Tiết Trực (từ Việt Nam)
22/06/2017
Tại
sao các tổ chức xã hội dân sự/tôn giáo phải vào cuộc trong vụ ngư dân Nghệ An
kiện Formosa?
Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cần nhắc lại những
diễn tiến trong vụ kiện Vedan để đòi bồi thường thiệt hại cho nông dân bị ảnh
hưởng vì chất thải của Vedan. Phần thông tin về Vedan trong bài viết này được lấy
chủ yếu trong tài liệu Tình huống Vedan (Nghĩa, 2011).
Công ty Cổ phần hữu hạn Vedan Việt Nam đặt tại xã
Phước Thái, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai trên diện tích 120 ha theo Giấy
phép đầu tư số 171/GP do Uỷ Ban nhà nước và hợp tác đầu tư cấp ngày 08/03/1991.
Đây là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài với tổng vốn dự án là 432.419.416 USD,
số lao động dự kiến 1.800-2.600 người. Công ty Vedan bắt đầu hoạt động từ năm
1993, sản xuất bột ngọt, lysine, tinh bột, nước đường, xút (NaOH), axit (HCL),
thức ăn chăn nuôi, phân bón và một số sản phẩm khác. Công ty Vedan sử dụng nước
cấp trung bình 20.000-25.000 m3/ngày và nước làm mát lấy từ sông Thị
Vải khoảng 40.000 m3/ngày.
Trước năm 1993, khoảng 40% số hộ dân của các xã ven
sông huyện Long Thành, Đồng Nai, sống bằng nghề nuôi trồng và đánh bắt thủy sản.
Sau khi Vedan hoạt động vào năm 1993 cho tới giữa năm 1994 nhiều xã của huyện
Long Thành đã bắt đầu nhận thấy sông Thị Vải bị ô nhiễm, cá chết ngày càng nhiều.
Họ đã làm đơn khiếu nại nhiều nơi song yêu cầu của họ không được giải quyết. Do
sản lượng thủy sản giảm nhanh, bắt đầu từ tháng 10/1994, nhiều người kinh doanh
nghề nuôi trồng thủy sản trên sông Thị Vải thông báo với Chi Cục Thuế huyện
Long Thành tạm ngưng kinh doanh, không nộp thuế.
Năm 1995, Vedan đã lâp Báo cáo đánh giá tác động môi
trường, được Bộ Khoa học công nghệ và môi trường thẩm định ngày 04/05/1995.
Cùng năm này, dưới danh nghĩa hỗ trợ cho ngư dân chuyển đổi nghề nghiệp, Vedan
đã trả cho các hộ dân khoảng 15 tỉ đồng thông qua chính quyền tỉnh Đồng Nai.
Việc gây ô nhiễm sông Thị Vải tiếp tục kéo dài cho đến
ngày 08/09/2008, sau ba tháng sử dụng trinh sát cải trang mật phục, Cục Cảnh
sát phòng chống tội phạm về môi trường và Đoàn kiểm tra liên ngành bắt quả tang
Vedan xả chất thải chưa qua xử lý ra sông Thị Vải qua những đường ống ngầm.
Ngày 13/09/2008 đoàn kiểm tra đã lập biên bản hành vi xả nước thải chưa qua xử
lý thông qua những đường ống ngầm ra sông Thị Vải. Ước tính Vedan xả
3.500-4.500 m3 chất thải/ngày ra sông Thị Vải qua hệ thống những
đường hầm bí mật và tinh vi.
Hành vi xả thải không qua xử lý của Vedan làm thiệt
hại đến nghề đánh bắt và nuôi trồng thủy sản của hàng ngàn nông dân và ngư dân
của ba địa phương sống hai bên bờ sông Thị Vải, cụ thể như sau: Đồng Nai, số hộ
bị thiệt hại khoảng 5.600 hộ, tập trung ở hai huyện Long Thành và Nhơn Trạch;
Bà Rịa-Vũng Tàu, khoảng 1.255 hộ; Huyện Cần Giờ, TPHCM, khoảng 839 hộ.
