Nguyễn Tiến Hưng
Cựu
Tổng trưởng VNCH, gửi cho BBC từ Virginia, Hoa Kỳ
29 tháng 4 2017
Nhìn
lại lịch sử, chúng tôi thấy câu ngạn ngữ "hoạ vô đơn chí, phúc bất trùng
lai" sao nó đúng quá: tai bay vạ gió thì luôn theo nhau mà đến với Việt
Nam Cộng Hòa, còn những cái may mắn thì ít khi nó trở lại.
Tổng thống Đệ nhất Cộng hòa Đại Hàn Lý Thừa Vãn và Tổng thống Đệ nhất
VNCH Ngô Đình Diệm vào năm 1958. Getty Images
Thời Tổng thống Ngô Đình Diệm: sau bao nhiêu gian
lao với Pháp, ông đã khai sinh ra nền Cộng Hòa.
Sau đó xây dựng được những thành tích vẻ vang của
"Năm Năm Vàng Son 1955-1960," (độc giả xem Khi Đồng Minh Nhảy Vào,
Chương 13). Nhưng vừa tới năm 1961 thì ông phải đối đầu ngay với những giao động
khôn lường: nửa năm đầu thì Tổng thống John F. Kennedy hết sức ủng hộ, tới nửa
năm sau, bang giao Việt - Mỹ rơi vào khủng hoảng.
Sau cùng thì trong bối cảnh dầu sôi lửa bỏng vào dịp
Lễ Phật Đản thứ 2507 (ngày 8/5/1963), TT Kennedy gửi ông Henry Cabot Lodge sang
làm Đại sứ thay thế ĐS Frederick Nolting về hưu.
Nolting là người ủng hộ ông Diệm. Ông Lodge là người
mưu mô, nham hiểm, có nhiều thành kiến về ông Diệm. Vì tham vọng muốn lập thành
tích để ra ứng cứ tổng thống vào năm 1964 cho nên ông đã dùng đủ mọi mưu lược
triệt tiêu Tổng thống Diệm với hậu quả là phá nát nền Đệ Nhất Cộng Hòa mùa Thu
1963. Tôi gọi ông này là Đao phủ HENRY I.
Tới Đệ Nhị Cộng Hòa, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lại
gặp ngay một tay HENRY nữa - Henry A. Kissinger. Về ông này, ta có thể đặt câu
hỏi: ở một cường quốc vĩ đại như Hoa Kỳ, biết bao nhiêu người vừa tài, vừa đức,
vừa có tâm, vừa có tầm mà lại không lên được tới địa vị quyền hành như ông
Kissinger?
Ông này còn mưu lược, gian dối hơn Cabot Lodge gấp mấy
lần. Kissinger đã đạo diễn chính sách của Hoa Kỳ về Việt Nam trong gần sáu năm
rưỡi, tức là trên hai phần ba thời gian của Đệ Nhị Cộng Hòa.
Cái nguy hiểm cho cả Mỹ lẫn Miền Nam là ông này
thích hành động bí mật và một mình.
Trong một cuộc phỏng vấn với nữ ký giả người Ý, bà
Oriana Fallaci, ông giải thích rằng sở dĩ ông có sức mạnh là nhờ ở lối hành động
một mình:
"Điểm chính là lúc nào tôi cũng hành động một
mình. Người Mỹ thích cái đó vô cùng. Người Mỹ thích hình ảnh một gã chăn bò dẫn
đầu một toán di dân, một mình trên lưng ngựa, đi đầu, thủng thẳng tiến vào một
tỉnh lỵ, một thị xã; chỉ mình với ngựa thôi, không có gì khác. Có thể là không
có cả súng nữa, là vì gã ta không cần bắn. Gã chỉ hành động bằng cách là ở đúng
chỗ, vào đúng lúc, thế thôi. Nói gọn hơn, gã là một cao bồi miền Tây."
Tôi gọi ông này là Đao phủ HENRY II.
