27/04/17
Biến
cố 30/4/1975 : nhớ lại và suy ngẫm
(…) Sau này khi tôi gặp lại cụ Mai, cụ vẫn không hiểu
cái gì đã xẩy ra. Cụ là người rất thông minh và một thiên tài về kinh doanh, một
người rất lương thiện nhưng cụ không thể hiểu nổi. Cụ cứ hỏi tôi "ông thử
giải thích cho tôi xem cái gì đã xảy ra".
(…) Một lý do khiến những người cộng sản chủ trương
nội chiến là nội chiến phá hủy các quốc gia và việc xóa bỏ các quốc gia nằm
trong nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản.
*
Lời
giới thiệu : Biến cố 30/4/1975 xảy ra cách đây đã 41 năm. Gần
nửa thế kỷ đã trôi qua, biến cố đó vẫn để lại nhiều nhận thức, nhiều thái độ,
nhiều cách đánh giá khác nhau. Người Việt Nam vẫn chưa đạt tới đồng thuận về ý
nghĩa của biến cố lịch sử này.
Chúng ta còn nhớ cách đây một năm vào dịp kỷ niệm 40
năm ngày 30/4/1975 thủ tướng cộng sản Nguyễn Tấn Dũng còn tung hô ngày
30/4/1975 như một ngày chiến thắng huy hoàng của "toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân Việt Nam" và hô to khẩu hiệu "đánh
cho Mỹ cút đánh cho ngụy nhào". Ông Nguyễn Tấn Dũng đã bị ngay một
số đảng viên cộng sản kỳ cựu phê phán là lạc điệu.
Kỷ niệm 42 năm biến cố 30/4/1975, từ Paris ông Nguyễn
Gia Kiểng, thường trực ban lãnh đạo Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên, một
nhân chứng của biến cố đó và cũng là người đã viết nhiều bài gây chú ý về biến
cố lịch sử này đã có cuộc trò chuyện với nhà báo Trần Quang Thành.
Nội dung như sau - Mời quí vị cùng theo dõi.
*****************
Ông Nguyễn Gia Kiểng trả lời phỏng vấn của nhà báo Trần Quang
Thành
Trần
Quang Thành : Xin chào ông Nguyễn Gia Kiểng
Nguyễn
Gia Kiểng : Chào ông Trần Quang Thành.
*
TQT
: Biến cố 30/4/1975 diễn ra đến nay đã được 42 năm. 42
năm qua cộng sản đã đặt ách thống trị lên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam sau khi đã
xâm chiếm được Việt Nam Cộng Hòa.
Ngày đó ông Nguyễn Gia Kiểng mới ở tuổi ngoài 30.
Ông từng làm phụ tá tổng trưởng kinh tế tức là chức thứ trưởng.
Ngày 30/4/1975 đó ông quan sát thấy điều gì, cảm
nghĩ ra sao và hiện nay trong đầu óc ông còn điều gì đáng suy tư thưa ông ?
NGK
: Những ngày trước và sau 30/4, nhất là ngày
30/4/1975, phải nói là những kỷ niệm "sống để bụng, chết mang theo".
Đó là những ngày cực kỳ đen tối mà không một ngôn từ nào có thể diễn tả nổi.
Lúc đó chúng tôi bồn chồn, hốt hoảng, thất vọng, tuyệt vọng. Mỗi ngày thêm một
tin khủng khiếp sau khi Buôn Mê Thuột bị thất thủ vào tay quân cộng sản, nhất
là sau cuộc tháo chạy hỗn loạn của quân và dân miền Nam trên quốc lộ 7B ; sau
đó là Đà Nẵng, Qui Nhơn, Nha Trang… lần lượt theo nhau rơi vào tay quân đội cộng
sản hầu như không có một sự kháng cự nào, bởi vì quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã
rã hàng và không còn sức kháng cự nữa. Ở miền Nam nói chung và nhất là ở Sài
Gòn những người có khả năng, có phương tiện thì tìm cách chạy trốn ra nước
ngoài. Cả nước sống trong một không khí tháo chạy hỗn loạn. Không có ngôn ngữ
nào có thể tả được.
Cũng như nhiều anh em khác, tôi không ngủ được trong
hơn một tháng. Khi nào mệt quá thì thiếp đi, rồi lại thức dậy và bồn chồn, lo lắng.
Ngày 30/4/1975 Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Quân cộng sản tràn vào Sài Gòn
trong những tiếng reo hò vui mừng cộng với những tiếng súng chào mừng chiến thắng.