Sau khi vi phạm của Vedan bị phát hiện, từ tháng
11/2008- cuối tháng 12/2009, nông dân các địa phương trên đã làm đơn yêu cầu
Vedan bồi thường thiệt hại.
Phản ứng của chính quyền ở ba địa phương liên quan
có khác nhau. Tại TPHCM, sau khi xin ý kiến của Thành ủy và UBNDTP để Hội nông
dân TP hướng dẫn bà con huyện Cần Giờ đấu tranh với Công ty Vedan, Hội nông dân
TPHCM chỉ đạo Hội nông dân Cần Giờ đứng ra làm đầu mối tiếp nhận đơn thư khiếu
nại, khiếu kiện của 1.824 hộ dân.
Tại BR-VT, một Ban điều tra xác định thiệt hại về
tài nguyên môi trường với sự tham gia của nhiều ban ngành do Phó GĐ Sở
NN&PTNT chỉ đạo được thành lập để tiếp nhận các đơn khiếu nại của các nông
hộ.
Tại Đồng Nai, việc giải quyết yêu cầu đòi bồi thường
của các hộ dân được giao cho một Ban chỉ đạo do đại diện Sở TNMT chịu trách nhiệm
thường trực. Trong việc này, UBND Đồng Nai tỏ ra khá lúng túng vì số lượng các
hộ dân bị hại lớn, khoảng 5.600 hộ dân, nếu khởi kiện từng hộ phải có chữ ký của
chồng và vợ, lúng túng vì chưa chắc chắn về chứng cớ, vùng thiệt hại, vì nông
dân nuôi tôm không có hóa đơn, không rõ mật độ, trữ lượng cá trên sông được chứng
minh như thế nào. Ngoài ra còn khó khăn vì phải tạm ứng án phí khởi kiện. Nếu tạm
tính 2,5% giá trị vụ tranh chấp của riêng nông dân Đồng Nai là 119 tỉ đồng thì
nông dân nếu muốn khởi kiện phải nộp tạm ứng án phí là 2.975.000.000 đồng.
Để xác định thiệt hại làm căn cứ đòi bồi thường, dưới
sự chỉ đạo thống kê thiệt hại của Bộ TN&MT, ngày 29/01/2010 Viện Môi trường
và Tài nguyên (ĐHQG TPHCM) công bố kết quả thẩm tra xác minh thiệt hại của nông
dân, theo đó 2.686 ha nuôi trồng thủy sản trên lưu vực sông Thị Vải đã bị ô nhiễm,
90% tác nhân là do Vedan.
Trước tình huống nông dân muốn kiện Vedan mà không
biết thực hiện như thế nào, Hội Luật gia tỉnh Đồng Nai đã nhập cuộc. Theo ông
Nguyễn Đức, Chủ tịch Hội Luật gia Đồng Nai, cuối tháng 7/2010, Hội Luật gia nhận
được sự đồng ý bằng văn bản của UBND Đồng Nai, theo đó bà con nông dân có thể
chọn thỏa thuận với Vedan hoặc kiện ra tòa án, nếu kiện ra tòa án thì Hội Luật
gia tỉnh Đồng nai có trách nhiệm trợ giúp. Ngày 27/07/2010 Ban Thường vụ Tỉnh hội
Luật gia Đồng Nai họp mở rộng, mời tất cả các đảng viên tham dự, kêu gọi trợ
giúp miễn phí cho nông dân hai huyện Long Thành và Nhơn Trạch. Hưởng ứng lời
kêu gọi, 40 Văn phòng với hàng trăm luật sư đã tình nguyện tham gia hỗ trợ miễn
phí cho nông dân Đồng Nai, giúp họ thảo đơn kiện và chuẩn bị hồ sơ vụ kiện, làm
đơn giảm án phí, hoàn tất các thủ tục ủy quyền cho luật sư, giúp đỡ vẽ sơ đồ
vùng thiệt hại, tìm kiếm chứng cớ giúp nông dân. Cho đến ngày 12/09/2010, gần
5.000 đơn khởi kiện của nông dân Đồng Nai đã được nộp cho tòa án với sự tự nguyện
tham gia trợ giúp miễn phí của hàng trăm luật sư và luật gia.