Nhân
dịp 30 tháng Tư, chúng tôi xin chia sẻ với đồng hương một vài cảm nghĩ về số phận
long đong của cả hai nền Cộng Hòa vào lúc hoàng hôn thê lương ảm đạm.
Khi
Đệ Nhất Cộng Hòa sụp đổ
Những cái xui xẻo đã xảy ra liên tục cho Tổng thống
Ngô Đình Diệm trong ba ngày cuối cùng của cuộc đời ông (xem Khi Đồng Minh Nhảy
Vào, Chương 22).
Ngày 3/03/1963 Tòa Bạch Ốc gửi mật điện chỉ thị cho
Đại sứ Lodge là: "phải thông báo đầy đủ cho Tướng Harkins (tư lệnh quân đội
Mỹ ở Miền Nam) trong mọi giai đoạn, và sử dụng những khuyến cáo của cả Harkins
lẫn Smith," và "tất cả chỉ thị cho Conein (người trung gian với nhóm
tướng lãnh đảo chính) cũng phải được thông qua ý kiến của Harkins và
Smith." Nhưng vào những giờ phút chót, ông Lodge đã trái lệnh Tổng thống,
không chịu bàn bạc, thông báo gì với ông Harkins (vì Harkins hết sức bênh vực
TT Diệm);
Cố vấn Ngô Đình Nhu, người bị sát hại cùng anh ông, Tổng thống Đệ nhất
Cộng hòa năm 1963. YouTube
Cùng ngày 30/03, Đại sứ Lodge hoãn chuyến đi
Washington. Ông đã định đi vào ngày 31 tháng 10. Chỉ thị từ Washington là khi
ông Lodge đi vắng thì Tướng Harkins sẽ thay thế ông để điều khiển ở Sàigòn. Nếu
ông Harkins ở lại thì khó có thể đảo chính. Sau cùng, Washington lại quyết định
cho phép ông Lodge hoãn chuyến đi vài ngày. Lodge muốn ở lại Sàigòn để theo rõi
đảo chính ngày hôm sau.
Ngày 31 tháng 10 là ngày trước đảo chính. Vì ngày đảo
chính (mồng 1 tháng 11) là ngày Lễ Các Thánh, ngày lễ của người Công giáo, nên
ông Diệm có thể đi kinh lý hoặc thăm viếng chỗ này chỗ kia. Cho nên Tướng Trần
Văn Đôn đề nghị với TT Diệm là ông nên tiếp xã giao Đô đốc Harry Felt (Tư lệnh
quân lực Mỹ Thái Bình Dương) vừa tới Sàigòn. Đề nghị như vậy là để có cớ thuyết
phục TT Diệm ở lại Dinh Gia Long trong ngày đảo chính cho chắc ăn.
Chính ông Đôn đã viết lại trong cuốn hồi ký Our
Endless War - Inside Vietnam:
"Sáng ngày 31 tháng 10, tôi vào dinh gặp Tổng thống Diệm để hỏi về vấn
đề Đô đốc Felt đến Sàigòn, và dò hỏi xem có phải vì ông không có mặt ở Sàigòn
vào ngày mai nên không tiếp ông Felt được hay không? Ông Diệm ngạc nhiên vì
không biết tin ông Felt tới Sàigòn."
Vì Tướng Đôn đề nghị, TT Diệm đã quyết định ở lại
Sài gòn để tiếp Đô đốc Felt vào ngày 1/11.
Buổi sáng ngày 1 tháng 11, khi TT Diệm tiếp hai ông
Felt và Lodge, ông bất chợt hỏi ông Lodge rằng ông biết đang có âm mưu đảo
chính nhưng không biết rõ tướng tá nào muốn đảo chính. Ông Lodge trả lời một
cách quanh co: "Tôi không nghĩ rằng Tổng thống phải lo ngại gì cả."
