Thứ Hai, 08/05/2017 07:21
Nếu
không có kế hoạch khai thác một cách hợp lý và hiệu quả, viễn cảnh Việt Nam phải
nhập khẩu cát hoàn toàn có thể xảy ra.
Nghịch
lý đáng lo
Theo số liệu từ Vụ Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng),
hiện nay nguồn cát được cấp phép khai thác của Việt Nam chỉ đáp ứng khoảng
60-65% nhu cầu của các thành phố lớn. Việt Nam đang phát triển hạ tầng rất
nhanh và mạnh nên nhu cầu về nguyên liệu này không ngừng tăng cao.
Với tốc độ xây dựng như hiện nay, các chuyên gia
trong lĩnh vực vật liệu xây dựng cho rằng, chỉ chưa đầy 15 năm nữa, nguồn cung
cát sẽ cạn kiệt.
Trong khi đó, hiện nay, việc khai thác nguồn tài
nguyên cát đã không có một quy hoạch khoa học, tình trạng khai thác cát
quá mức cho phép và trái phép diễn ra triền miên tại các địa phương. Đáng
lo ngại hơn, nhiều doanh nghiệp còn tận thu cát để xuất khẩu sang các quốc gia
khác.
Dù đứng trước nguy cơ thiếu cát nhưng Việt Nam vẫn
xuất khẩu cát Ảnh: Nhân dân
Trao đổi với Đất Việt, TS Đào Trọng Tứ, Giám đốc
Trung tâm Phát triển bền vững tài nguyên nước và thích nghi biến đổi khí hậu (Hội
Tưới tiêu Việt Nam, Mạng lưới sông ngòi Việt Nam), cho rằng những lo ngại trên
hoàn toàn có cơ sở.
Theo vị chuyên gia, cát là một tài nguyên quý giá, một
thành phần quan trọng của hệ sinh thái tự nhiên. Nó là một trong những yếu tố tạo
nên dòng sông, dòng chảy và sự ổn định cho lòng, bờ, bãi sông, cho cuộc sống
con người và hệ sinh thái ở thượng lưu, hạ lưu phụ thuộc vào con sông...
Hiện nay cát phục vụ nhu cầu xây dựng, sản xuất của
các địa phương có 2 nguồn chính. Một là từ các mỏ cát ở vùng núi, ở các bãi
sông lớn. Hai là cát ở dưới đáy các dòng sông.
"Việc khai thác cát dưới lòng sông để bán hiện đang mang lại
siêu lợi nhuận. Do đó các doanh nghiệp liên tục đẩy mạnh khai thác cát, kể cả
chính thức hoặc khai thác lậu.
Việc này diễn ra công khai tại nhiều dòng sông chảy qua các tỉnh,
thành cả nước. Thậm chí cát còn được xuất khẩu. Nếu cứ tình trạng này diễn
ra, tôi nghĩ không đến 15 năm nữa, chúng ta sẽ cạn kiệt nguồn cát”, ông Tứ lo ngại.
TS Đào Trọng Tứ khẳng định, dư luận đã nhiều lần đề
cập đến việc tận thu cát tại các dòng sông và những hiểm họa khôn lường có thể
gặp phải đối với các con sông, đến phát triển kinh tế, ổn định xã hội
của các địa phương và đất nước và cuộc sống của người dân.
Đến thời điểm
này, tình trạng mực nước tại sông Hồng bị xuống thấp hay hiện tượng sạt lở đất
tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long là minh chứng rõ nhất cho việc khai thác
cát không được quy hoạch và kiểm soát.
"Trên sông Hồng, theo một số kết quả nghiên cứu gần đây của
các cơ quan khoa học của Bộ NN-PTNT, lượng cát khi thác hằng
năm giao động khoảng hơn 10 triệu m3 khiến cho lòng sông Hồng bị hạ thấp dẫn
đến mực nước sông hạ thấp.
Việc này tác động rất lớn đến việc lấy nước của các công trình lấy nước
tưới cho Đồng bằng sông Hồng, tác động tiêu cực đến môi trường và cảnh quan và
cuộc sống của cộng đồng ven sông.
Một trong những thí dụ về tác động của lượng bùn cát trên sông giảm
có thể thấy ở hệ thống sông chảy qua nhiều tỉnh khu vực đồng bằng sông Cửu
Long. Hiện tượng sạt lở bờ sông, bờ biển đã và đang diễn ra ngày càng nhiều
gây thiệt hại vô cùng lớn về đất đai, tài sản, hoa màu cho người dân.
Ngoài vấn đề tác động của thiên nhiên, giảm đáng kể phù sa đến đồng bằng
sông Cửu Long từ thượng nguồn và thay đổi dòng chảy… thì việc khai
thác cát tại chỗ quá mức cũng là một nguyên nhân”, ông Tứ dẫn chứng.
Cấp
phép nhưng thiếu hoặc hạn chế trong hậu kiểm
Lý giải nghịch lý trên, TS Đào Trọng Tứ cho rằng,
nguyên nhân chính nằm ở chỗ khai thác, tận thu cát tạo ra siêu lợi nhuận cho những
tổ chức và cá nhân liên quan. Ngoài ra dù cấp phép nhưng thiếu hoặc hạn
chế trong hậu kiểm khiến tài nguyên của chung bị khai thác bừa
bãi, ngân sách nhà nước không thu được là bao.
“Tôi nghĩ dư luân đặt vấn đề lợi ích nhóm và bảo kê khi cát tặc, cát lậu
diễn ra thường xuyên là có cơ sở. Thực tế, các đối tượng hút cát trái phép thường
dùng những tàu công suất lớn để hút và vận chuyển.
Việc đi lại hết sức nhộn nhịp, thậm chí họ còn sẵn sàng đe dọa người dân.
Rõ ràng việc này không tinh vi như các đối tượng buôn bán đồ cấm. Vì vậy làm
sao có thể nói họ lén lút khai thác? Đây là công khai hút cát”, ông Tứ nhấn mạnh.
Ngoài ra, việc quản lý nhà nước còn nhiều bất cập,
chồng chéo nên tình trạng trên vẫn diễn ra dù được đề cập đến nhiều.
Viễn
cảnh nhập cát
Nhìn nhận một cách toàn diện tài nguyên thiên nhiên
của Việt Nam, TS Đào Trọng Tứ thừa nhận, nghịch lý trên không chỉ tồn tại với
cát mà đã từng xảy ra than, quặng sắt hay vật liệu xây dựng.
Đối với nguồn tài nguyên cát, nếu không có kế hoạch
khai thác một cách hợp lý và hiệu quả, vị TS này cho rằng viễn cảnh tương tự
than, quặng sắt hay vật liệu xây dựng hoàn toàn có thể xảy ra.
“Với nguồn tài nguyên cát, có cung thì ắt sẽ có cầu. Do vậy các cơ quan
nhà nước cần đánh giá cụ thể trữ lượng và vấn đề cung - cầu trong nước để có những
định hướng, quy hoạch rõ ràng cho quá trình khai thác.
Thứ hai, các tỉnh, thành phố, phải tăng cường lực lượng bảo vệ và phải có
sự quyết liệt với các đối tượng khai thác trái phép.
Thứ ba, trách nhiệm của các bộ, ngành cũng cần phải rõ ràng, tránh chồng
chéo như hiện nay. Người dân không thể tự bảo vệ việc này nếu như cơ quan nhà
nước không siết chặt quản lý. Cuối cùng chế tài xử phạt cần phải nghiêm khắc
hơn nữa.
Nguyễn
Hoàn
No comments:
Post a Comment