Viễn
Đông Daily
Thursday, 21/12/2017 - 09:09:13
NEW
YORK – Trong một cuộc bỏ phiếu diễn ra tại Liên Hiệp Quốc ngày thứ Năm, có tới
hơn 120 quốc gia đã chống lại Tổng Thống Donald Trump và bỏ phiếu ủng hộ một
quyết nghị của Liên Hiệp Quốc. Quyết nghị này kêu gọi Hoa Kỳ hãy từ bỏ việc
công nhận Jerusalem là thủ đô của nước Do Thái (hay Israel).
Ông Trump từng đe dọa cắt giảm viện trợ đối với những nước nào không ủng hộ Hoa Kỳ. Thế nhưng có tới 128 quốc gia đã ủng hộ quyết nghị của Liên Hiệp Quốc, 35 quốc gia không bỏ phiếu, và chín quốc gia chống mà trong đó có Do Thái và Hoa Kỳ.
Tuy vậy, lời đe dọa của ông Trump đã có ảnh hưởng một phần nào đến một vài quốc gia, chẳng hạn như Úc. Quốc gia đồng minh này của Mỹ đã không bỏ phiếu.
Kết
quả bỏ phiếu cho thấy Hoa Thịnh Đốn đang bị cô lập trên chính trường quốc tế,
nơi mà nhiều quốc gia Tây Phương và quốc gia đồng minh Ả Rập của Mỹ đã bỏ phiếu
ủng hộ Liên Hiệp Quốc, trong đó có các quốc gia đồng minh ở Trung Đông như Ai Cập,
Jordan và Iraq.
Tổng Thống Donald Trump đã nói rất rõ rằng rằng Hoa Kỳ sẽ cứu xét việc tiếp tục tài trợ cho cơ quan Liên Hiệp Quốc và sẽ ghi nhớ những quốc gia nào bỏ phiếu chống Mỹ.
Tổng Thống Donald Trump đã nói rất rõ rằng rằng Hoa Kỳ sẽ cứu xét việc tiếp tục tài trợ cho cơ quan Liên Hiệp Quốc và sẽ ghi nhớ những quốc gia nào bỏ phiếu chống Mỹ.
Thế nhưng hầu như không có nước nào quan tâm đến lời đe dọa đó.
Trong các quốc gia bỏ phiếu ủng hộ Liên Hiệp Quốc và chống Mỹ có cả Anh, Pháp, Đức, và Nhật.
Tuy quyết nghị do Thổ Nhĩ Kỳ và Yemen đệ trình hoàn toàn không thể thi hành hoặc bắt buộc, nhưng nó cho thấy tiếng nói chung của cộng đồng thế giới trước một chính sách đối ngọai mà chính phủ Trump đang theo đuổi.
Trong các quốc gia ủng hộ Hoa Kỳ thì ngoài Do Thái còn có Guatemala, Honduras, và các đảo ở Nam Thái Bình Dương gồm Marshall Islands, Micronesia, Palau, Nauru và Togo.
Bà
Đại Sứ Hoa Kỳ Nikki Haley (bên phải) cùng Đại Sứ Anh Matthew Rycroft tại cuộc họp
của Hội Đồng Bảo Liên Hiệp Quốc ngày 18 tháng 12, 2017 (Drew Angerer/ Getty
Images)
Đại diện cho Hoa Thịnh Đốn tại Liên Hiệp Quốc là bà Đại Sứ Nikki Haley. Trước khi 193 quốc gia bỏ phiếu, bà Nikki Haley có tuyên bố như sau, “Hoa Kỳ sẽ ghi nhớ ngày này, ngày mà nước Mỹ bị tách riêng để bị tấn công tại Đại Sảnh Liên Hiệp Quốc, chỉ vì chúng tôi thực hiện quyền hành của một quốc gia.”
-----------------------------------
Huệ Vũ
Sunday, 10/12/2017 - 10:30:08
Vào
chiều ngày thứ Tư, 6 tháng 12, 2017, trời đã vào Đông, nhưng Nam California
đang có những đám cháy rừng dữ dội. Những đám cháy rừng trái mùa này chỉ gây
nóng ở tiểu bang Cali, còn Tổng Thống Donald Trump đã gây nóng cho cả thế giới,
sau khi ông ta tuyên bố chính thức thừa nhận thành phố Jerusalem là thủ đô của
Do Thái.
