nhân tai", đang bị chính
con người phá huỷ: từ những con đập thuỷ điện khổng lồ chắn ngang dòng chính
Sông Mekong ở thượng nguồn, trước tiên là Trung Quốc và nay tới Lào, các hồ chứa
của
những con đập này không chỉ giữ nước mà còn ngăn chặn
nguồn phù sa; Biển Hồ thì đang bị thu hẹp và cạn dần; hai túi nước khổng lồ Đồng
Tháp Mười và Khu Tứ Giác Long Xuyên với tổng cộng dung lượng ngót 20 tỉ m3 cũng
đang bị thu nhỏ lại do đắp đê ngăn đập để làm lúa 3 vụ và mở rộng các khu gia
cư.
Vùng Lụt Cambodia và Đồng Bằng Sông Cửu Long [nguồn: Akira Yamashita,
Department of Environment and Natural Resources Management, Cần Thơ University,
Vietnam]
Nói về hướng đi trong tương lai cho Đồng Tháp
Mười, Th.S Nguyễn Hữu Thiện chuyên gia Vùng Đất Ngập / Wetlands đưa ra một
phân tích: "Bản thân những con đê không sao cả, nhưng đê khép kín không
cho nước vào quanh năm để canh tác liên tục 3 vụ mới là vấn đề. Lý tưởng
nhứt là giảm xuống còn 2 vụ, để cho nước trong mùa lũ có thể tràn đồng
được, mang theo phù sa, tôm cá, làm tươi mới lại đất đai. Nhưng mà việc
này khó vì khi người dân ở trong đê bao 25 năm thì nhà cửa, mồ mà, vườn
tược đều xây dưới thấp trong vùng trũng, nên bây giờ xả lũ vào không
được nữa. Thực tế là khi mới có đê bao khép kín ở Đồng Tháp Mười,
người dân thích lắm vì có thêm thu nhập, có môi trường khô ráo, có đê làm
đường giao thông thuận tiện, cá mắm thì vẫn còn, nước vẫn còn. Sau đó,
khoảng 10 năm mới thấy chi phí canh tác tăng lên do dinh dưỡng trong đất
bắt đầu suy kiệt, vẫn chưa sao. Sau 15 năm thấy chi phí tăng, nước ô
nhiễm quá, cá mắm không còn, cũng chưa sao. Sau 20 năm thì thấy không ổn,
chi phí canh tác đã đuổi theo gần bằng thu nhập từ lúa. Một gia đình 5
người canh tác 1 hecta lúa 3 vụ không thể đủ sống (trước đây canh tác 2
vụ sống được), phải bỏ nhà cửa đi Bình Dương, ra các thành phố kiếm kế
sinh nhai. Bây giờ nhiều người sống trong đê lâu năm đã thấy vấn đề,
muốn xả lũ vào lấy phù sa lại, nhưng không được. Một ô đê bao như vậy
từ 100-500 hecta tức là có khoảng 100-500 gia đình. Muốn xả lũ vào thì
phải “trưng cầu dân ý”, nhưng không thể đồng thuận được xả lũ vào lại
sẽ thiệt hại nhà cửa, mồ mả, vườn tược như đã nói ở trên. The
point of no return!"
Cũng vẫn theo Th.S Nguyễn Hữu Thiện thì phần nguyên
sinh Đồng Tháp Mười nay chỉ còn khoảng 2% diện tích. Sự can thiệp của con người
vào hai vùng trũng Đồng Tháp Mười và Khu Tứ Giác Long xuyên bất kể hậu quả, đã
làm mất nguồn nước dự trữ cho mùa khô nơi ĐBSCL và cũng có nghĩa là vắt cạn kiệt
tài nguyên môi sinh Đồng Tháp Mười không thể nào phục hồi lại.