Do nông dân muốn khởi kiện phải tạm ứng án phí cho
tòa án nhưng họ lại rất nghèo không có tiền làm việc đó nên Bộ TNMT đã ứng trước
2,6 tỉ đồng từ Quỹ bảo vệ môi trường nộp tạm ứng án phí cho nông dân. Gia đình
khó khăn, gia đình chính sách được miễn hoặc giảm án phí. Các tờ báo lớn ở Việt
Nam tổ chức hội thảo, kêu gọi hỗ trợ nông dân. Các đoàn đại biểu Quốc hội chất
vấn trách nhiệm của chính quyền địa phương và lãnh đạo Bộ TNMT.
Đứng trước phản ứng của dư luận cả nước, Vedan phải
xem xét lại đối sách của mình. Trong các năm 2008-2009, Vedan không chấp nhận bồi
thường, chỉ ưu tiên đàm phán với chính quyền, chỉ đưa ra cam kết hỗ trợ nông
dân. Từ khi Viện Tài nguyên và Môi trường tính ra con số thiệt hại cụ thể,
Vedan mới chấp nhận đàm phán về bồi thường thiệt hại với mức độ chấp nhận mức bồi
thường nhích dần lên từ từ theo thời gian.
Cuối cùng, trong tháng 8 và 9/2010, Vedan đã phải ký
cam kết bồi thường thiệt hại cho nông dân với tổng số tiền là 218,867 tỉ đồng.
trong đó 839 hộ nông dân Cần Giờ được bồi thường 45,748 tỉ đồng, 1.255 hộ nông
dân BR-VT được bồi thường 53,619 tỉ đồng, và gần 5.000 hộ nông dân Đồng Nai với
số tiền 119,5 tỉ đồng [1].
Tóm lại, từ những thông tin về vụ kiện Vedan như
trên ta thấy:
·
Để đòi được tiền bồi thường, bên thưa kiện phải đưa
ra được các chứng cớ về thiệt hại và tính toán được diện tích nuôi trồng thủy sản
bị thiệt hại một cách thuyết phục. Trong trường hợp này vai trò của Viện Môi
trường và Tài nguyên (ĐHQG TPHCM) là quan trọng cho vụ kiện.
·
Bản thân nông dân không thể lập được hồ sơ kiện mà
phải có sự trợ giúp của nhiều hội đoàn tham gia như Hội nông dân, Hội Luật gia.
Các hội này đều do chính quyền thành lập.
·
Chính quyền ủng hộ hoàn toàn cho vụ kiện của nông
dân bằng cách chỉ đạo các cơ quan ban ngành có liên quan tham gia trợ giúp từ cấp
trung ương đến địa phương, kể cả việc tạm ứng án phí cho nông dân.
·
Luật về trách nhiệm pháp lý (Luật Bảo vệ Môi trường)
là cơ sở để đòi bồi thường vì nếu không có luật này thì không khi nào bên bị kiện
chấp nhận bồi thường. Thường thì bên bị kiện rất ngại vụ việc dẫn đến tòa án vì
nhiều lý do nên họ có thể chấp nhận thương lượng để bồi thường thay vì đưa nhau
ra tòa để chấp nhận phán quyết của tòa án.
·
Dù vụ việc được giải quyết thông qua thương lượng
nhưng bên đi kiện cũng mất rất nhiều thời giờ, công sức và tiền bạc để chuẩn bị
cho vụ kiện. Thời gian từ khi bắt quả tang đến cam kết bồi thường mất hai năm
(từ tháng 9/2008-tháng 9/2010).