Cho
tới nay chưa có quốc gia, nguyên thủ nào chính thức công nhận Jerusalem là thủ
đô Do Thái. Hoa Kỳ dưới quyền Tổng Thống Donald Trump đã trở thành quốc gia duy
nhất trên thế giới. Lời tuyên bố của Tổng Thống
Trump làm cho người bảo thủ cực đoan và đạo Evangelicals ở Hoa Kỳ vô cùng hài
lòng. Thủ Tướng
Do Thái Benjamin Netanyahu đã nồng nhiệt cảm ơn, “Quyết định của Tổng thống Trump là một quyết định lịch sử, Do Thái sẽ
không bao giờ quên.”
Nhưng
Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc Antonio Guterres gọi giờ phút đưa ra lời tuyên bố của
Tổng Thống Trump là giờ phút “vô cùng lo ngại.” Đức Giáo Hoàng Francis đã cầu
nguyện cho sự khôn ngoan và thận trọng để tránh tạo thêm căng thẳng mới cho
toàn cầu đang ở trong tình trạng căng thẳng.” Hầu hết các nhà lãnh đạo, chính
khách, chính trị gia trên thế giới đã bày tỏ hối tiếc hay lên án lời tuyên bố của
TT Trump.
Không
chỉ người dân Palestine, người Hồi giáo trên khắp thế giới đã xuống đường. Ở Thủ
đô Kuala Lumpur, chính quyền Mã Lai phải tăng cường các biện pháp an ninh, hàng
ngàn người đã kéo tới Tòa Đại sứ Hoa Kỳ đốt hình nộm Tổng Thống Trump. Ở
Indonesia, quốc gia Hồi Giáo đông dân nhất thế giới, dân chúng xuống đường vẫy
cờ Palestine, hô to các khẩu hiệu chống Hoa Kỳ.
Tòa
Tổng Lãnh Sự Hoa Kỳ tại thành phố Surabaya đã phải chính thức ngưng hoạt động từ
ngày thứ Sáu, 8/12, lo sợ bị tấn công. Ở Pakistan, đảng Hồi Giáo
Jamaat-e-Islami kêu gọi người Hồi xuống đường trên toàn quốc sau lễ Cầu Nguyện
Ngày Thứ Sáu. Ở Ai Cập, cảnh sát đã dùng giây kẽm gai, trụ sắt, các tấm bững
thép rào chung quanh trụ sở Hội Báo Chí để đề phòng biểu tình. Dân Ai Cập đang
sống dưới chế độ độc tài sẵn sàng đàn áp đẫm máu, nên trong ngày thứ Sáu chỉ
vài trăm người xuống đường ở thủ đô Cairo và thành phố Alexandria. Tuy nhiên, Tổng
Thống Abdel-Fattah al-Sisi cũng nói rằng Ai Cập ủng hộ mạnh mẽ việc giữ nguyên
trạng thành phố Jerusalem.
Á
Rập Thống Nhất Emirates, Á Rập Saudi đều lên án lời tuyên bố. Các giới chức
chính trị trong vùng đều cho rằng quyết định của Tổng Thống Trump đã kết thúc
vai trò hòa giải của Hoa Kỳ trong vùng. Hamas đang kiểm soát dải Gaza tuyên bố
“Hoa Kỳ đang mở mọi cánh cửa địa ngục.”
Ở
Thổ Nhĩ Kỳ, hàng ngàn người ở thành phố Istanbul xuống đường đả đảo Hoa Kỳ. Tổng
thống Recep Tayyip Erdogan tuyên bố, “Quyết định của Tổng Thống Trump đặt thế
giới và đặc biệt là vùng Trung Đông lên lò lửa. Chống lại hành động của Trump
là bổn phận của người Hồi Giáo!”
Liên
Đoàn Á Rập đã triệu tập các cuộc hợp khẩn ở Cairo để thảo luận về lời tuyên bố
của TT Trump vào ngày thứ Bảy, 9/12. Chủ Tịch Ahmed Aboul Gheit mạnh mẽ lên án
Hoa Kỳ, nói rằng “đây là quyết định hợp thức hóa việc chiếm đóng.”