Cư dân ĐBSCL đang phải trả giá cho những bước phát
triển hủy hoại ấy (destructive development). Phục hồi nguyên trạng hệ sinh thái
Sông Mekong và ĐBSCL gần như là không thể được, nhưng phải biết dừng lại những
bước sai lầm để giới hạn tổn thất /damage control và không làm trầm trọng thêm
tình trạng vốn đã bi đát như hiện nay. Vấn đề là làm sao tạo được ý thức nơi
người nông dân, và cả với giới chức quyền đa số đến từ Miền Bắc phải hiểu thế
nào là phát triển bền vững (sustainaible development). Để hướng tới những bước
phát triển hài hoà cho toàn vùng ĐBSCL thay vì phát triển tự phát và cục bộ, điều
ấy đòi hỏi rất nhiều kiên nhẫn thuyết phục và cả thời gian.
***
TS Dương Văn Ni người nhỏ nhắn có nét thuần chất của
một nông dân, với đôi chân từng lội ruộng dính phèn. Năm 9 tuổi đã phải xa gia
đình, Tết Mậu Thân, Ni còn là một cậu bé đi rao bán bánh mì kiếm sống. Ni đã
thoát ra khỏi cảnh nghèo bằng cắp sách tới trường đi học. Với kiến thức anh thu
thập được từ các đại học tiên tiến [anh có bằng MS tại Philippines, rồi Ph.D ở
Anh], anh Ni và các bạn đi với chúng tôi ngày hôm nay đang là bước tiếp nối thế
hệ bậc thầy Phạm Hoàng Hộ, thầy Nguyễn Duy Xuân và rồi tới thế hệ Võ Tòng Xuân
về sau này. Trong cố gắng bảo tồn nguồn tài nguyên thiên nhiên, các anh còn có
nỗ lực kích hoạt quá khứ ấy và làm sao kết nối với đời sống hiện tại. Anh Ni
lúc nào cũng đau đáu nghĩ tới thực trạng cuộc sống của bà con nông dân cũng là
phần đời của anh trong đó.
Đến bên một đầm sen, anh Ni giải thích: "Sen
là loại cây phổ biến ở Việt Nam, nhiều nhất là vùng Đồng Tháp Mười. Lợi ích của
cây sen được mọi người biết tới: từ hoa, hạt, tim sen, ngó sen, lá sen đều có
công dụng và ăn được; ngay cả cọng sen đem gọt phần vỏ nhám đem muối dưa ăn
cũng rất ngon và dòn, ngon hơn cả rau muống. Duy có tơ sen lấy từ cọng sen là
chưa được khai thác đúng mức tuy mới đây đã có một cô doanh nhân trẻ từ Sài Gòn
bắt đầu đi vào thử nghiệm khai thác."
Cánh đồng sen Đồng Tháp đang mùa trổ hoa. [photo by Dương Văn Ni]
Cùng hình dưới: lá sen non làm rau và dùng lá sen cuốn gỏi cá, hạt sen
rang (thay vì đậu phọng rang) là những món ăn quen thuộc của cư dân Đồng Tháp.