Như vậy là để đánh lừa ông Diệm;
Một chuyện nữa hết sức quan trọng, đó là cuối cùng,
như đã đề cập trên đây, Tổng thống Diệm đã muốn làm một nghĩa cử ôn hòa với cả
Đại sứ Lodge, cả Tổng thống Hoa kỳ. Vì biết ông Lodge sắp lên đường về
Washington, ông dặn ông Lodge là khi về tới Washington thì nên gặp hai ông
Colby (trưởng trạm CIA ở Sàigòn trước đây) và Nolting (cựu Đại sứ) để bàn bạc về
vấn đề giải quyết chuyện ông Nhu cho ổn thỏa.
Rồi ông gửi một thông điệp cho TT Kennedy nói:
"Tôi bằng lòng chấp nhận tất cả những đề nghị của Tổng thống Kennedy
một cách hết sức nghiêm chỉnh, và muốn thực sự thi hành những điều này, chỉ còn
vấn đề thời gian tính."
Tổng thống JF Kennedy bị ám sát ngày 22/11 cũng trong năm 1963 ở Dallas. Getty
Images
Chắc ông Lodge cũng còn một chút lương tâm và cho rằng
như vậy là đã có thể đi tới chỗ hòa hoãn với ông Diệm được rồi, nên ông có báo
cáo về Washington thông điệp này.
Thế nhưng, vô tình hay hữu ý, theo Mark Moyar thì
ông Lodge lại gửi điện tín này theo thủ tục 'ưu tiên thấp nhất' nên khi thông
điệp này tới Washington thì tiếng súng đã bắt đầu nổ ở Sàigòn rồi. Theo một tác
giả khác, James W. Douglas trong cuốn JFK and The Unspeakable thì Lodge đã trì
hoãn để khi Kennedy nhận được điện tín này thì đã quá trễ.
Ngày 1 tháng 11 cũng là ngày sinh nhật của Đại tá Hồ
Tấn Quyền, Tư lệnh Hải quân, là người trung thành với TT Diệm và đã cứu ông
trong dịp đảo chính tháng 2 năm 1962.
Sau khi chơi quần vợt với một số đồng đội, họ mời
ông dùng cơm trưa để mừng sinh nhật thứ 36 của ông. Thoạt đầu, ông đã từ chối.
Buổi sáng hôm ấy, ông cũng đã chột dạ vì thấy có những cuộc chuyển quân hơi lạ
nên muốn theo dõi để báo cáo cho ông Diệm. Nhưng rồi viên sĩ quan phụ tá cố nài
ép nên ông nể lòng. Lúc đang trên đường đi tới một quán nhậu ở ngoại ô Sàigòn,
ông đã bị sát hại. Như vậy là ông Quyền đã đi trước và dọn đường tới nghĩa
trang cho hai ông Diệm-Nhu.
Theo tác giả Mark Moyar (trong cuốn Triumph
Forsaken) thì "khi cuộc đảo chính sắp bắt đầu, một viên sĩ quan chỉ huy lữ
đoàn Lực lượng Đặc biệt đề nghị với Tổng thống Diệm cho ông dùng xe thiết giáp
tấn công tổng hành dinh của nhóm đảo chính để bắt trọn ổ số Tướng lãnh đang họp
hành. Thành công là chắc chắn, viên sĩ quan cố thuyết phục ông Diệm, vì chỉ có
một số lính đang tập sự đứng gác ở Tổng Tham Mưu, và đúng như vậy.
Nếu những tướng chủ mưu bị bắt thì quân đội đảo
chính tất sẽ bị rối loạn.
Nhưng TT Diệm không cho phép, ông nói: "Quân đội
phải tiết kiệm súng đạn để chống Cộng, và tránh đổ máu," rồi thêm:
"Chỉ cần bảo vệ Dinh Gia Long, nhà Bưu điện và Tổng Nha Ngân khố."
