Giáo Sư Ðàm Trung Pháp
May 24, 2017
Hai lãnh vực cơ bản trong tiến trình thủ đắc một ngoại
ngữ là ngữ pháp và ngữ vựng. Nhưng nếu được hỏi lãnh vực nào hữu dụng hơn khi
phải dùng một ngôn ngữ chưa thông thạo để giao dịch với người bản xứ thì có lẽ
chẳng ai chọn ngữ pháp làm câu trả lời. Ðã đành các luật lệ ngữ pháp là cần thiết
để viết hay nói thứ tiếng đó cho chỉnh và làm người bản xứ hiểu ta rõ hơn,
nhưng nếu chỉ thuộc lòng các quy luật ngữ pháp mà lại yếu kém về ngữ vựng thì nỗ
lực giao dịch ấy khó lòng thành tựu được.
Ngữ
Vựng Tiếng Việt
2017/688 trang/$40
Cơ sở xuất bản: Viện Việt Học
Ðiện thoại liên lạc: 714-775-2050
2017/688 trang/$40
Cơ sở xuất bản: Viện Việt Học
Ðiện thoại liên lạc: 714-775-2050
Thật vậy, câu nói “Vì tiếng Anh không khá, bạn tôi
đã ba lần rớt bài thi vào quốc tịch Mỹ rồi” trong tiếng Anh (đúng ngữ pháp) là
“Because his English is poor, my friend has failed the American citizenship
test three times already,” nhưng câu (sai bét ngữ pháp và chính tả, với mức ngữ
vựng tàm tạm – một thứ “broken English”) “He english no gut, my frend he no
pass already three time test for become citizen of american” cũng có thể làm
người dân Mỹ bản xứ cố gắng hiểu được, mặc dù họ thấy nó ngộ nghĩnh lạ thường.
Lại cũng có lúc người ta chỉ cần phát ngôn một hai chữ “đắc địa” cho hoàn cảnh
cũng đủ làm cho người bản xứ hiểu mình. Nhớ lại trong dịp thăm viếng Tây Ðức
năm 1973, vì mải miết mua quà cho gia đình vào ngày chót chuyến đi nên tôi quên
cả giờ giấc, suýt nữa thì lỡ chuyến bay về Saigon! Vội vàng leo lên một taxi,
tôi quen miệng nói tiếng Anh với người tài xế yêu cầu ông đưa tôi ra phi trường,
nhưng ông ta có vẻ không hiểu. Mừng thay, khi tôi chỉ nói lên hai chữ tiếng Ðức
rất phổ thông cho “phi trường” và “làm ơn” là “Flughafen, bitte!” thì ông ta hiểu
liền!
“Nhập tâm” ngữ vựng một ngoại ngữ là một thử thách lớn
đòi hỏi học trò nhiều cố gắng kiên cường. Nhưng đền bù lại, khả năng đọc và viết
sẽ thăng tiến theo tỷ lệ thuận với số lượng từ ngữ mà họ làm chủ được. Quan yếu
như thế mà từ biết bao đời nay ngữ vựng thường được “dạy” bằng một lề lối cũ kỹ
vừa làm học trò chán nản vừa chẳng mấy thành công. Lề lối lỗi thời ấy khuyến
cáo học trò phải cố gắng học thuộc lòng nghĩa (meanings) cũng như chính tả
(spellings) các chữ mới, nhưng không đả động gì tới thể loại (lexical
categories), chức vụ ngữ pháp (syntactical functions), ngữ cảnh (contexts),
cũng như kết hợp từ (collocations) là những đặc thù tối quan trọng của chúng.
Những yếu tố này đáng lý ra thì phải được gây chú ý trong các thí dụ, các lời
giải thích, các định nghĩa cho những chữ mới.
Công trình giáo khoa đồ sộ tựa đề “Ngữ Vựng Tiếng Việt”
của Giáo Sư Trần Ngọc Ninh vừa được Viện Việt Học xuất bản năm nay (2017) đã
mang đến cho tôi một ngạc nhiên sảng khoái. Triết lý giảng huấn căn cứ trên
phát kiến của khoa ngôn ngữ học đương đại và nội dung phong phú vui tươi được
trình bày một cách tân kỳ của tác phẩm đã lấy được thiện cảm của tôi ngay từ những
trang đầu tiên của nó. Thực vậy, trong ngót nửa thế kỷ chuyên nghiên cứu và giảng
dạy educational linguistics (môn ngữ học dành cho các chương trình đào tạo giáo
chức ngôn ngữ) tại Ðại Học Sài Gòn và một số đại học tại Texas, tôi chưa thấy một
tài liệu giáo khoa giảng dạy ngữ vựng tiếng Việt (hay ngữ vựng một ngôn ngữ nào
khác) được soạn thảo và trình bày một cách khoa học, nhất quán, vui tươi, và thấm
nhuần văn hóa dân tộc như tác phẩm giáo khoa “Ngữ Vựng Tiếng Việt” của Giáo Sư
Trần Ngọc Ninh.
