Viet Thanh Nguyen - The
New York Times
Biên
dịch: Phan Thiên Lý | Biên tập: Nguyễn
Huy Hoàng
Posted on 30/05/2017 by The Observer
http://nghiencuuquocte.org/2017/05/30/tieu-thuyet-chien-tranh-viet-nam-khong-duoc-viet-boi-nguoi-my/
Năm 1967, Le Ly Hayslip, khi đó mang tên Phùng Thị Lệ
Lý, còn là một thiếu nữ sinh sống và làm việc tại Đà Nẵng. Là một cô gái nông
thôn đã sống sót qua chiến tranh và nạn cưỡng hiếp ở làng quê của mình, bà chuyển
tới Đà Nẵng để trốn chạy sự áp bức của cả phía Cộng sản lẫn phía người Việt chống
Cộng. Năm 1972, bà kết hôn với một người Mỹ và chuyển tới Hoa Kỳ, và năm 1989
bà xuất bản cuốn tự truyện chấn động về tình trạng bị mắc kẹt giữa hai phía, When
Heaven and Earth Changed Places (“Khi đất trời đảo lộn”). Tới năm
2017, đây có lẽ vẫn là cuốn tự sự ngôi thứ nhất duy nhất bằng tiếng Anh về trải
nghiệm của những người dân quê Việt Nam mắc kẹt giữa hai chiến tuyến trong Chiến
tranh Việt Nam. Trong cuộc đời và tác phẩm của mình, bà Hayslip là hiện thân
cho định nghĩa rộng của tôi về ý nghĩa của việc là người Việt Nam, một bản sắc
bao trùm cả những người Việt ở Việt Nam lẫn ở hải ngoại, cũng như cả những người
viết bằng tiếng Việt hay các ngôn ngữ khác, mà trong trường hợp này là tiếng
Anh.
Tôi tình cờ đọc cuốn sách của bà hồi còn là sinh
viên trường Berkeley đầu những năm 1990. Cuốn sách khiến tôi vô cùng xúc động,
không chỉ bởi đây là một cuốn hồi ký đầy lôi cuốn, mà còn bởi nó là một trong số
ít sách của tác giả người Việt viết bằng tiếng Anh. (Bà viết cuốn sách cùng với
Jay Wurts.) Khi tìm kiếm lịch sử của chính mình, một người Việt tị nạn được đưa
tới Mỹ bởi một cuộc chiến của Mỹ ngay tại quê hương mình, tôi không tìm thấy
nhiều thông tin bằng tiếng Anh, dù là bản gốc hay bản dịch. Số lượng tràn ngập
các tác phẩm ở Mỹ về cuộc chiến ấy đều là do người Mỹ viết, và không ngạc nhiên
khi chúng đều viết về người Mỹ.
Có một vài ngoại lệ. Trần Văn Dĩnh là một cựu viên
chức ngoại giao của miền Nam, Việt Nam Cộng hòa, người ở lại Mỹ và viết hai cuốn
tiểu thuyết về Chiến tranh Việt Nam, No Passenger on the River (“Sông
không lữ khách,” 1965) và Blue Dragon, White Tiger (“Lam long,
bạch hổ,” 1983). Là một đứa trẻ biết nhận thức sớm và đọc mọi thứ có thể về cuộc
chiến, tôi gặp cuốn thứ hai trong thư viện cộng đồng ở quê nhà San Jose,
California, và cảm thấy bối rối trước sự dị thường của cuốn sách. Từ khi đó tôi
đã biết thật hiếm mà tìm thấy được các cây bút Việt Nam ở Hoa Kỳ nói về cuộc
chiến này, hay nghe thấy tiếng nói của người Việt trong dòng chính ở Mỹ.
Đắm chìm trong các câu chuyện, cảm xúc, và ký ức của
cộng đồng tị nạn người Việt nơi tôi lớn lên, tôi đã quyết tâm kể lại một vài
câu chuyện, bởi tôi biết người Mỹ nhìn chung biết rất ít về những câu chuyện
này. Chỉ có một nhóm nhỏ người Mỹ tin rằng việc hiểu thêm về tiếng nói và trải
nghiệm của người Việt là cần thiết và cấp bách, mà nếu không có chúng thì người
Mỹ sẽ không bao giờ có hiểu biết trọn vẹn về Chiến tranh Việt Nam. Sự thiếu hiểu
biết của người Mỹ về lịch sử, văn hóa, và chính trị Việt Nam đã góp phần kéo nước
Mỹ vào một cuộc chiến và một đất nước mà họ không hiểu. Sự thiếu hiểu biết này
có lẽ còn tiếp diễn đến ngày hôm nay, xét cả về những điều người Mỹ tiếp tục thờ
ơ về Việt Nam và những điều người Mỹ từ chối tìm hiểu về Trung Đông. Văn chương
đóng vai trò quan trọng như một cách sửa chữa sự thiếu hiểu biết này.