Các
nước đồng minh truyền thống quan trọng của Hoa Kỳ đều bày tỏ sự bất mãn. Thủ Tướng
Đức Angela Merkel tuyên bố không ủng hộ hành động này. Tổng thống Pháp Emmanuel
Macron nói rằng, “Đây là hành động đáng
tiếc, phản lại pháp luật quốc tế, và tất cả các nghị quyết của Hội Đồng Bảo
An.” Thủ tướng Anh Theresa May nói rằng bà ta muốn thảo luận lại vấn đề với
Tổng thống Trump, lập trường không công nhận Jerusalem là thủ đô Do Thái của
Anh là “lập trường bất biến.” Ngoại Trưởng Thụy Điển Margot Wallström nói rằng
quyết định của Tổng Thống Trump là một thảm họa. Ngoại Trưởng Didier Reynders của
Bỉ nói rằng đây là việc làm đầy nguy hiểm, sẽ tạo thêm bạo động trong vùng. Để
phản đối TT Trump, Liên Đoàn Á Rập kêu gọi các nước trên thế giới công nhận quốc
gia Palestine với thủ đô là Đông Jerusalem.
Sau
khi Liên Minh Á Rập bị Do Thái đánh bại trong năm 1967, Do Thái đã chiếm Đông
Jerusalem, Tây Ngạn và Dải Gaza. Trong trên nửa thế kỷ qua vấn đề Palestine
luôn luôn là nỗi nhục nhã cho thế giới Á Rập. Vấn đề Palestine-Do Thái cũng vẫn
luôn luôn là mối quan tâm, nỗ lực hòa giải của Hoa Kỳ và cộng đồng quốc tế,
nhưng không thành công.
Có
lẽ hy vọng đầu tiên đem lại hoà bình giữa Do Thái và Palestine là hiệp ước Oslo
năm 1993. Vào năm 1991, Tổng Thống George H.W. Bush và Ngoại Trưởng James Baker
đã vận động Do Thái và các nước Á Rập tham dự hội nghị hoà bình ở Madrid, Tây
Ban Nha, để giải quyết xung đột Trung Đông. Các cuộc đàm phán từ Madrid tới Hoa
Thịnh Đốn không đem lại kết quả. Nhưng tiếp theo đó, các cuộc đàm phán ở Oslo,
Na Uy, phái đoàn Do Thái và Tổ Chức Giải Phóng Palestine (PLO) đã có thể ký kết
một hiệp ước ấn định những điều kiện căn bản để thành lập một quốc gia
Palestine trong tương lai, dựa trên tinh thần nghị quyết 242 và 338 của Hội Đồng
Bảo An.
Thủ
Tướng Do Thái Yitzhak Rabin, Chủ Tịch PLO Yasser Arafat và Ngoại Trưởng Shimon
Peres đã được chọn trao tặng giải Nobel hòa bình năm 1994. Nhưng năm 1995, ông
Rabin bị ám sát và hiệp ước Oslo coi như chết dần sau đó, Do Thái gia tăng đưa
người qua Tây Ngạn định cư lên gấp đôi, dân quân Palestine lại nổi dậy chống Do
Thái mạnh hơn.
Vào
năm 2000, Tổng Thống Bill Clinton đứng ra hòa giải giữa ông Yasser Arafat và Thủ
tướng Ehud Barak thì chính quyền Do Thái lọt vào tay đảng Likud cực hữu, ông
Ariel Sharon lên làm Thủ tướng Do Thái và tiến trình hòa bình Thượng Đỉnh Trại
David chết yểu.
Trong
tháng 3 năm 2002, khối Á Rập đưa ra sáng kiến hoà bình “Land for Peace,” trả đất
tìm hoà bình, đề nghị Do Thái trả lại tất cả những vùng đất bị chiếm đóng để
tái lập hoà bình, thiết lập ngoại giao với các nước Á Rập. Ngoại Trưởng Shimon
Peres tỏ ra hoan nghênh Sáng Kiến Hoà Bình Á Rập nhưng nói rằng Do Thái chưa sẵn
sàng trả đất và cho phép người Palestine di cư hồi hương.
Tháng
7 năm 2002, Bộ Tứ gồm Liên Hiệp Quốc, Liên Âu, Hoa Kỳ và Nga đã thảo ra những
nguyên tắc ấn định lộ trình hoà bình Trung Đông. Theo lộ trình, chính quyền
Palestine phải ngăn chận, bắt giữ những người, hay những nhóm người có chủ
trương và hành động bạo động đối với Do Thái. Ngược lại, Do Thái phải ngưng thiết
lập và mở rộng các khu định cư. Nhưng gần như hai bên, Do Thái và Palestine đều
không thi hành những điểm nêu ra trong lộ trình. Lộ trình Bộ Tứ gần như đã bế tắc
sau khi Hamas chiến thắng cuộc bầu cử quốc hội năm 2006 và chiếm quyền kiểm
soát dải Gaza trong năm 2007.
