Rachel
Nuwer - BBC
Future
26 tháng 4 2017
Nhà kinh tế chính trị học Benjamin Friedman đã từng
so sánh xã hội Phương Tây hiện đại như một chiếc xe đạp vững chãi mà bánh xe
quay được là nhờ ở sự tăng trưởng kinh tế. Nếu sự chuyển động này mà chậm lại
hoặc dừng thì các trụ cột xác định xã hội của chúng ta, là dân chủ, tự do cá
nhân, sự khoan dung xã hội và nhiều thứ khác, sẽ bắt đầu chao đảo. Thế giới của
chúng ta sẽ trở thành một nơi ngày càng khó chịu, nơi tranh giành các nguồn
cung cấp bị hạn chế và nơi từ chối những người không thuộc nhóm tiếp cận với
mình. Nếu chúng ta không tìm được cách để bánh xe quay trở lại, ta sẽ phải đối
mặt với sự sụp đổ toàn xã hội.
Sự sụp đổ như vậy đã xảy ra nhiều lần trong lịch sử
nhân loại, và không có nền văn minh nào, cho dù tuyệt vời đến mấy, cũng không
thể tránh khỏi biến động dẫn tới sụp đổ xã hội. Cho dù lúc này mọi việc đang tốt
đẹp, nhưng tình hình luôn có thể thay đổi. Bỏ qua các sự kiện kết liễu các loài
như sự va chạm của hành tinh, mùa đông hạt nhân hoặc đại dịch chết người, lịch
sử cho chúng ta biết rằng nó thường là rất nhiều yếu tố góp phần vào sự sụp đổ.
Những yếu tố đó là gì, và nếu có, cái gì đã bắt đầu hé lộ? Không có gì đáng ngạc
nhiên là nhân loại hiện đang trên con đường không bền vững và không chắc chắn,
nhưng chúng ta sắp tới điểm mà không thể quay lại được nữa chưa?
Mặc dù không thể tiên đoán tương lai một cách chắc
chắn, nhưng toán học, khoa học và lịch sử có thể cung cấp những lời khuyên về
triển vọng của các xã hội Phương Tây để tiếp tục duy trì lâu dài.
Safa Motesharrei, một nhà khoa học về hệ thống tại Đại
Học Maryland, có sử dụng các mô hình máy tính để hiểu sâu hơn về các cơ chế mà
chúng có thể dẫn đến sự bền vững hoặc sụp đổ cục bộ hoặc toàn cầu. Theo những
phát hiện mà Motesharrei và các đồng nghiệp của ông xuất bản vào năm 2014, có
hai yếu tố quan trọng, đó là căng thẳng sinh thái và phân tầng kinh tế. Yếu tố
sinh thái dẫn đến hủy diệt thì dễ hiểu, đặc biệt về mặt cạn kiệt các nguồn tài
nguyên thiên nhiên như nước ngầm, đất, thủy sản và rừng, tất cả đều có thể trở
nên tồi tệ hơn do biến đổi khí hậu.
Mặt khác, sự phân tầng kinh tế có thể dẫn đến sự sụp
đổ của chính nó, lại là điều làm cho Motesharrei và đồng nghiệp ngạc nhiên hơn.
Theo kịch bản này, giới giàu có đang đẩy xã hội vào tình trạng bất ổn và cuối
cùng là sụp đổ bằng cách tích trữ với số lượng lớn tiền của và tài nguyên, và để
lại ít hoặc không có gì cho người dân thường là những người chiếm đại đa số
nhưng vẫn hỗ trợ họ bằng lao động. Cuối cùng là người dân lao động suy sụp vì
tiền của dành cho họ là không đủ, tiếp theo là sự sụp đổ của giới giàu có do
không có lao động. Sự bất bình đẳng mà chúng ta thấy ngày hôm nay trong phạm vi
một nước và giữa các nước nói lên điều này. Chẳng hạn, 10% số người có thu nhập
toàn cầu cao nhất chịu trách nhiệm về tổng lượng phát thải khí nhà kính gần bằng
tổng số 90% số người còn lại. Tương tự, khoảng một nửa dân số thế giới sống dưới
3 đô la một ngày.
Đối với cả hai kịch bản, các mô hình đã xác định khả
năng chịu tải (nghĩa là tổng dân số mà nguồn tài nguyên của một môi trường nhất
định có thể chịu đựng được một cách dài hạn). Nếu khả năng chịu tải quá cao thì
sự sụp đổ là không tránh khỏi. Tuy nhiên, hậu quả này là có thể tránh được.