Nghĩ lại về Trần Văn Dĩnh, tôi tự hỏi ông có cô đơn
không khi là tiểu thuyết gia người Việt duy nhất ở Mỹ vào thời của ông. Ngày
nay chúng ta không thiếu người Mỹ gốc Việt viết bằng tiếng Anh, cũng như các bản
dịch tiếng Anh của văn chương tiếng Việt. Nhưng nhận thức về sự tồn tại của nền
văn chương này vẫn còn hạn chế. Đối với phần lớn người Mỹ và thế giới, “Việt
Nam” có nghĩa là “Chiến tranh Việt Nam,” và Chiến tranh Việt Nam có nghĩa là
chiến tranh của Mỹ, với những cuốn tiểu thuyết của đàn ông Mỹ viết về lính Mỹ.
Mặc dù trải nghiệm của họ cũng quan trọng, họ khó mà đại diện được cho Chiến
tranh Việt Nam, chứ chưa nói đến Việt Nam.
Như nhà văn Lê Thị Diễm Thúy và nhiều người khác đã
nhắc đi nhắc lại, Việt Nam là một đất nước, chứ không phải là một cuộc chiến.
Chỉ cần đọc tập truyện ngắn Tướng về hưu của nhà văn bậc thầy
Nguyễn Huy Thiệp là hiểu được điều này. Các truyện ngắn của ông đã hé lộ những
điều phức tạp trong cuộc sống thời hậu chiến ở một đất nước Việt Nam vỡ mộng, vốn
đang đấu tranh để tái thiết chính mình và điều hòa giữa một bên là những thói đạo
đức giả và thất bại của người Việt Nam cũng như nhà nước Việt Nam, với một bên
là những lời ca ngợi thời chiến hào hùng của Đảng Cộng sản. Đồng thời, chiến
tranh cũng định hình nên một thế hệ, và những hệ quả của nó lại định hình thế hệ
tiếp theo, như bà Thúy đã thể hiện trong cuốn The Gangster We are All
Looking For (“Gã du đãng mà chúng ta đều đang tìm kiếm”).
Cuốn tiểu thuyết trữ tình này kể về câu chuyện của một
cô gái trẻ tị nạn ở San Diego, người có gia đình phải chịu nỗi ám ảnh bởi chấn
thương tâm lý của người cha từng đi lính và cái chết của người anh trai, vốn bị
lạc trong chuyến đi tị nạn. Giống như đa số tác phẩm văn chương của người Việt
và người Mỹ gốc Việt viết về cuộc chiến, tiểu thuyết của bà cho thấy chiến
tranh tác động đến nhiều người hơn chứ không chỉ những người lính hay những người
đàn ông. Chiến tranh Việt Nam đã không được chú ý nhiều ở khía cạnh số lượng
dân thường bị sát hại nhiều hơn binh lính, và ở khía cạnh hàng triệu người dân
bị biến thành người tị nạn mà trải nghiệm của họ còn đau thương hơn nhiều so với
nghiệm của nhiều lính Mỹ chưa bao giờ thực sự thấy cảnh chiến trường. Văn
chương của người Mỹ gốc Việt buộc độc giả phải thừa nhận rằng định nghĩa hẹp về
chiến tranh chỉ phác họa người lính là thiếu chính xác.
Hết lần này đến lần khác, văn chương của người Mỹ gốc
Việt cho thấy tác động tổn thương tâm lý của chiến tranh lên dân thường và người
tị nạn (như cuốn tiểu thuyết thể loại noir về băng đảng của Vu
Tran, Dragonfish (“Cá rồng”); hay tập truyện We Should
Never Meet (“Chúng ta không nên gặp nhau”) của Aimee Phan, viết về những
đứa trẻ mồ côi người Việt và con lai Mỹ Á; hay cuốn The Lotus and the Storm (“Hoa
sen và bão tố”) của Lan Cao, kết nối giữa Chiến tranh Việt Nam và Chiến tranh
Iraq; hay cuốn Where the Ashes Are (“Ở nơi tro tàn”) của
Nguyen Qui Duc, viết về việc người cha của chính tác giả, một quan chức của
chính quyền Nam Việt Nam, bị bỏ tù); sự tái định hình đầy tàn khốc của chiến
tranh lên cuộc sống người Việt thời hậu chiến (như hồi ký của Andrew X. Pham về
chuyến đạp xe xuyên Việt, Catfish and Mandala (“Cá da trơn và
Mạn đà la”); hay tác phẩm châm biếm thô ráp về nạn tham nhũng kinh tế ở Sài Gòn
của Linh Dinh, Love Like Hate (“Yêu như ghét”); hay cuốn She
Weeps Each Time You’re Born (“Bà khóc mỗi lần bạn sinh ra”) của Quan
Barry, viết về tài năng đáng chú ý của một nhà ngoại cảm cảm nhận được nỗi đau