[Photo by Ngô Thế Vinh]
TS Dương Văn Ni đang giảng về cây cỏ Đồng Tháp, từ công dụng làm thuốc của
cây cỏ bắc sao thổ nay làm trà; tới lợi ích của cây sen: từ hoa, hạt, tim sen,
ngó sen, lá sen đều có công dụng và ăn được; ngay cả cọng sen đem gọt phần vỏ
nhám đem muối dưa ăn cũng rất dòn, và ngon hơn cả rau muống. Duy có tơ sen là
chưa được khai thác đúng mức. (Photo by Ngô Thế Vinh)
KS Phạm Phan Long, Hội Sinh Thái Việt đang học rút tơ sen từ một cọng
sen. [Photo by Ngô Thế Vinh]
Những sợi tơ sen rất mịn rút ra từ một cọng sen. [nguồn: tư liệu Dương
Văn Ni]
Người phụ nữ Myanmar đang dệt lụa sen. [nguồn: tư liệu Dương Văn Ni]
Theo TS Lê Anh Tuấn, loại lụa đặc
biệt làm từ tơ sen không phải là mới với một số quốc gia Đông Nam Á. Đó là một
nghề truyền thống có từ cả trăm năm nơi ngôi làng Paw Khon, Miến Điện. Lụa này
được dệt từ những sợi tơ kéo ra từ thân cây sen, tuy là sản phẩm hiếm và đắt
giá nhưng rất thu hút du khách. Một chiếc khăn san dệt bằng tơ sen có giá thành
đắt hơn lụa / silk có thể lên đến 100 USD. [vnexpress.net] (4)
Mới đây 2009, một doanh nhân trẻ người Pháp Awen
Delaval, đã lập một Công ty thời trang làm lụa từ tơ sen ở tỉnh Siêm Riệp, nơi
có khu đền đài Angkor. Đây là một ngành tiểu công nghệ đòi hỏi nhiều công đoạn
và rất tốn thời gian: để dệt được 1 mét lụa sen, phải cần khoảng 15.000 cọng
sen để kéo được 3.000m sợi chỉ sen, và mỗi người chỉ có thể se được 300m chỉ
sen mỗi ngày. Giá thành sản phẩm từ lụa sen rất cao như một chiếc áo làm từ lụa
sen có giá 2.000 USD, một chiếc váy có giá lên tới 4.000 USD nhưng vẫn có người
tìm mua. Do mức sản xuất không đủ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của du khách,
công ty của Awen Delaval đã phải thành lập riêng một nông trại sen với diện
tích 20 hecta, để có thêm nguyên liệu cọng sen mở rộng sản xuất.
[vtv.vn/kinh-te] (4)
Nguyên liệu sen thì Đồng Tháp không hề thiếu, chỉ cần
giới doanh nhân trẻ dám mạnh dạn đầu tư và đem lại công ăn việc làm cho bao cô
gái Đồng Tháp, hay các cô gái Miền Tây nói chung, thay vì bỏ mặc họ phải bỏ quê
lên thành phố kiếm sống hay phải chọn đi lấy chồng Hàn Quốc, Đài Loan và mới
đây nhiều hơn, đang được khuyến khích là kết hôn với đám công nhân Tàu đang làm
việc ở Việt Nam, hợp pháp hay không. Mong rằng tấn thảm kịch bị Hán hoá /
Sinicization như quốc gia Tây Tạng không diễn ra ở ĐBSCL vào những thập niên tới.
Người Tây Tạng ngày nay đã trở thành thiểu số trên chính quê hương họ.
ĐẾN VỚI NHỮNG KHỐI ĐÁ LÃNG QUÊN
Rải rác trên nền lá khô, dưới các tầng cây cao không
thể không chú ý tới những khối đá tảng, có hình như những khối vuông hình cột.