Chính
phủ George W. Bush đã tổ chức Hội Nghị Annapolis vào cuối tháng 11 năm 2007, đưa
ra lộ trình hòa bình hai quốc gia, nhưng cũng không thành công. Ông Obama sau
khi lên làm Tổng thống đã chỉ định Nghị Sĩ George Mitchel làm Đặc sứ Hòa Bình
Trung Đông, nhưng Đặc sứ Mitchel không tạo nên sự tiến bộ nào và phải từ chức
sau hai năm nỗ lực. Nghị Sĩ John Kerry lên thay thế bà Hillary Clinton (thân Do
Thái) làm ngoại trưởng Hoa Kỳ, đã nhiệt thành vận động cho hòa bình
Palestine-Do Thái, nhưng cũng đã không mang lại kết quả gì. Do Thái không ngừng
mở rộng các khu định cư trong vùng chiếm đóng Tây Ngạn.
Sự
mâu thuẫn quá lớn giữa Palestine và Do Thái về lãnh thổ, về Jerusalem, về người
định cư và di cư đã làm cho mọi nỗ lực vận động cho hòa bình không thành công.
Thành phần Palestine quá khích như Hamas cho rằng quốc gia Do Thái hiện giờ là
lãnh thổ Palestine, nên không công nhận quốc gia Do Thái. Người Palestine ôn
hòa đi nữa cũng cho rằng quốc gia Palestine trong tương lai sẽ phải lấy
Jerusalem làm thủ đô.
Người
Do Thái không chỉ tin tưởng quốc gia của họ phải bao gồm những vùng đất Tây Ngạn
và Dải Gaza, Jerusalem phải là kinh đô của họ. Mà còn nhiều hơn nữa, Quốc gia
Do Thái đối với người Zionists phải là đất của vua David, Salomon, đất mà Chúa
Trời hứa hẹn với con cháu ông Abraham sẽ từ sông Ai cập tới sông Euphrates có đất
Kenite, Kamonite, Hittite, Perizzite, Rephain, Amorite, Canaanite, Girgashite
và Jubesite. (Genesis 15:18-20) chứ không phải biên giới hiện nay.
Jerusalem
đối với người Do Thái là thánh địa, là thành phố của của vua David. Vào thời
vua David, khoảng năm 1000 trước công nguyên, Do Thái đã cai trị một vùng đất rộng
lớn trải từ Hồng hải đến sông Euphrates. Jerusalem có nghĩa là thành phố hòa
bình đã được vua David chinh phục từ người Jebusites. Và ngôi đền thờ Đức Chúa
Trời đầu tiên của người Do Thái cũng đã được vua Solomon, người kế vị vua David
xây dựng lên ở đây. Với tin tưởng từ lịch sử, từ Kinh Thánh, Do Thái sẽ nhất định
không nhượng bộ dù một phần diện tích nào đó của thành phố này cho Palestine.
Jerusalem
cũng là Thánh Địa của người Thiên Chúa Giáo, là nơi Chúa Jesus bị đóng đinh
trên Thập Tự Giá, phục sinh sống lại và sau đó trở về Trời. Tới Jerusalem, đi bộ
trên con Đường Đau Khổ, nơi Chúa Jesus vát Thập Tự Giá đi qua, là mơ ước trong
đời của người Thiên Chúa Giáo. Nhà Thờ Mộ Thánh ở Jerusalem, là nơi thiêng
liêng của Thiên Chúa Giáo và Nhà Thờ này đang được Chính thống Giáo Đông
Phương, Chính Thống Giáo Armenia, và Giáo Hội Công Giáo cùng cộng đồng cai quản.
Với
người Hồi Giáo, Jerusalem cũng là thánh địa của họ. Theo sự tin tưởng, tín đồ Hồi
Giáo đến cầu nguyện một lần ở Mecca có giá trị bằng 2,000 lần cầu nguyện ở nơi
khác. Cầu nguyện một lần ở Medina có giá trị bằng 1,000 lần, và cầu nguyện ở
Jerusalem có giá trị bằng 500 lần. Theo người Hồi Giáo, Jerusalem là nơi mà ông
Muhammad, giáo chủ Hồi Giáo đã được thiên thần Gabriel thay mặt Chúa Trời chỉ dạy
về nghi thức cầu nguyện cho người Hồi Giáo. Ngôi đền Al-Aqsa ở Núi Đền là nơi
thiêng thiêng đứng hàng thứ 3 của người Hồi Giáo. Người Hồi Giáo chắc chắn cũng
sẽ không cam tâm để Jerusalem chính thức thành thủ đô của Do Thái.