Từ vụ kiện Vedan, nhìn lại vụ kiện Formosa của ngư
dân tỉnh Nghệ An, chúng ta thấy có sự khác biệt gì? Vì sao ngư dân Nghệ An khởi
kiện?
Công ty TNHH Hưng Nghiệp Formosa được cho là đã gây
ra thảm họa môi trường biển cho 4 tỉnh Miền Trung là Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng
Trị, Thừa Thiên-Huế do xả thải qua đường ống ngầm đi ra biển. Hiện tượng cá chết
hàng loạt bắt đầu từ ngày 06/04/2016 và kéo dài cho tới nhiều ngày sau gây sự
phẫn nộ của cả nước. Để trấn an dư luận, Chính phủ chỉ đạo các cơ quan liên
quan như Bộ Tài nguyên Môi trường, Bộ Công an, Bộ Khoa học Công nghệ,…điều tra
và sau đó công bố nguyên nhân cá chết là do nguồn thải ở khu vực Vũng Áng - Hà
Tĩnh chứa keo sắt dưới dạng mixel hấp phụ các chất như Phenol, Xyanua… di chuyển
theo dòng hải lưu.
Ngày 30/06/2016 là ngày họp báo của chính phủ công bố
nguyên nhân cá chết và thỏa thuận bồi thường 500 triệu USD của Formosa cho các
thiệt hại kinh tế và môi trường cho các vùng bị ảnh hưởng ở Miền Trung, sau quá
trình chính phủ đàm phán với Formosa với tinh thần “phải đảm bảo quyền lợi của
hàng triệu người dân miền Trung nhưng cũng đảm bảo lợi ích các bên, đảm bảo Thỏa
thuận về xúc tiến và bảo hộ đầu tư giữa VN và Đài Loan”[2]. Trong buổi họp báo
này, để trả lời phóng viên hãng Nikkei: “Số tiền 500 triệu USD
là cao, cao nhất trong lịch sử bồi thường ở VN, đã được tính toán như thế nào? Bộ
trưởng Trần Hồng Hà cho biết: “Mục đích của chúng tôi đặt ra 500
triệu USD là rất nhỏ. Đây mới là tính sơ bộ thiệt hại người dân, thiệt hại sơ bộ
về biển còn những thiệt hại rất nhiều như tổn thương tâm lý, hệ lụy sau này
nhưng chúng tôi không cần thiết bao nhiêu mà yêu cầu Formosa chuyển đổi công
nghệ và thực hiện nghiêm việc xử lý ô nhiễm môi trường”[3].
Do thông báo của chính phủ chỉ bồi thường cho 4 tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế nhưng ảnh hưởng của chất thải Formosa không chỉ giới hạn trong phạm vi 4 tỉnh mà còn lan sang tỉnh giáp ranh Hà Tĩnh là Nghệ An. Một số vùng ở Nghệ An cũng bị thiệt hại do biển không còn cá để đánh bắt nên tàu nằm bờ không ra khơi đánh bắt được làm thiệt hại sinh kế của người dân rất nhiều mà đây lại là sinh kế duy nhất của họ (ví dụ như Giáo xứ Song Ngọc ở Nghệ An). Những ngư dân bị thiệt hại ở Nghệ An đã không được chính phủ kể vào danh sách được bồi thường trong số tiền 500 triệu USD. Chính vì vậy mà họ muốn khởi kiện để thủ phạm Formosa phải bồi thường cho họ. Và những người giúp họ làm đơn kiện là những người tình nguyện hoặc các vị chức sắc tôn giáo đã thể hiện lương tri con người trước nỗi đau của đồng loại, không tỏ ra vô cảm trước bất công xã hội. Nhưng việc kiện của ngư dân Nghệ An bị nhà cầm quyền địa phương cản trở quyết liệt, kể cả sử dụng bạo lực ngăn không cho họ có cơ hội tới tòa án thị xã Kỳ Anh, Hà Tĩnh để nộp đơn [4].