"Nếu chúng ta đưa ra những lựa chọn hợp lý để giảm các yếu tố như bất bình
đẳng, như bùng nổ dân số, như tốc độ mà ta làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên
và tốc độ ô nhiễm, là những thứ có thể thực hiện được, thì chúng ta có thể
tránh sụp đổ và ổn định được theo một quỹ đạo bền vững" Motesharrei nói.
"Nhưng chúng ta không thể chờ đợi mãi những quyết định đó được."
Thật không may, một số chuyên gia tin rằng những quyết
định khó khăn như vậy vượt quá khả năng chính trị và tâm lý của chúng ta.
"Thế giới sẽ không tới tầm giải quyết vấn đề khí hậu trong thế kỷ này, đơn
giản là vì nó tốn kém hơn để giải quyết vấn đề trong thời gian ngắn so với việc
như đang làm hiện nay" Jorgen Randers (giáo sư danh dự về chiến lược khí hậu
tại Trường Kinh doanh BI của Na Uy và tác giả của cuốn "2052: Dự báo toàn
cầu trong bốn mươi năm tới") cho biết. "Vấn đề khí hậu sẽ trở nên tồi
tệ, tồi tệ, tồi tệ hơn bởi vì chúng ta không có khả năng làm những gì chúng ta
đã hứa ở Hiệp Định Paris và ở các nơi khác."
Mọi chúng ta đều ở trong bối cảnh này nhưng người
nghèo nhất thế giới sẽ cảm thấy đầu tiên những tác động sụp đổ. Thật vậy, một số
quốc gia đã gánh chịu những khó khăn này như vật thử nghiệm mà có thể làm các
quốc gia giàu hơn xa cách nhau. Chẳng hạn Syria, có một giai đoạn dân số phát
triển nhanh. Một đợt hạn hán trầm trọng vào cuối những năm 2000, có thể là do sự
thay đổi khí hậu mà con người gây ra, kết hợp với tình trạng thiếu nước ngầm
làm cho sản xuất nông nghiệp tồi tệ. Khủng hoảng đó làm cho rất nhiều người
dân, đặc biệt là thanh niên, bị thất nghiệp, bất mãn và tuyệt vọng. Nhiều người
đổ về các trung tâm đô thị, đè nặng lên các nguồn lực và dịch vụ hạn chế ở đây.
Sự căng thẳng sắc tộc, đã có từ trước, đã gia tăng, tạo nền tảng cho bạo lực và
xung đột. Thêm vào đó, quản lý kém của chính phủ, bao gồm các chính sách tự do
cạnh tranh, loại bỏ trợ cấp về nước ở giữa kỳ hạn hán, đã đưa đất nước này vào
cuộc nội chiến năm 2011, làm nó chao đảo đi tới sự sụp đổ.
Theo Thomas Homer-Dixon, (chủ tịch của các hệ thống
toàn cầu tại trường Quan hệ Quốc tế Balsillie, Waterloo, Canada, và tác giả cuốn
The Upside Down) thì trong trường hợp sụp đổ của Syria, giống như ở các xã hội
khác trong lịch sử, không phải là một mà là rất nhiều yếu tố đã đóng góp vào.
Homer-Dixon gọi những lực kết hợp này là sức nén kiến tạo là vì nó tích tụ âm
thầm rồi đột ngột bùng phát, đè bẹp bất kỳ cơ chế ổn định nào đang giữ xã hội
trong tầm kiểm soát.
Gác trường hợp Syria sang một bên, thì một dấu hiệu
rằng chúng ta đang đi vào một vùng nguy hiểm, Homer-Dixon nói, là sự xảy ra
ngày càng gia tăng của những cái mà các chuyên gia gọi là những thay đổi phi
tuyến tính, hoặc đột ngột, khôn lường trong trật tự thế giới, như cuộc khủng hoảng
kinh tế năm 2008, sự xuất hiện của ISIS, Brexit, hoặc việc bầu Donald Trump.