Các
quốc gia Hồi Giáo Á Rập có thể coi là đồng minh Hoa Kỳ, họ hy vọng ảnh hưởng
Hoa Kỳ đối với Do Thái có thể giúp giải quyết cuộc xung đột Palestine-Do Thái.
Tuy nhiên, sau khi Tổng Thống Trump chính thức công nhận Jerusalem là thủ đô Do
Thái thì khó biết sau những lời chỉ trích sơ khởi đã nêu trên, các nhà lãnh đạo
các quốc gia Á Rập và Hồi Giáo sẽ có phản ứng gì. Hay cũng chỉ là những lời
nói, những lời tuyên bố như xưa nay mà thôi.
Tuy
nhiên, chúng tôi nghĩ rằng những lời nhận định của Ngoại Trưởng Thụy Điển
Margot Wallström và Ngoại trưởng Bỉ Didier Reynders sẽ trở thành thực tế. Trong
bốn ngày qua, ít nhất đã có bốn người Palestine biểu tình tử thương và trên 80
người bị thương. Trung Đoàn Tử Đạo Al-Aqsa thuộc quyền đảng Fatah của Tổng Thống
Abbas, là người tin tưởng vào giải pháp hòa bình, đã bắn rocket qua Do Thái, và
quân đội Do Thái đã pháo kích Dải Gaza làm ít nhất 25 người bị thương. Thủ lĩnh
Hamas đang kiểm soát Dải Gaza là ông Fathy Hammad kêu gọi người Palestine nổi dậy
cho Intifada lần thứ 3. Intifada lần thứ nhất diễn ra từ năm 1987 cho tới năm
1993, Intifada lần thứ nhì kéo dài từ năm 2000 tới năm 2005. Qua 2 đợt Intifada
này, hàng ngàn người Palestine tử thương và trên 1,000 người Do Thái thiệt mạng.
Đợt Intifada 3 khó biết sẽ kéo dài bao lâu, nhưng có thể sẽ liều lĩnh, cực đoan
hơn nhiều vì được bơm thêm ngọn lửa oán thù “Hoa Kỳ công nhận Jerusalem là thủ
đô Do Thái.”
Các
nhóm Hồi Giáo cực đoan ở Trung Đông và Á Châu từ lâu cũng đã coi Do Thái và Hoa
Kỳ là kẻ thù của chúng. Việc Hoa Kỳ công nhận Jerusalem là thủ đô Do Thái, cũng
rất có thể sẽ bơm thêm cho chúng nỗi căm hờn mới, bơm thêm cho chúng thêm những
yếu tố tuyên truyền mới, chiêu mộ mới, cho nên Trung Đông đang đầy khói lửa
cũng rất có thể sẽ gia tăng khói lửa.
Dù
bối cảnh sẽ diễn ra thế nào, có lẽ chỉ còn biết cầu nguyện cho hòa bình thế giới,
hòa bình Trung Đông, và Palestine. (hv)
------------------------------
Huệ Vũ
Sunday, 10/12/2017 - 10:52:05
Dân
số Palestine hiện nay khoảng trên 8 triệu người. Số người đang sống ở Dải Gaza,
West Bank và trong lãnh thổ Do Thái chỉ trên 4 triệu. Hơn một nửa đang sống ở
những quốc gia Arab và các nước trên thế giới được coi như người tỵ nạn
Palestine. Hiện đang có khoảng 5 triệu người Palestine phải sống nhờ vào sự
chăm sóc của cơ quan UNRWA (United Nations Relief and Works Agency for
Palestine Refugees in the Near East).
Dân
tộc Palestine có lẽ là dân tộc đau khổ nhất trên thế giới, trong lịch sử họ
chưa từng có quốc gia, và họ rất khó có thể tìm được một quốc gia trong giai đoạn
hiện nay khi Chủ Nghĩa Zionism chủ trương phải lấy lại tất cả “Vùng Đất Hứa”
theo Cựu Ước, và người Do Thái gần như thao túng chính sách ngoại giao của nhiều
cường quốc Tây Phương, trong đó có Hoa Kỳ.
Cùng
lúc đó, người Palestine lại cũng là con bài mà thành phần Hồi giáo Sunni cực
đoan muốn qua họ, dùng sự đàn áp của Do Thái để kích động tinh thần chống Tây
phương, chống chính phủ thế quyền, vua chúa tại các nước Á Rập. Khối Shiite do
Iran lãnh đạo cũng muốn dùng sự chiến đấu của người Palestine để cạnh tranh ảnh
hưởng và cảm tình trong khối Hồi Giáo.