Giáo Sư Trần Ngọc Ninh ký sách “Ngữ Vựng Tiếng Việt”
trong buổi ra mắt sách tại Viện Việt Học. (Hình: Quốc Dũng/Người Việt)
Nhận định đầu tiên của tôi về công trình giáo khoa
này là thấy tác giả rất uyên bác của nó đã dựa vào những phát kiến của ngữ học
và tâm lý học hiện đại hữu ích cho lãnh vực giáo dục ngôn ngữ. Quan trọng nhất
là phát kiến về sự hiện hữu tiên thiên (innate existence) của cơ quan ngôn ngữ
(language organ) và ngữ pháp hoàn vũ (universal grammar) trong não bộ loài người,
do Noam Chomsky đề xướng vào năm 1965. Cái phát kiến làm sửng sốt học giới một
thời của Chomsky đã được Stephen Krashen khai triển kỹ lưỡng, khoảng hai thập
niên sau đó, để thành cốt lõi cho phương hướng tự nhiên (the natural approach)
để giảng dạy ngôn ngữ. Nhấn mạnh sự khác biệt đáng kể giữa thủ đắc ngôn ngữ
(language acquisition) và học tập ngôn ngữ (language learning) cùng với những đề
nghị thực tiễn vui tươi cần thiết cho mục tiêu “thủ đắc,” công trình của
Krashen đã được tán thưởng và áp dụng từ đó đến nay. Phát kiến ấy của Chomsky
cũng được Ken Goodman dùng làm kim chỉ nam cho phương hướng ngôn-ngữ-vẹn-toàn
(the whole-language approach) mang lại thành công hàn lâm đáng kể cho Goodman,
vào cùng thời gian với thành tựu của Krashen.
“Ngữ Vựng Tiếng Việt” là một tin mừng cho các thầy
cô và các em học sinh các lớp Việt ngữ đủ trình độ, trong hạn tuổi từ 5 đến 15.
Công trình giáo khoa giảng dạy ngữ vựng Việt Nam quý vị đang có trong tay vừa
được hoàn tất sau khá nhiều năm khổ công do lòng nhân ái thúc đẩy – labor of
love trong Anh ngữ – của tác giả là một luồng sinh khí mới đầy hứa hẹn cho nỗ lực
giảng dạy tiếng Việt ở hải ngoại, đặc biệt là tại các quốc gia sử dụng Anh ngữ.
Mặc dù tác giả đã khiêm tốn xác định công trình tâm
huyết của ông “chỉ là một cái kho nhặt nhạnh, tồn trữ và sắp xếp, chứ không điển
chế ngôn ngữ hay văn tự” (trang 2), công trình này đã hiến cho giáo giới chúng
ta một kho tài liệu khổng lồ để giúp phần thăng hoa cách giảng dạy ngữ vựng tiếng
Việt cho tuổi trẻ thành một phương pháp nhân bản hấp dẫn với nhiều tiềm năng
thành công rực rỡ.
Triết lý giáo dục ngày nay tại Hoa Kỳ nhắc nhở giáo
giới rằng vai trò lý tưởng cho người đi học là vai trò của những nhà thám hiểm.
Vì vậy các nhà giáo cũng như các tài liệu giảng huấn phải cung cấp những phương
tiện, những cơ hội tối ưu để thúc đẩy các nhà thám hiểm trẻ tuổi tự khám phá
thêm ra những điều mới lạ trong cuộc hành trình học hỏi với nhiều lý thú và
hưng phấn. Kinh nghiệm dạy học của bao thế hệ cũng xác nhận rằng tài liệu giáo
huấn chỉ trở thành tuyệt hảo khi nó tổng hợp được tri thức của các bộ môn khác
nhau nhưng cùng chuyên tâm vào một chủ đề (theme), vì sự hiểu biết phát triển mạnh
nhất là khi nó được tiếp cận các kết nối tri thức (cognitive connections). Vì
những lý do vừa kể, một bài học hữu hiệu mang lại lý thú cho học sinh phải là một
đơn vị có chủ đề (thematic unit) được khai phá từ nhiều khía cạnh như văn học,
toán học, khoa học, xã hội học, chính trị học, nếp sống đa văn hóa trong xã hội
ngày nay, vân vân.