Xét quá khứ ta có thể đoán tương lai sẽ diễn biến thế
nào. Chẳng hạn, sự vươn lên và sụp đổ của Đế Chế La Mã. Vào cuối những năm 100
TCN người La Mã đã lấn chiếm vượt qua Địa Trung Hải, tới những nơi gần biển. Họ
nên dừng lại ở đó, nhưng mọi việc đã diễn ra tốt đẹp nên họ muốn mở rộng biên
giới mới theo đường bộ. Vận chuyển bằng đường biển thì kinh tế, nhưng vận chuyển
bằng đường bộ thì chậm và đắt tiền. Họ đã mở rộng bờ cõi quá rộng nên phải chi
phí quá nhiều. Đế Chế vẫn duy trì ổn định trong những thế kỷ tiếp theo, nhưng
những hậu quả do việc phải trải mỏng đã xảy ra vào thế kỷ thứ 3, với các cuộc nội
chiến và xâm lăng. Đế Chế đã cố gắng duy trì các vùng đất chính, nhưng do quân
đội xài nhiều tiền và lạm phát tăng cao hơn nên chính phủ đã phải làm giảm chất
liệu đồng tiền bạc của mình để cố gắng trang trải chi tiêu. Một số học giả nêu
sự sụp đổ bắt đầu vào năm 410 khi mà quân Visigoth xâm chiếm thủ đô, sự kiện
này đã tạo ra một vòng xoáy đi xuống kéo dài hơn một thế kỷ.
Theo Joseph Tainter, giáo sư về môi trường và xã hội
tại đại học Utah và là tác giả của cuốn The Collapse of Complex Societies, thì
một trong những bài học quan trọng nhất của sự sụp đổ của Rome là sự phức tạp
có cái giá phải trả. Như đã nêu trong các luật về nhiệt động lực học, cần phải
có năng lượng để duy trì bất kỳ hệ thống nào trong một trạng thái phức tạp và
có trật tự, và xã hội loài người không là ngoại lệ. Đến thế kỷ thứ 3, Rome ngày
càng bổ sung thêm những thứ mới, một quân đội tăng gấp đôi, một đội kỵ binh,
các tỉnh nhỏ lẻ mà mỗi tỉnh có bộ máy hành chính, toà án và lực lượng phòng vệ
riêng, chỉ để duy trì hiện trạng và không bị trượt lùi. Cuối cùng, Rome không
còn đủ khả năng kham nổi những sự phức tạp gay gắt này. Sự yếu kém về tài
chính, chứ không phải do chiến tranh, đã làm Đế Chế suy sụp.
Cho đến nay, các xã hội phương Tây hiện đại đã có thể
trì hoãn sự lao dốc tương tự của sự sụp đổ thông qua các nhiên liệu hoá thạch
và công nghệ công nghiệp, như việc làm dập đá phiến chứa dầu bằng thủy lực xuất
hiện năm 2008, vừa kịp để bù đắp cho việc giá dầu tăng cao. Tuy nhiên Tainter
nghi ngờ điều này sẽ không phải luôn luôn đúng. "Hãy tưởng tượng các chi
phí nếu chúng ta phải xây dựng một vách ngăn biển xung quanh Manhattan, chỉ để
bảo vệ chống bão và thủy triều lên," ông nói. Cuối cùng, đầu tư vào sự phức
tạp như là một chiến lược giải quyết khó khăn sẽ đạt đến một điểm làm giảm dần
lợi nhuận, làm suy yếu tài chính, dẫn đến khả năng sụp đổ. Đó là, ông nói
"trừ khi chúng ta tìm ra một cách để chi trả cho sự phức tạp, giống như tổ
tiên chúng ta đã làm khi họ điều hành xã hội qua nhiên liệu hóa thạch."
Cũng tương tự Rome, Homer-Dixon tiên đoán rằng sự sụp
đổ của các xã hội phương Tây được thể hiện trước bằng sự rút lui của người dân
và các nguồn lực trở về nước họ. Khi các quốc gia nghèo hơn tiếp tục tan rã do
có xung đột và thiên tai, những làn sóng di dân khổng lồ sẽ tràn ra khỏi những
khu vực tai họa, tìm kiếm nơi ẩn náu ở các quốc gia ổn định hơn. Các xã hội
phương Tây sẽ có những hạn chế và thậm chí cấm nhập cư; những bức tường nhiều tỷ
đô la và máy bay tuần tra biên phòng và quân đội; tăng cường an ninh đối với nhập
cư; và sự quản chế độc tài và dân túy hơn. "Đó gần như là một nỗ lực tránh
bị xâm hại của các quốc gia để duy trì khoảng cách và đẩy áp lực trở lại,"
Homer-Dixon nói.