Tên
gọi Palestine xuất hiện đầu tiên trong Cựu Ước là Philistin. Theo tài liệu của
đền thờ cổ Medinet Habu, Palestine là dân Peleset, một dân tộc miền biển, đã
xâm nhập Ai Cập dưới triều đại vua Usimare Ramesses III (cũng gọi là Ramses III
hay Ramese III), là vị Pharaoh thứ nhì của Triều đại thứ 20. Peleset được dịch
qua tiếng Anh là “Philistia.”
Hiện
cũng không thể xác định người Palestine hiện nay có phải là con cháu người
Philistines hay không. Theo lịch sử, vào năm 1000 BC, vua David của Do Thái
chinh phục người Philistines. Vào năm 922 BC vương quốc Israel bị chia làm đôi:
Israel ở phía bắc và Judad ở phía nam. Năm 721 BC Israel bị rơi vào tay
Assyria, đến năm 586 BC Judad bị Babylon chinh phục, thành phố Jerusalem bị phá
hủy, người Do Thái bị lưu đày.
Theo
các nghiên cứu gần đây, người Do Thái và Palestine có cùng huyết thống. Theo họ,
trong các đợt bị lưu đày, nhiều người Do Thái đã trốn tránh, cương quyết tiếp tục
ở lại quê hương, nhưng theo thời gian cả ngàn năm, họ đã thay đổi ngôn ngữ,
phong tục, để thích ứng với nhiều hoàn cảnh cay nghiệt, và cuối cùng họ đã theo
Hồi Giáo. Những kết quả nghiên cứu trên hiện cũng chưa được chính thức xác nhận!
Như vậy, dù có phải cùng là con cháu ông Abraham hay không, tiên tổ người
Palestine và Do Thái cũng đã từng là anh em trong một quốc gia kéo dài trong
nhiều trăm năm. Nhưng ngày hôm nay họ bị chính người anh em của mình trước kia
ngược đãi, đàn áp dã man. Họ cũng là nạn nhân của tranh chấp giữa Do Thái và Hồi
giáo.
Palestine,
sau thời kỳ Babylon là đế quốc Ba tư, La Mã cai trị. Tiếp theo đó là người Á Rập
Hồi giáo, đế quốc Thổ. Sau Thế Chiến Thứ Nhất, Palestine lại bị lệ thuộc Anh.
Người
Do Thái sau khi bị đế quốc Babylon và Đế quốc La Mã lưu dày, bán làm nô lệ, đã
đi sinh sống nhiều nơi trên thế giới không còn hiện diện nhiều ở vùng đất
Palestine thuộc Anh (lãnh thổ Do Thái hiện nay, Tây Ngạn và Gaza), vào năm 1850
trong toàn vùng chỉ có khoảng 12 ngàn người.
Vào
năm 1897, người Do Thái hợp đại hội phục quốc đầu tiên ở thành phố Basle, Thụy
Sĩ, bàn cách thành lập quốc gia Do Thái. Đại hội trong năm 1904 đề nghị thành lập
quốc gia Do Thái ở Á Căn Đình (Argentina), nhưng đại hội năm 1906 đã quyết định
quốc gia Do Thái phải là Đất Hứa Palestine. Trong năm 1917, Ngoại Trưởng Anh
Arthur J. Balfour đã gởi thư cho một lãnh tụ phục quốc Do Thái hứa hẹn sẽ giúp
thành lập quốc gia Do Thái. Sau Thế Chiến Thứ Nhất, người Do Thái các nơi trên
thế giới ồ ạt trở về vùng đất này. Từ năm 1920 tới năm 1945 có khoảng 350 ngàn
người Do Thái di cư hợp pháp vào Palestine.
Chủ
nghiã phục quốc Do Thái không chỉ đơn giản có một quốc gia Do Thái sống hòa
bình bên cạnh quốc gia Palestine hay chấp nhận người Palestine sống chung với
Do Thái. Quốc gia Do Thái đối với người Zionists phải là đất của vua David,
Salomon, đất mà Chúa Trời hứa hẹn với con cháu ông Abraham sẽ từ sông Ai cập tới
sông Euphrates có đất Kenite, Kamonite, Hittite, Perizzite, Rephain, Amorite,
Canaanite, Girgashite và Jubesite. (Genesis 15:18-20) chứ không phải biên giới
hiện nay.