của những người sống sót); sự hiện diện ám ảnh của cuộc chiến trong thế hệ thứ
hai của những người tha hương (như cuốn hồi ký bằng tranh đầy mạnh mẽ của Thi
BuI, The Best We Could Do (“Điều tốt nhất chúng ta làm được”);
hay cuốn tiểu thuyết Grass Roof, Tin Roof (“Mái cỏ, mái tôn”)
của Dao Strom, viết về một người phụ nữ Việt Nam kết hôn với một người Mỹ và ảnh
hưởng của cuộc hôn nhân lên những đứa con của họ; hay cuốn hồi ký của Bich Minh
Nguyen về việc lớn lên ở vùng Midwest, Stealing Buddha’s Dinner (“Trộm
đồ cúng Phật”); hay cuốn Perfume Dreams: Reflections on the Vietnamese
Diaspora (“Những giấc mơ hương: Chiêm niệm về người Việt tha hương”) của
Andrew Lam); hay dấu hiệu của cuộc chiến trong quá khứ người Việt (như cuốn The
Book of Salt (“Sách muối”) của Monique Truong, viết về đầu bếp người
Việt của Gertrude Stein và cuộc gặp của anh ta với Hồ Chí Minh; hay cuốn The
Sacred Willow: Four Generations in the Life of a Vietnamese Family (“Cây
liễu thiêng: Bốn thế hệ trong cuộc sống của một gia đình Việt”) của Duong Van
Mai Elliott).
Danh sách vẫn còn dài. Văn chương của người Việt và
người Mỹ gốc Việt đang ở ngoài kia chờ đón bất cứ ai biết sử dụng Google. Thế
nhưng rất nhiều người ở Mỹ và các nước khác thà không muốn biết đến, hay khi một
tác giả người Việt mới được xuất bản, họ sẽ nói “Cuối cùng cũng có một tiếng
nói cho người Việt Nam!” Trên thực tế, đã có rất nhiều tiếng nói, vì người Việt
thì rất ồn ào. Chỉ là tiếng nói của họ thường không được lắng nghe bởi những
người không hiểu người Việt, hay những người chỉ muốn nghĩ đến người Mỹ khi
nghe thấy từ “Việt Nam,” hay những người chỉ dành chỗ cho một cuốn sách duy nhất
của người Việt trong đề cương khóa học mà họ dạy, như một thực tế trong vô cùng
nhiều lớp đại học về Chiến tranh Việt Nam, cho dù cuốn sách đó có đáng đọc như
cuốn tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Cuốn sách
này không chỉ là một tác phẩm kinh điển về chiến tranh của Bắc Việt – nó còn là
cuốn tiểu thuyết kinh điển về chiến tranh của bất cứ thời đại nào và ở bất cứ đâu.
Về phần Đảng Cộng sản Việt Nam, họ cũng thà không
nghe thấy những tiếng nói nhất định. Ngay cả Bảo Ninh giờ cũng bị bắt im lặng,
cũng giống như người đồng hương của ông, Dương Thu Hương, một cựu thanh niên
xung phong miền Bắc vỡ mộng bị lưu đày vì những tiểu thuyết chống Cộng gây lo
ngại thời hậu chiến, những cuốn như Tiểu thuyết vô đề và Những
thiên đường mù. Về phần những tiếng nói người Mỹ gốc Việt, dù đôi khi chúng
tôi vẫn được lắng nghe ở đây – và rồi thường bị quên lãng – chúng tôi hiếm khi
được lắng nghe ở Việt Nam. Chúng tôi là những kẻ thua cuộc, những kẻ phản bội,
những kẻ bất đồng chính kiến, hay chỉ đơn giản là những kẻ ngoài cuộc thấy được
cái hư không đằng sau một đảng ca ngợi chủ nghĩa cộng sản trong khi đang điều
hành đất nước như một chế độ độc tài tư bản chủ nghĩa.
Giống như Le Ly Hayslip, chúng tôi bị mắc kẹt giữa
hai bên, Việt Nam và Mỹ, tiếng Việt và tiếng Anh, chủ nghĩa cộng sản và chủ
nghĩa tư bản. Một tình cảnh khó khăn như vậy lại có ích cho các nhà văn. Sự bất
an khiến chúng tôi viết ra những câu chuyện của mình, lặp đi lặp lại, với hy vọng
có thể thay đổi những điều mà người ta vẫn nghĩ đến khi nghe thấy hai chữ “Việt
Nam.”
*
Viet Thanh Nguyen là tác giả của cuốn Nothing Ever Dies: Vietnam and the Memory of War và gần đây nhất
là tập truyện ngắn mang tên The Refugees.
Nguồn: Viet Thanh Nguyen, “The
Great Vietnam War Novel Was Not Written by an American,” The New
York Times, 02/05/2017.
No comments:
Post a Comment