Phải nói rằng lúc đó sự hân hoan của họ chỉ có thể so sánh được với sự buồn tủi
của anh em chúng tôi. Tất cả chúng tôi đều không biết những gì sẽ xảy ra cho
mình trong những ngày sắp tới. Bởi vì không nên quên rằng trước đó hai tuần lễ,
chiến thắng của quân Khmer Đỏ tại Campuchia đã khởi đầu cho một cuộc tàn sát rất
dã man các viên chức của chế độ cũ. Riêng cá nhân tôi còn có một lý do đặc biệt
để lo sợ hơn người khác bởi vì khi còn ở Paris, trước khi trở về Việt Nam, tôi
là một người lãnh đạo phong trào chống cộng tại Pháp và Âu châu ; tôi đã từng
tranh luận với nhiều người cộng sản, kể cả những người sau này trở thành những
viên chức cao cấp của chế độ. Nhưng có một điều rất lạ là sau 30/4/1975 tôi thấy
mình ngủ được. Tôi thấy mình bình tĩnh trở lại. Có lẽ vì nghĩ rằng đã mất tất cả
rồi, không còn gì để mất nữa, cái gì đến cứ đến. Tôi tự nghĩ mình đã làm tất cả
những gì mình có thể làm và cũng không làm điều gì sai trái, không có gì để tự
trách mình cả.
Kỷ niệm sinh động nhất mà tôi còn nhớ rất rõ là vào
sáng ngày 30/4/1975, lúc Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, tôi
đã lấy lá cờ vàng ba sọc đỏ úp vào mặt khóc rất lâu. Tôi không khóc cho chế
độ Việt Nam Cộng Hòa mà tôi chưa bao giờ đánh giá cao. Tôi đã chỉ muốn dựa vào
nó để ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản mà tôi cho là rất độc hại cho dân tộc Việt
Nam, để rồi sau đó xây dựng một nước Việt Nam khác. Thế nhưng vào ngày
30/4/1975 tôi thấy hy vọng đó đã hoàn toàn tiêu tan. Tôi khóc cho lý tưởng của
đời mình. Tôi cũng khóc cho đất nước Việt Nam vì tôi ý thức rất rõ ràng vào lúc
đó rằng đất nước Việt Nam bắt đầu đi vào một thảm kịch rất lớn.
Hôm nay nhân dịp nhắc lại những kỷ niệm của ngày
30/4, tôi cũng xin nói lên một điều mà một cách kỳ lạ chưa thấy người Việt Nam
nào nói đến. Đó là chế độ Việt Nam Cộng Hòa trong thất bại thê thảm của nó cũng
đã làm được một điều rất phi thường. Lúc đó tôi đang là chủ tịch ủy ban vật giá
và tiếp tế ở bộ kinh tế. Anh em chúng tôi đã cố gắng hết sức giữ cho vật giá được
ổn định và chúng tôi đã thành công. Cho đến ngày 30/4/1975 sinh hoạt kinh tế vẫn
gần như bình thường, vật giá vẫn ổn định. Có thể nói đây là một điều chưa từng
có trong lịch sử thế giới. Bởi vì nếu chúng ta nhìn các chế độ sắp sửa bị đánh
gục vì chiến tranh trên thế giới, thì luôn luôn trước đó vật giá tăng lên gấp
trăm lần, thậm chí gấp ngàn lần. Thế nhưng đồng tiền Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn ổn
định, ổn định đến nỗi chế độ cộng sản không thay thế nó và họ còn giữ nó trong
gần năm tháng nữa, đến cuối tháng 9/1975 họ mới thay thế nó bằng một đồng tiền
mới. Có thể nói tuy mặt trận quân sự tan rã nhưng mặt trận kinh tế vẫn ổn vững.
Sau này tôi có gặp lại một số bạn bè người ngoại quốc có mặt ở Sài Gòn lúc đó,
họ cũng nói với tôi rằng đó là một điều không thể tưởng tượng được và làm cho họ
rất ngạc nhiên.
*
TQT
: Thưa ông Nguyễn Gia Kiểng. Ông vừa nói kinh tế miền
Nam trong cuộc chiến khá ổn định và vật giá không bị leo thang một cách bất thường.
Điều đó cũng làm cho ông rất tự hào. Bây giờ nhìn lại cuộc chiến 1945 – 1975,
trong cuộc chiến 30 năm đó mỗi người có một nhận thức khác nhau. Người cộng sản
họ bảo đó là cuộc kháng chiến cứu nước. Lúc thì là chống thực dân Pháp, lúc thì
là chống Mỹ xâm lược. Nói chung đây là cuộc kháng chiến cứu nước. Họ tự hào đã
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bây giờ họ đặt ách thống trị cộng sản
lên toàn cõi Việt Nam. Nhưng nhiều người Việt Nam lại cho đây là một cuộc chiến
tranh huynh đệ tương tàn, một cuộc chiến tranh mà những người cộng sản làm tay
sai cho Quốc Tế Cộng Sản, như chính ông Lê Duẩn đã thừa nhận là "đánh cho
Liên Xô và đánh cho Trung Quốc".
Ông Nguyễn Gia Kiểng có bình luận gì về cuộc chiến
tranh kéo dài 30 năm, 1945 – 1975, ở Việt Nam ta ?