GS Nguyễn Tiến Hưng gọi ông Henry Kissinger (bìa trái hình) là Đao phủ
Henry II. Getty Images
Như đề cập trên đây, sau khi tiếng súng đảo chính đã
vang dội, Tổng thống Diệm gọi giây nói cho Đại sứ Lodge vào lúc 4 giờ 30 chiều
(ngày 1 tháng 11) để hỏi về thái độ của Hoa kỳ. Ông Lodge trả lời lơ mơ là ông
không biết gì để nói nhưng có đề nghị với ông Diệm là sẽ cho xe cắm cờ Mỹ đến
Dinh Gia Long đưa ông Diệm ra phi trường, rồi dùng máy bay riêng của đại sứ để
chở ông ra khỏi nước, nhưng TT Diệm từ chối. Nhưng trái với điều mà nhiều tác
giả đã viết, cuộc điện đàm này không phải là trao đổi cuối cùng giữa hai người.
Vẫn còn một cú điện thoại khác nữa.
Cú điện thoại thứ hai là lúc ở tại nhà thờ Cha Tam,
ông Diệm đã gọi ông Lodge để yêu cầu giúp đỡ phương tiện để ra đi, vì ông Lodge
đã hứa rằng "Nếu tôi có thể làm được gì để giúp cho an toàn của Ngài thì
Ngài cứ gọi tôi." Nhưng bây giờ ông Lodge lại trả lời là Tòa Đại sứ Mỹ chỉ
có thể cho ông trú ẩn và bất cứ điều gì khác, nhưng không thể giúp phương tiện
chuyên chở ông ra khỏi nước. Như vậy là trái hẳn với đề nghị của ông Lodge chiều
hôm trước. Ông Mike Dunn, Phụ tá trưởng của đại sứ - là người đứng bên ông
Lodge khi ông này nói diện thoại với ông Diệm - đã xin tự nguyện đến chở hai
ông Diệm, Nhu đi để bảo vệ cho hai ông, nhưng ông Lodge đã không đồng ý!
"Tôi thật ngạc nhiên là ta đã không làm gì để giúp cho hai anh em họ
Ngô," ông Dunn phàn nàn.
Một nhân chứng nữa cũng khẳng định về việc này là
nhà báo Joseph Fried của tờ New York Daily News trong một báo cáo vào ngày 5
tháng 11, 1963.
Sau khi ông Lodge từ chối giúp đỡ, Tổng thống Diệm
hoàn toàn thất vọng, khoảng 7 giờ sáng ngày mồng 2 ông quyết định gọi điện thoại
cho Bộ Chỉ huy Đảo Chánh thông báo là ông đã ra lệnh cho lính phòng vệ Phủ tổng
thống ngưng bắn và ông đầu hàng vô điều kiện.
Đây là một việc không may mắn nhất cho TT Diệm vì
cho tới ngày đảo chính, nhóm tướng lãnh vẫn còn nghi ngờ nhau, chưa có sự tin
tưởng và đồng ý hoàn toàn. Chính TT Thiệu đã kể lại (với Phụ Tá Nguyễn Văn
Ngân) là "nếu ông Diệm và ông Nhu không ra trình diện (gọi điện thoại) vào
sáng ngày 2 tháng 11, chỉ cần nán lại tới trưa cùng ngày thì các tướng lãnh sẽ
lên máy bay chạy hết vì lo sợ và nghi ngờ lẫn nhau" là đã mắc mưu ông Nhu.
Trước đó, trong giai đoạn chuẩn bị đảo chính, Tướng
Paul Harkins, Tư lệnh Mỹ ở Việt Nam cũng báo cáo về cho tướng Maxwell Taylor,
Chủ tịch Tham Mưu Liên Quân về nhóm tướng lãnh:
"Tôi thấy chúng ta có một tổ chức của nhóm người thật hoang mang
trong đó mọi người nghi ngờ mọi người khác."
Bà Nhu, Trần Lệ Xuân cùng con gái trong một chuyến công du nước ngoài. Getty Images
Các tướng lãnh yêu cầu Conein sắp xếp máy bay, nhưng
CIA trả lời là cần 24 giờ thì mới thu xếp được, nhưng thật ra là đã có sẵn một
chiếc máy bay ở Sàigòn để chở Đại sứ Lodge về Washington và ông này đã hoãn
chuyến đi. Dù sao, khi nghe thấy nói đến 24 giờ, Tướng Minh gắt lên "Chúng
tôi không giữ họ lâu thêm được nữa."