“Những tâm trí vĩ đại gặp nhau chăng,” tôi tự hỏi,
vì những ưu điểm nêu trên hiện hữu đều đặn trong công trình của tác giả “Ngữ Vựng
Tiếng Việt.” Rất nhiều mục từ (mà tác giả gọi là “từ khóa” hay “key words”) sắp
xếp theo thứ tự a/b/c trong sách là những đơn vị có chủ đề, trong đó các yếu tố
văn cảnh, kết hợp từ, từ đồng nghĩa, các câu giải thích chủ đề qua các lãnh vực
tri thức khác nhau, các ca dao tục ngữ, các câu trích dẫn từ đệ nhất thi phẩm
Truyện Kiều và từ các tác phẩm văn chương Việt khác đã biến các mục từ ấy thành
những bài học nho nhỏ với chủ đề hấp dẫn, giảng giải qua thứ tiếng Việt tự
nhiên (natural, authentic Vietnamese). Những bài học nho nhỏ đó có mục tiêu gia
tăng tri thức học trò qua môi giới “thủ đắc” (acquisition) tự nhiên và lý thú
hơn là qua môi giới “học tập” (learning) buồn nản của lề lối cũ.
Văn cảnh (contexts, mà tác giả gọi là “đồng văn”
trong sách) là những cơ hội thuận tiện cho “ngữ vựng chưa biết” xuất hiện trong
các câu mà học sinh đã hiểu được gần hết ý nghĩa; trong những hoàn cảnh ngôn ngữ
này, các cháu có thể suy đoán ra ý nghĩa đích thực của ngữ vựng chưa biết ấy.
Chẳng hạn, trang 29 có liệt kê từ khóa ăn ảnh mà ý nghĩa có thể suy đoán dễ
dàng (và lại được xác nhận bởi từ Anh ngữ tương đương viết kế bên là
“photogenic”) qua câu thí dụ “Chị Lan ăn ảnh lắm: ở ngoài, chị cũng đẹp mà chụp
ảnh thì hết xẩy.” Trang 306 có liệt kê từ khóa kêu (to shout, scream, cry out)
được dùng trong bốn ngữ cảnh khác nhau để giúp học sinh hiểu nghĩa dễ dàng; một
trong bốn ngữ cảnh ấy là câu giải thích gọn gàng “Người ta kêu to tiếng là để
cho người khác biết và để ý đến.”
Kết hợp từ (collocations) là những nhóm chữ thường
đi với nhau theo một thứ tự nhất định, như “trời ơi/lớn như thổi/nước đổ lá
khoai/chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng.” Dùng kết hợp từ thông thạo sẽ giúp
chúng ta nói và viết ngôn ngữ đang học giống như người bản xứ. Vì thế chúng ta
cần thuộc chúng để sử dụng trong những ngữ cảnh phù hợp. Hồi còn là một học
sinh trung học, tôi đã bỏ nhiều thì giờ để nhập tâm những kết hợp của những động
từ và tĩnh từ “đi với” các giới từ trong tiếng Anh như look up to/look down
on/proud of/angry with, và trong tiếng Pháp như commencer à/dépendre de/fier
de/prêt à.
Tôi mở cuốn sách ra và lựa “cầu may” được từ khóa
khang kiện/healthy và sự khang kiện/health (trang 316-317) để làm sáng tỏ thêm
những nhận định của tôi ở trên về nó. Từ khóa này là một trong vô số “đơn vị có
chủ đề” trong sách. Nó chứa đựng kiến thức của các lãnh vực khác nhau để có thể
trở thành một bài học súc tích về sức khỏe rất bổ ích và thích thú, giúp cho những
“nhà thám hiểm” trẻ tuổi gốc Việt gia tăng kiến thức tổng quát đồng thời thăng
hoa khả năng tiếng mẹ đẻ. Từ lãnh vực y học và sinh lý học là văn cảnh “Người
bình thường, khỏe mạnh được coi là khang kiện” và văn cảnh “Sự khang kiện là trạng
thái (state) dễ chịu (well being) bình thường về mặt tinh thần và sinh lý của một
cá nhân.” Từ lãnh vực văn hóa là văn cảnh “Cha bảo từ xưa đến nay, khi ta chúc
nhau thì hay nói chúng tôi xin chúc anh chị (ông bà/hai bác) khang kiện (mạnh
khỏe/bình an khang cát)” và văn cảnh “Trong nền văn hóa của ta, đó là những ước
mong chân thành có ý nghĩa nhất.” Và từ lãnh vực khoa học xã hội (social
studies) là văn cảnh “Danh từ sự khang kiện được đề nghị để dịch chữ health, và
cơ quan WHO (World Health Organization) được dịch là Tổ Chức Thế Giới về Sự
Khang Kiện. Sau cùng, cũng đáng kể là các kết hợp từ phổ thông “từ trước đến
nay/xin kính chúc/được đề nghị/được coi là” đã được dùng trong các ngữ cảnh phù
hợp nhất.