Họ
cắt nghĩa giai đoạn 1000 năm trong sách Khải Huyền (Revelation) rằng thì là...
một khi người Do Thái phục hồi lại cõi bờ vua David, Salomon, sẽ tới thời kỳ mạt
thế và thăng thiên khoảng 7 năm, Chúa Jesus sẽ đến từ trời, hiện rực rỡ trong
mây đón rước những người tin Chúa lên thiên đàng. Sau giai đoạn này, Chúa Jesus
sẽ trở lại trần thế, chọn 144,000 người Do Thái cùng Ngài cai trị các nước trên
thế giới trong vòng 1000 năm cho tới ngày phán xét cuối cùng.
Những
điều tin tưởng trên của người Zionist có lẽ hoàn toàn bóp méo kinh điển. Nếu
Chúa Trời đã có hứa với ông Abraham thì phải chăng con cháu của ông ta, vua
David cũng đã từng nhận đất mà Ngài đã hứa? Kinh Thánh đã xác định Chúa Trời đã
chu toàn lời hứa qua các đoạn Joshua 21:43, Kings 8:56. Người Zeonist cũng đã
quên, không nhớ rằng tổ tiên của họ đã từng chối từ không công nhận chúa Jesus
là con của Chúa Trời. Qua Kings 9:6-9, Chúa Trời đã cảnh cáo nếu con cháu người
Do Thái không theo Chúa, không giữ lời Chúa, Ngài sẽ tước bỏ những đất đai mà
Ngài đã ban cho. Sự sụp đổ của vương quốc Israel-Juda phải chăng đã là sự trừng
phạt của Chúa Trời, và tội chối Chúa Jesus không công nhận Ngài là con Chúa Trời
cũng đã làm cho họ bị đế quốc La Mã bán làm nộ lệ khắp thế giới.
Tuy
nhiên, không phải chỉ có người Do Thái tin tưởng những điều huyễn hoặc mà các
nhà tiên tri Christian Zionists nêu lên. Nó được rộng rãi tin tưởng ở Anh và
Hoa Kỳ. Chính vì những tin tưởng như vậy mà Balfour đã cam kết với người
Zionist ở Anh, và Anh Quốc đã ngầm giúp cho người Do Thái trở về Palestine
trong thời gian cai trị vùng Palestine.
Ở
Hoa Kỳ, hội Người Thiên Chúa Đoàn Kết cho Do Thái (Christians United for Israel
- CUFI) là một hội rất mạnh. Người thành lập CUFI là Mục sư John C. Hagee của
Nhà thờ Cornerstone ở San Antonio/Texas có 19 ngàn tín đồ, giám đốc global
Evangelism Television, đã công khai tuyên bố quốc gia Do Thái phải gồm Tây Ngạn
và Gaza, đây là đất Chúa tuyệt đối dành riêng cho người Do Thái. Trong tháng 7
năm 2007, Mục sư Donald Wagner của đạo Presbyterian nói rằng điều ông lo ngại
nhất là Christian Zionists với trên 1 triệu tín đồ Evangelical trên thế giới đã
hết sức cực đoan chống Hồi Giáo và ủng hộ Do Thái có thể tạo thêm hận thù giữa
người Christian và người Hồi Giáo. Các nhà thờ Công Giáo (Catholic), Lutheran
và Orthodox trong vùng Trung Đông cũng rất lo sợ luận điệu của Evangelicals.
Người
phục quốc Do Thái không chỉ tin tưởng quốc gia của họ phải bao gồm những vùng đất
Tây Ngạn và Dải Gaza, Jerusalem phải là kinh đô của họ mà họ cũng không chấp nhận
sống chung với người Palestine.
Trong
năm 1895, ông Theodor Herzl được coi là nhà tiên tri của Zionism đã viết: “Hãy
tước đoạt nghị lực của dân tộc không đáng một xu trong nước chúng ta bằng cách
tước đoạt tài sản và xua đuổi chúng một cách vô cùng thận trọng.”
Người
lãnh đạo Do Thái đầu tiên là ông David Ben Gurion đã triệt để thực hiện chủ
trương của Herzl ngay từ lúc làn sóng di dân Do Thái mới bắt đầu trở về “Đất Hứa”
với hai chính sách là “Mua đất của người Palestine” và “chỉ dùng công nhân Do
Thái.” Người Do Thái đã thực sự bắt tay bí mật thực hiện chính sách thanh lọc
chủng tộc ngay từ năm 1937. Sau khi Ủy ban do ông Earl Peel cầm đầu đưa ra kế
hoạch phân chia Palestine, ông Ben Gurion đã tuyên bố: “Không thể có một quốc
gia Do Thái trong đó có một thiểu số người Á Rập nguy hiểm” và “Không thể có quốc
gia Do Thái nếu người mọi rợ điạ phương vẫn còn hiện diện trong biên giới.”