Sau này, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu (lúc đó là Đại
tá) còn kể lại với chúng tôi rằng:
"Khi được lệnh đánh Dinh Gia Long, ông đã có ý
định tìm TT Diệm và mời ông lên xe jeep mở mui để về Bộ TTM rồi đưa ông đi ra
ngoại quốc, nhưng khi chiếm Dinh xong thì thấy ông Diệm đã đi rồi. Ông Thiệu
thêm: "Nếu như TT Diệm đi xe jeep mui trần như vậy thì không ai dám sát hại
ông..."
Đến khi ông Thiệu được tin TT Diệm gọi điện thoại về
Bộ Tổng Tham Mưu, ông còn đề nghị với Tướng Minh để cho ông đi đón TT Diệm từ
nhà thờ Cha Tam, nhưng ông Minh gạt đi và nói "Khỏi phải lo, đã có người rồi."
Bất
hạnh cuối cùng của Đệ Nhị Cộng Hòa
Tháng 2/1972, TT Nixon đi Bắc Kinh gặp Chủ tịch Mao.
Dịp này ông đã đảo ngược "chính sách ngăn chặn Trung Quốc"
(containment of China). Khi mở cửa Bắc Kinh thì ông đóng cửa Sàigòn, và khi bắt
tay với ông Mao thì buông ngay tay ông Thiệu (như chúng tôi đã viết trong cuốn
Tâm Tư Tổng Thống Thiệu).
Sau đó Nixon - Kissinger áp lực Miền Nam ký Hiệp Định
Paris (1/1973). Từ đó những cái xui xui xẻo tới dồn dập:
Ngược lại với những cam kết của TT Nixon là sẽ tiếp
tục viện trợ, VNCH vừa ký kết một hiệp định hết sức bất lợi thì lại bị cắt xén
viện trợ thật bất ngờ và thật nhanh;
Còn được chút ít viện trợ thì lại bị ngay cú 'sốc'
siêu lạm phát (do chiến tranh Israel - Ai Cập vào tháng 10/1973) làm tiêu hao
mãi lực của viện trợ. Một thùng dầu thô đang từ 4USD vọt lên 12 USD.
Tới khi viên trợ bị cắt hết, Miền Nam xoay xở đi vay
Quốc Vương xứ Saudi để mua tiếp liệu. Vua Saud al Faisal vừa đồng ý cho vay 300
triệu USD thì lại bị người cháu ruột hạ sát thê thảm ngay trong hoàng cung. Ông
nằm xuống vào đúng ngày cố đô Huế bị bỏ ngỏ.
Tổng thống Johnson và Tổng thống Thiệu tại hội nghị thượng đỉnh Mỹ -
Việt 20/07/1968 ở Honolulu. Getty
Images
Trên chiến trường, lúc bị tấn công, Ban Mê Thuột gọi
không quân đến yểm trợ. Phi vụ vừa tới thả bom thì một trái rơi trúng ngay Bộ
Tư Lệnh Sư Đoàn 23;
Mất Ban Mê Thuột, có lệnh rút Pleiku. Ngày 18 tháng
3, quân dân hoảng hốt rút trên con đường 7B đẫm máu. Vừa về tới Phú Bổn thì bị
kẹt ngay vì công binh chưa làm xong cây cầu nổi như đã dự tính: đoàn người di tản
chịu thêm một trận pháo kích bên bờ sông Ea Pha. Sau này Tổng Thống Thiệu kể lại
cho tôi rằng ông vẫn còn thắc mắc về chuyện tại sao Công Binh không làm xong
cái cầu nổi? Đại tướng Viên cũng cho rằng "Sư đoàn 320 của cộng sản sẽ
không bao giờ truy kích kịp đoàn quân nếu chúng ta có được cầu qua sông thiết lập
đúng lúc, và giữ đuợc trật tự trong đoàn dân quân di tản." Vì cầu không
xong, cho nên:
Hai ngày sau mới rời đuợc Hậu Bổn. Đoàn dân quân vừa
tiến được chừng 20 cây số là khựng ngay, vì "trước mặt đoàn di tản là Phú
Túc đả bị địch chiếm."