Tuy chủ đích là để dạy ngữ vựng, cuốn sách không
quên nhấn mạnh mối liên hệ giữa ngữ vựng và ngữ pháp, khiến tôi nhớ lại phương
hướng ngôn-ngữ-vẹn-toàn (whole-language approach) do Ken Goodman khởi xướng với
thành quả thuận lợi, để giúp học trò tiến bộ, trong cùng một bài học, bốn khả
năng có liên hệ mật thiết là (1) nghe hiểu (listening comprehension), (2) nói
(speaking), (3) đọc (reading), và (4) viết (writing). Rất nhiều từ khóa trong
sách chứa đựng đủ tài liệu để các thầy cô sẵn sàng dạy học trò cùng một lúc bốn
khả năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt, như khuyến cáo sư phạm hữu hiệu (đã
được thời gian chứng tỏ) của Goodman.
Sau hết, tôi xin ghi nhận thêm rằng ngữ pháp Việt
truyền bá trong công trình này cũng tuyệt đối từ bỏ lối dạy quá lạc hậu là lấy
cấu trúc tiếng Pháp làm khuôn mẫu để “ép” cấu trúc tiếng Việt vào trong đó một
cách tức tưởi. Trong thời Pháp thuộc, một vài cá nhân quá ái mộ văn học Pháp đứng
ra làm công việc phi lý này hẳn đã quên mất rằng trong khi tiếng Pháp thuộc ngữ
hệ Ấn-Âu (Indo-European) và là một ngôn ngữ tổng hợp (synthetic) thì tiếng Việt
thuộc ngữ hệ Nam-Á (Austro-Asiatic) và là một ngôn ngữ phân tích (analytic). Ngữ
pháp Việt trong sách “Ngữ Vựng Tiếng Việt” được giảng dạy qua khuôn khổ ngữ
pháp hoàn vũ (universal grammar) đang được áp dụng trong nền giáo dục các nước
tiền tiến nhất trên thế giới. Ngữ pháp hoàn vũ là cái lõi chung (common core)
cho tất cả tiếng nói loài người, dựa vào các nguyên lý (principles) và bàng kế
(parameters). Các nguyên lý chung (thí dụ như “Câu nào cũng phải có chủ từ”)
thường được thể hiện qua các hình thức khác nhau gọi là bàng kế (thí dụ như
bàng kế “tiếng Pháp bắt buộc câu nào cũng phải có chủ từ rõ rệt” so với bàng kế
“tiếng Việt thường cho phép chủ từ vắng mặt hoặc hiểu ngầm”). Do đó, người nào
thông thạo một ngoại ngữ tất nhiên phải hiểu thấu sự khác biệt giữa bàng kế tiếng
mẹ đẻ và bàng kế ngoại ngữ đó. Giáo Sư Trần Ngọc Ninh đã phát hiện ra nhiều
bàng kế đặc trưng (nhưng đôi khi cũng khá rắc rối) của ngôn ngữ chúng ta. Và
ông đã rộng lượng chia xẻ những kiến thức khả tín mới nhất, nhờ vào đó mà chúng
ta sẽ có ngày theo kịp những bước nhảy vọt ngoạn mục trong nỗ lực tìm hiểu những
bàng kế đặc thù của mọi ngôn ngữ thế giới, qua khuôn khổ đáng tin cậy nhất của
ngữ pháp hoàn vũ đương đại.
Tôi vô cùng hân hạnh và cảm kích được giới thiệu một
công trình giáo dục ngôn ngữ thượng đẳng của Giáo Sư Trần Ngọc Ninh, một học giả
kiệt xuất mà tôi đã ngưỡng mộ từ lâu.
No comments:
Post a Comment