Theo anh Võ Tấn Nghĩa người trông coi khu Bảo tồn Gò Tháp, thì đây là những khối
đá có gốc gác từ nền văn hoá Phù Nam hơn 1,500 năm trước, nguyên là chiếc cổng
bằng đá đi vào Đền Thần Shiva; do một trận đại hồng thủy vào Thế kỷ thứ VII, bị
đổ sập một số trôi dạt xuống đây. [sic]
Nhìn kỹ trên mặt đá, có chút tò mò mới thấy được những
nét chữ khác nhau khắc trên mặt đá, và có lẽ chỉ mới đây thôi - từ thế kỷ trước,
nay đã lu mờ do sức tàn phá của những trận mưa acid và sức bào mòn của thời
gian. TS Lê Phát Quới trong nhóm tìm đọc và chụp hình với ống kính zoom những
bài thơ rải rác trên mặt đá. Mấy dòng thơ cảm khái anh Quới đọc mà tôi còn nhớ
được, có tựa đề Đồng Tháp Mười, không ghi ngày tháng, tác giả
thì khuyết danh
Còn non còn nước còn ta
Non mòn biển cạn lòng ta vẫn đầy
Theo anh Nghĩa, người trông coi khu Bảo tồn Gò Tháp, thì đây là một trong
những tảng đá từ cổng vào Đền Thần Shiva có gốc gác từ nền văn hoá Phù Nam từ
hơn 1500 năm, bị ngã đổ và trôi dạt sau một trận đại hồng thuỷ vào Thế kỷ thứ
VII. Các bài thơ và bàn cờ tướng khắc trên đá chỉ mới có từ thế kỷ XX về sau
này. (Photo by Ngô Thế Vinh)
Từ phải: anh Nghĩa Gò Tháp, TS Lê Phát Quới Viện Tài Nguyên - Môi Trường
ĐHQG Tp. HCM, TS Lê Anh Tuấn Viện Biến Đổi Khí hậu ĐH Cần Thơ. [Photo by Ngô Thế
Vinh]
THÊM MỘT BÀI THƠ KHÁC TRÊN ĐÁ, GÒ THÁP 1956
Trên mặt bằng phẳng một khối đá khác, tôi không khỏi
ngạc nhiên khi đọc được một dòng chữ tương đối còn rõ nét: Toàn dân Đồng
Tháp ghi ơn Ngô Tổng Thống và đó cũng là câu đầu của một bài thơ mộc mạc
nhưng cảm động ghi lại chuyến viếng thăm Đồng Tháp của Tổng Thống Ngô Đình Diệm
vào ngày 13 tháng 7 năm 1956 tức năm Bính Thân.
Anh Nghĩa người trông coi khu Bảo tồn Gò Tháp, tuổi
chừng 40 có dáng vẻ đôn hậu của người dân Nam Bộ, khi TT Ngô Đình Diệm tới đây
thì anh chưa sinh ra, anh nói lại như một cổ tích: "Tháng 7 năm
1956, Ngô Đình Diệm tới đây khánh thành một công trình tỉnh Đồng Tháp, có tới
ngồi đây đánh cờ, ăn chén bắp xôi, uống ly rượu nghĩa tình với dân Đồng
Tháp." [sic]
Chúng tôi cùng nhau phải vừa đọc vừa đoán, dù hết sức
tập trung, cũng vẫn là câu được câu mất. Hơn 60 năm rồi còn gì, liên tục phơi
mình trong những cơn mưa lũ trong cái nóng ẩm miền nhiệt đới, những khối sa thạch
ấy đang bị bào mòn theo thời gian.
Khi hỏi, mới được biết bài thơ khắc trên đá ấy không
có trong cuốn sách Gò Tháp (3) vừa tái bản nhưng anh Nghĩa
cũng đã ghi lại bài thơ bằng máy đánh chữ rồi được lưu trong máy như tài liệu
riêng. Chúng tôi yêu cầu có bài thơ ấy và anh Nghĩa hứa là sẽ gửi cho chúng
tôi.
Và rồi ba ngày sau, trước khi rời Sài Gòn, tôi đã được
anh Nghĩa Gò Tháp gửi qua điện thư cho một bản chụp và dưới đây là nguyên vẹn
bài thơ dân Đồng Tháp ghi ơn Tổng thống Ngô Đình Diệm khắc trên đá.