Tới đây, so sánh vụ kiện của ngư dân Nghệ An với vụ
kiện Vedan, ta thấy có những điểm khác biệt. Đó là:
·
Vụ kiện Formosa không được chính quyền ủng hộ vì
chính quyền trung ương đã ký thỏa thuận với Formosa miễn tất cả những trách nhiệm
pháp lý của Formosa về bồi thường thiệt hại môi trường sau khi Formosa nhận tội
và cam kết trả 500 triệu USD cho chính phủ.
·
Do muốn Formosa nhận trách nhiệm nhanh chóng khi vụ
cá chết hàng loạt xảy ra và để giảm nhiệt cơn phẫn nộ của nhân dân sau tuyên bố
của ông Chu Xuân Phàm, Giám đốc đối ngoại của công ty Formosa về việc dân Việt
Nam phải lựa chọn một trong hai sản phẩm cá hoặc thép nếu không có được cả hai,
Chính phủ, vì không muốn mất nhiều thì giờ để điều tra thiệt hại thực tế như
trong vụ Vedan, đã sớm thỏa thuận cả gói với Formosa số tiền 500 triệu USD. Số
tiền này được nhiều chuyên gia đánh giá là không thấm vào đâu nếu tính đúng
tính đủ mức thiệt hại thực sự. Thực ra số tiền 500 triệu USD là quá ít vì chỉ với
4 tỉnh trong danh sách mà theo thông báo của chính phủ mỗi hộ được bồi thường
thiệt hại sinh kế chỉ trong thời gian 6 tháng thì thời gian còn lại không có cá
biển để đánh bắt thì họ sống bằng gì. Như vậy ta hiểu tại sao chính phủ không
muốn đưa thêm Nghệ An vào danh sách được bồi thường.
·
Vì vụ kiện Formosa không được chính phủ ủng hộ như vụ
kiện Vedan nên không có cơ quan ban ngành, đoàn thể nào của chính quyền dám
tham gia giúp ngư dân Nghệ An chuẩn bị hồ sơ kiện như đã giúp nông dân trong vụ
Vedan.
·
Chính vì lẽ đó, những người yêu chuộng công lý, công
bằng xã hội bên ngoài bộ máy chính quyên như các tổ chức xã hội dân sự và các
chức sắc tôn giáo đã tự nguyện đứng ra giúp đỡ ngư dân Nghệ An làm đơn khởi kiện
vì cũng giống như nông dân ven sống Thị Vải, ngư dân là những người chỉ biết
lao động kiếm sống chứ không thể biết những thủ tục cần thiết cho một vụ kiện.
Để chuẩn bị cho vụ kiện cần phải tốn nhiều nguồn lực cho hồ sơ kiện và tạm ứng
án phí nên nếu chỉ bản thân ngư dân thì không có tiền vì đã bị thảm họa môi trường
triệt tiêu sinh kế. Vì lẽ đó có những người có lòng từ tâm trong và ngoài nước
đã cùng nhau quyên góp tiền để giúp trang trải cho chi phí vụ kiện được dự kiến
là rất lớn.
·
Trong vụ kiện Formosa ở Nghệ An, các vị chức sắc tôn
giáo đã phải tham gia giúp ngư dân làm hồ sơ khởi kiện vì trong đó có những
vùng bị thiệt hại mà ngư dân có đạo chiếm tỉ lệ lớn trong dân số. Các ngư dân
này không được cơ quan đoàn thể nào của chính quyền giúp đỡ như vụ Vedan mặc dù
thiệt hại có cơ sở chứng minh. Thế thì ngư dân phải trông dựa vào ai để bảo vệ
quyền lợi của mình nếu không phải là dựa vào các chức sắc tôn giáo? Trong trường
hợp này, các chức sắc tôn giáo ở Giáo phận Vinh đã làm đúng vai trò “Sống Phúc
Âm giữa lòng dân tộc”, “Công giáo đồng hành cùng dân tộc” vì ngư dân Nghệ An
cũng là một thành phần của dân tộc.