Khi không quân tới cứu,"một trái bom nữa rơi
vào đoàn quân đi đầu, gây thương vong cho gần một tiểu đoàn Biệt Động
Quân."
Tôi đang dự một buổi họp đầy căng thẳng tại Dinh Độc
Lập sau cuộc rút lui thảm hại này thì Đại Tá Cầm (Chánh Văn phòng Tổng Thống)
bước vào đưa một tin bất hạnh: ông Paul Léandri, trưởng phòng thông tấn xã
Agence France Presse ở Sàigòn bị cảnh sát bắn chết.
Léandri loan tin "có số lính người Thượng
(Montagnards) đã nổi loạn ở Hậu Bổn, chống lại quân đội VNCH'. Nha Cảnh Sát mời
ông đến để thẩm vấn. Sau vài tiếng đồng hồ bị giữ lại, Leandri bỗng nhiên bước
ra khỏi phòng, nhảy lên xe và lái vút đi. Khi cảnh sát huýt còi ngừng, ông cứ
tiếp tục phóng. Cảnh sát rút súng bắn vài phát vào bánh xe để giữ lại. Chẳng
may một viên đạn lạc trúng ngay vao người. Leandri gục chết tại chỗ.
Phóng viên ngoại quốc vô cùng phẫn uất, phản kháng kịch
liệt. Trong một tình hình vô cùng bất lợi cho Miền Nam về tất cả mọi phương diện
quân sự, chính trị, kinh tế, và bộ mặt Miền Nam đã bị bôi nhọ bởi những hình ảnh
dã man, độc tài, tham nhũng, bây giờ hình ảnh Leandri bị bắn gục chết lại phóng
đi khắp thế giới! Tổng Thống Thiệu nghe tin này đã tái mặt. Ông liền chấm dứt,
bước ra khỏi phòng họp.
Mấy ngày hôm sau, trong một phiên họp khác ở Văn
Phòng Thủ Tướng, lại có tin chiếc máy bay vận chuyển C-5A chở đám trẻ em mồ côi
vừa cất cánh ở Tân Sơn Nhất đã bị nổ tan. Chết trên 200 trăm em bé! Vào chính
lúc đó lại đang có những chống đối ngay tại Washington về việc di tản người Việt
Nam bằng máy bay Mỹ.
Ôi sao tin tức nó dồn dập, bi đát đến thế vào lúc
con thuyền Miền Nam nghiêng ngửa sắp chìm đắm!
Suy gẫm như vậy, nhiều nguời trong đó có tác giả,
cũng chỉ còn có cách là nghĩ đến chữ 'mệnh'.
...Ngày nay nhìn lại, riêng phần tác giả thì cũng chỉ
có một mong ước, đó là những thế hệ con cháu được sống trong thời đại kỹ thuật,
có nhiều phương tiện và hoàn cảnh thuận lợi để liên lạc nên sẽ có thể gần gũi
nhau hơn, thông cảm nhau hơn để rồi từng bước có thể giúp cho vận mệnh đất nước
trở nên tươi sáng hơn, tốt đẹp hơn.
Chúng tôi nghĩ rằng đây cũng là niềm hy vọng của đại
đa số người dân Việt Nam hôm nay.
*
Bài
viết thể hiện quan điểm riêng của Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng. Sinh năm 1935 ở
Thanh Hóa, tác giả từng giữ chức Tổng trưởng Kế hoạch của Chính phủ Việt Nam Cộng
hòa kiêm cố vấn của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trước 1975 ở Sài Gòn. Ông là
tác giả cuốn 'Khi Đồng minh Tháo chạy' và là đồng tác giả cuốn The Palace
Files- Hồ sơ Dinh Độc Lập, viết cùng Jerrold L. Schecter bằng tiếng Anh. Hiện
ông định cư tại Virginia, Hoa Kỳ.
No comments:
Post a Comment