Bài thơ toàn dân Đồng Tháp ghi ơn Ngô Tổng Thống được khắc trên một tảng
đá vào ngày 13.7.1956, nay đã phai mờ, ít ai chú ý và gần như bị lãng quên
không bị đập phá, có thể là do bản tính hiếu hòa của dân Nam Bộ. [Photo by Ngô
Thế Vinh]
Nơi đầu trang toàn bài thơ là ba dòng chữ viết tay:
[nguồn: tư liệu của anh Nghĩa Gò Tháp]
Bài thơ Toàn dân Đồng
Tháp ghi ơn Ngô Tổng Thống [nguồn: tư liệu của anh Nghĩa Gò Tháp]
Toàn dân Đồng Tháp ghi ơn Ngô Tổng Thống
Ngàn năm một thuở, vùng chính khí in bước Ngô chí sĩ
Quan san cách trở viếng cảnh người xưa suối vàng chắc hẳn
Tổng Đốc Binh Kiều. Tất* dạ khuây, cho hay, nhân sinh
Tư cổ thùy vô tử, tử ư quốc sự, tử cương thường.
Hết viếng người xưa, đến viếng dân,
Toàn dân Đồng Tháp đến tri ân, thương người lận đận
vì non nước, ký thác cuộc đời cho núi sông.
Nơi đây 13/7 năm Bính Thân " 1956 "
Tổng Thống ăn ngồi chung với dân,
Xếp bằng mặt đất bên chén bắp sôi,
Chai rượu nếp, tình người cao cả rộng bao la.
Đại tá Văn Là tường thuật sự,
Tháp mười đô thị thành hồng khách,
Báo quốc vong thân độc nhất quân,
Gẫm chuyện cổ kim chưa từng có,
Gò Tháp chốn nầy tạt* đá ghi.
Ngàn năm một thuở, vùng chính khí in bước Ngô chí sĩ
Quan san cách trở viếng cảnh người xưa suối vàng chắc hẳn
Tổng Đốc Binh Kiều. Tất* dạ khuây, cho hay, nhân sinh
Tư cổ thùy vô tử, tử ư quốc sự, tử cương thường.
Hết viếng người xưa, đến viếng dân,
Toàn dân Đồng Tháp đến tri ân, thương người lận đận
vì non nước, ký thác cuộc đời cho núi sông.
Nơi đây 13/7 năm Bính Thân " 1956 "
Tổng Thống ăn ngồi chung với dân,
Xếp bằng mặt đất bên chén bắp sôi,
Chai rượu nếp, tình người cao cả rộng bao la.
Đại tá Văn Là tường thuật sự,
Tháp mười đô thị thành hồng khách,
Báo quốc vong thân độc nhất quân,
Gẫm chuyện cổ kim chưa từng có,
Gò Tháp chốn nầy tạt* đá ghi.
Gò
tháp ngày 14/7 năm Bính Thân 1956.
Một giải phóng quân Đồng Tháp đã khổ
mới chịu khổ để cứu khổ kẻ khác
mới chịu khổ để cứu khổ kẻ khác
Viết theo trên tản* đá còn lại ở nền Tháp Mười tầng.
Một trang sử đã qua đi, không luận tới chuyện thành
bại, ngậm ngùi để thấy rằng Miền Nam, Châu Á đã mất đi một khuôn mặt lãnh đạo
"nhân cách."
NGÔ
THẾ VINH
Đồng Tháp Mười 12.2017
* Ghi chú của người viết: vẫn giữ nguyên các từ ngữ "địch, ta" và những đánh vần sai chánh tả từ bản gốc.
Tham khảo:
1/ Nguyễn Hiến Lê, Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười.
Nxb Nguyễn Hiến Lê, Saigon 1954
2/ Ngô Thế Vinh, Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy
Sóng.
Nxb Văn Nghệ California 2000
3/ Trần Ngươn Phiêu. Vùng Đất Ngập Đồng Tháp Mười.
Amarillo, Texas 2006. [tư liệu Ngô Thế Vinh]. Diễn Đàn Thế Kỷ 6.12.2010
4/ Gò Tháp, Di tích Quốc gia Đặc biệt. Nxb Văn
Hoá-Văn Nghệ, Saigon 2016
5/ Lụa dệt từ sợi tơ sen khá phổ biến ở Myanmar và
Cambodia:
No comments:
Post a Comment