Tóm lại, trong vụ kiện Vedan của nông dân Cần Giờ,
Bà Rịa-Vũng Tàu và Đồng Nai, chính quyền trung ương đứng về phía bị hại nên
nông dân được sự trợ giúp rất nhiều từ các cơ quan ban ngành đoàn thể của chính
quyền và đạt được kết quả tương đối tốt. Trong khi đó, trong vụ kiện Formosa của
ngư dân Nghệ An, do mối quan hệ “đặc biệt” của chính quyền trung ương và địa
phương với Formosa, được thể hiện qua những ưu đãi chưa từng có mà các doanh
nghiệp khác không được hưởng và thời gian hoạt động của Formosa được nâng lên
70 năm thay vì bình thường chỉ có 50 năm, và tiền bồi thường cho tất cả mọi thiệt
hại và mọi đối tượng đều gói gọn trong số tiền 500 triệu USD, nên khi phát sinh
vụ ngư dân Nghệ An kiện Formosa đòi bồi thường thiệt hại thì chính quyền tìm
cách dập tắt quyền được kiện chính đáng của người dân theo Luật Bảo vệ Môi trường
năm 2014. Và vì chính quyền không bật đèn xanh cho vụ kiện nên không có cơ quan
ban ngành đoàn thể nào dám lên tiếng nói ủng hộ ngư dân. Đứng trước viễn cảnh
nhiều hộ gia đình ngư dân bị triệt tiêu sinh kế vì Formosa trong khi công ty
này lại được chính quyền cam kết bảo vệ công việc làm ăn để bảo vệ lợi nhuận của
họ, các tổ chức xã hội dân sự và các chức sắc tôn giáo địa phương đã can đảm
lên tiếng trước thảm họa môi trường do Formosa gây ra và đòi hỏi phải có sự
công bằng trong xã hội nên đã đứng ra giúp đỡ người dân trong vụ kiện.
Chúng ta biết Việt Nam là nước nghèo nên rất khao
khát nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc
làm cho người lao động, đóng góp vào ngân sách nhà nước. Nhưng chúng ta cũng
không nên quên rằng mục đích cuối cùng của nhà đầu tư là lợi nhuận. Mà muốn có
lợi nhuận thì phải tiết kiệm chi phí. Cho nên tiết kiệm/tránh né chi phí xử lý
chất thải cũng là một phương cách giúp nhà đầu tư tăng thêm lợi nhuận. Vì lẽ đó
các nước nghèo thường là nơi để các nhà đầu tư nước ngoài xem là địa điểm lý tưởng
để kiếm lợi nhuận và đổ chất thải của thế giới.
Nhưng chúng ta cũng lại biết rằng một nền kinh tế muốn
phát triển bền vững phải đứng vững trên cả ba chân: kinh tế, xã hội, và môi trường.
Vậy thì sự tham gia của các tổ chức xã hội dân sự cũng như của các tổ chức tôn
giáo nói chung vào mục tiêu hướng tới công bằng xã hội và bảo vệ môi trường là
rất cần thiết để giúp Việt Nam phát triển bền vững cho cả thế hệ hiện tại và
các thế hệ tương lai.
*
Tài
liệu tham khảo
[1] Tình huống Vedan. Phạm Duy Nghĩa, 2011. Chương
trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright.http://www.fetp.edu.vn/cache/MPP04-541-C04V-2012-02-08-17595994.pdf
[4] http://www.viendongdaily.com/giao-dan-song-ngoc-khoi-kien-formosa-bi-cong-an-ngan-chan-QAX7jEEH.html
No comments:
Post a Comment