Thế
chiến Thứ Hai kết thúc, người Do Thái vẫn còn kinh hoàng với thảm trạng
Holocaust, nhưng ngay sau đó họ lại không có một chút lòng nhân đạo nào đối với
dân tộc Palestine, để mỗi năm người Do Thái tưởng niệm Holocaust, thì người
Palestine cũng mỗi năm mỗi tưởng niệm thảm trạng al-Nakba.
Thảm
trạng al-Nakba không có giết người tập thể bằng hơi ngạt như Holocaust, nhưng
hàng trăm, hàng ngàn người dân vô tội bị xua đuổi khỏi nhà cửa, khỏi làng mạc
mà ông cha, tổ tiên của họ đã sống từ bao ngàn năm trước.
Ngày
14 tháng 5 năm 1948 là ngày Anh chấm dứt sự cai trị Palestine cũng là ngày Do
Thái tuyên bố độc lập, thì từ nhiều tháng trước, Ben Gurion đã ra lệnh cho lực
lượng dân quân Haganah phải dùng mọi cách từ đe doạ tới khủng bố để làm cho người
Palestine phải đi khỏi lãnh thổ càng nhiều càng tốt. Nhà sử học Edgar O'balance
đã viết lại thảm trạng: “Xe Do thái với máy phóng thanh ra lệnh cho người Á Rập
phải nhanh chóng di tản... những làng xã người Palestine bị bao vây buộc phải
ra đi trong vòng 2 hay 3 ngày... xe ủi đất Do Thái tới dỡ nhà cửa ngay trước mắt
họ.”
Từ
cuối năm 1947 tới tháng 3 năm 1949, Do Thái đã hệ thống xua đuổi người
Palestine trong 4 đợt, số người bị buộc phải ra đi trên 800,000 người. Dọn sạch
khoảng 500 thị trấn, làng mạc và bộ lạc Palestine. Theo ước tính của Liên Hiệp
Quốc chỉ có 150 ngàn trong số 950 ngàn người Palestine lúc bấy giờ nhất định ở
lại với quê hương của họ. Qua cuộc chiến 1967 giữa Ai Cập và Do Thái, trên 300
ngàn người Palestine nữa đã phải trở thành người tạm trú ở những nước lân cận.
Đức
Chúa Trời chắc chắn phải là đấng nhân từ, nếu người Do Thái xua đuổi người
Palestine để lập lại vương quốc David, Solomon, Ngài sẽ cho Chúa Jesus xuống trần
để cùng người Do Thái cai trị thế giới hình như nghe cũng chẳng thuận tai chút
nào. Thế nhưng, đây là sự tin tưởng của Christian Zionists, của Evangelicals, của
hàng triệu người có thế lực chính trị tại nhiều cường quốc, cho nên người
Palestine có lẽ khó tìm được những ngày bình an, dù họ có từ bỏ những chiến thuật
đấu tranh sai lầm của họ hiện nay hay không.
Xin
cầu nguyện cho người Palestine, cầu nguyện cho họ sớm thấy rằng hình thức đấu
tranh của họ không thích hợp, chỉ phản lại chính nghĩa của họ. Nhưng cũng xin cầu
nguyện cho những người Zionists sớm thấy rằng Chúa Trời là đấng nhân từ. Ngài
có ban đất cho Do Thái thì chắc chắn cũng chọn lựa một cách nhân từ, tự nhiên
chứ không phải xua đuổi, tước đoạt quyền sống, đàn áp, một dân tộc khác.
Cầu
nguyện cho thảm trạng chiếm đóng trong thế kỷ thứ 21 sớm chấm dứt, dân tộc
Palestine có thể sống bình an, mưu cầu hạnh phúc cho chính họ như các dân tộc
khác trên thế giới. Cầu nguyện cho trẻ em Palestine không còn ngồi tù, không
còn đi ném đá quân nhân, cảnh sát Do Thái để bị bắn chết. Cầu nguyện cho chúng
có thể cắp sách tới trường như trẻ em các dân tộc khác trên thế giới. (hv)
No comments:
Post a Comment