Trong khi đó, khoảng cách ngày càng tăng giữa người
giàu và người nghèo trong những nước phương Tây sẽ đẩy xã hội tiến tới sự mất ổn
định hơn nữa từ bên trong. "Đến năm 2050, Mỹ và Anh sẽ tiến triển thành
các xã hội hai tầng lớp, một tầng lớp tinh hoa ít người sống một cuộc sống tốt
đẹp, và sự suy giảm phúc lợi với đa số dân". Randers nói. "Sự công bằng
sẽ sụp đổ".
Dù ở Mỹ, Anh hay bất cứ đâu, những người càng bất
mãn và sợ bao nhiêu, theo Homer-Dixon, thì họ càng có khuynh hướng bám víu vào
nhóm của họ, bất luận là nhóm tôn giáo, chủng tộc hay quốc gia. Sự phủ nhận,
bao gồm cả triển vọng đang nổi lên của sự sụp đổ xã hội, sẽ lan rộng, cũng như
sự phủ nhận thực tế dựa trên bằng chứng. Nếu người dân thừa nhận rằng có rắc rối
thì họ sẽ đổ lỗi những rắc rối đó cho những người bên ngoài nhóm của họ, và oán
giận họ. "Như vậy người ta đang thiết lập các điều kiện tiên quyết về tâm
lý và xã hội cho bạo lực quần chúng", Homer-Dixon nói. Khi bạo lực bản địa
cuối cùng nổ ra, hoặc khi một quốc gia khác hoặc nhóm khác quyết định xâm chiếm,
thì sự sụp đổ sẽ khó tránh khỏi.
Châu Âu, do gần với châu Phi, liền đất với Trung
Đông và do tình trạng gần với các quốc gia bất ổn về chính trị ở phía Đông, sẽ
là nơi cảm thấy những áp lực này trước tiên. Hoa Kỳ sẽ có thể giữ được lâu hơn
do có các được các đại dương ngăn cách.
Mặt khác, các xã hội phương Tây có thể không bị một
kết thúc bạo lực và gay gắt. Trong một số trường hợp, các nền văn minh chỉ đơn
giản mờ nhạt đi, trở thành nước bình thường của lịch sử một cách không đột ngột
ầm ĩ mà là trong rên rỉ. Đế quốc Anh đã đi theo con đường này từ năm 1918, và
các quốc gia phương Tây khác có thể cũng sẽ như vậy. Theo thời gian, các nước
này sẽ ngày càng trở nên không quan trọng, và với việc bị mờ nhạt dần, sẽ mất
đi những giá trị mà ngày nay đang được trân trọng. "Các quốc gia phương
Tây sẽ không sụp đổ, nhưng hoạt động trôi chảy và bản chất thân thiện của xã hội
sẽ biến mất bởi sự bất công sẽ bùng nổ", Randers lập luận. "Dân chủ,
xã hội tự do sẽ thất bại, trong khi các chính phủ mạnh hơn như Trung Quốc sẽ là
người chiến thắng."
Một số dự báo và các dấu hiệu cảnh báo sớm này có vẻ
quen thuộc, chính xác bởi vì chúng đang xẩy ra. Trong khi Homer-Dixon không ngạc
nhiên trước những sự kiện gần đây của thế giới (vì ông đã tiên đoán một số trong
số đó trong cuốn sách của ông năm 2006), ông không nghĩ rằng những sự tiến triển
này sẽ xảy ra trước 2025.
Tuy nhiên nền văn minh phương Tây không phải là một
sự nghiệp thất bại. Bằng cách sử dụng lý trí và khoa học để chỉ dẫn các quyết định,
kết hợp với sự lãnh đạo phi thường và sự thiện chí đặc biệt, xã hội con người
có thể tiến tới mức cao hơn về hạnh phúc và phát triển, Homer-Dixon nói. Ngay cả
khi chúng ta phải khắc phục những căng thẳng sắp tới của biến đổi khí hậu, sự
gia tăng dân số và giảm năng lượng, chúng ta vẫn có thể duy trì xã hội và cải
thiện nó. Nhưng điều đó đòi hỏi phải chống lại sự thôi thúc tự nhiên, khi đối mặt
với những áp lực áp đảo như thế, là trở nên kém hợp tác, kém hào phóng và kém
tiếp thu lẽ phải. "Câu hỏi đặt ra là
làm thế nào để chúng ta có thể gìn giữ được loại thế giới nhân văn trong khi
chúng ta thực hiện những thay đổi này?" Homer-Dixon nói.
Bài
tiếng Anh đăng trên BBC Future
No comments:
Post a Comment