NGK
: Lập luận của Đảng cộng sản là môt lập luận tự đắc và
tuyên truyền trắng trợn mà ta phải bác bỏ. Phải trả lời một cách rất dứt khoát
đây là một cuộc nội chiến. Cả hai giai đoạn mà họ gọi là "chống Pháp"
và "chống Mỹ" đều chỉ là hai giai đoạn trong một cuộc nội chiến kéo
dài 30 năm, bởi vì khi người trong một nước bắn giết nhau trên một qui mô lớn
và trong một thời gian dài thì đó là nội chiến dù có hay không có sự can thiệp
từ bên ngoài. Vả lại trong thế kỷ 20, nhất là sau thế chiến thứ hai, làm gì có
cuộc nội chiến nào không có sự tiếp tay từ bên ngoài đâu. Nếu ta nhìn lại số
người Pháp và số người Mỹ thiệt mạng trong hai giai đoạn của cuộc chiến này thì
chúng ta thấy đó là một tỷ lệ không đáng kể so với số tử vong của người Việt
Nam. Người Pháp đã thiệt hại 33.000 người, trong đó một phần đáng kể là những
người lính châu Phi và Ả Rập, người Mỹ thiệt hại 58.000 người, trong khi đó số
tử vong của người Việt ở cả hai phía là trên ba triệu. Nói chung tổng số quân đội
nước ngoài thiệt mạng tại Việt Nam trong cuộc nội chiến này chưa bằng 3% của
phía Việt Nam.
Tôi còn nhớ trong một bài báo đăng trên tờ Học
Tập chính ông Trường Chinh cũng đã nhìn nhận đây là một cuộc nội chiến.
Còn ông Lê Duẩn thì đã từng tuyên bố, như ông Thành vừa nhắc lại, cuộc chiến là
để phục vụ nước ngoài. Thế thì đâu có gì là chính nghĩa giải phóng dân tộc ?
Khi nói về cuộc chiến này chúng ta cũng cần nhấn mạnh
một điều, đó là nội chiến nằm ngay trong chính nền tảng của chủ nghĩa Mác –
Lênin. Chính Lenin đã nói rằng nội chiến và đấu tranh giai cấp chỉ là một, nội
chiến chỉ là sự tăng cường và tiếp nối của đấu tranh giai cấp, đấu tranh giai cấp
chắc chắn phải đưa đến nội chiến.
Còn một lý do nữa khiến những người cộng sản chủ
trương nội chiến. Đó là nội chiến gây tác hại ghê gớm cho mọi dân tộc. Nó không
chỉ gây ra những tổn thất về vật chất, về sinh mạng mà nó còn phá hủy tinh thần
dân tộc. Khi người ta giết nhau là người ta không còn coi nhau là đồng bào nữa.
Nội chiến có tác dụng phá hủy các quốc gia và việc xóa bỏ các quốc gia nằm
trong nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản. Chúng ta phải nhấn mạnh rằng
không tội nào nặng hơn là tội gây ra nội chiến. Các quốc gia đều rất khó gượng
dậy sau một cuộc nội chiến.
Bây giờ nếu bàn về khía cạnh chính trị và lịch sử của
cuộc nội chiến này thì chúng ta cũng phải dứt khoát vất bỏ chiêu bài giải phóng
của cộng sản. Bởi vì cả hai giai đoạn của cuộc nội chiến này đều là những cuộc
chiến tranh không cần thiết, chỉ nhằm thiết lập chế độ cộng sản mà thôi. Nếu chỉ
có nhu cầu và nguyện vọng giải phóng dân tộc và giành lại độc lâp thì cuộc chiến
đó không cần có.
Chúng ta nên biết là sau Thế Chiến II khi nhân quyền
-tức là sự bình quyền giữa những con người thuộc mọi chủng tộc- đã trở thành một
mẫu số chung trong bang giao quốc tế thì sự phân biệt chủng tộc không còn được
đặt ra nữa. Bởi thế cho nên các nước Pháp, Anh và nói chung các đế quốc thực
dân phải tìm cách tháo chạy nhanh chóng khỏi các thuộc địa nếu không muốn bị
chiếm đóng ngược lại. Hãy tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra vào giờ này nếu Việt
Nam và Pháp vẫn là một ? Nếu như thế thì trong các cuộc bầu cử tự do 100 triệu
người Việt Nam sẽ có tiếng nói áp đảo so với 65 triệu người Pháp và như thế
chính nước Pháp bị chiếm đóng chứ không phải Việt Nam ! Dĩ nhiên người Pháp phải
trả độc lập cho Việt Nam, họ phải tìm cách rút khỏi Việt Nam vì chính an ninh của
họ. Điều đó không có nghĩa là tất cả đều tốt đẹp, chúng ta vẫn phải cố gắng
để việc chuyển giao chủ quyền diễn ra trong những điều kiện thuận lợi nhất cho
Việt Nam. Thế nhưng mà chúng ta không cần có một cuộc chiến tranh.
Giai đoạn chống Mỹ lại càng lố bịch. Tôi xin nhắc lại
là ngày 30/4 cũng là một ngày lịch sử rất lớn đối với nước Philippines ở gần
chúng ta. Ngày 30/4/1898 quân đội Mỹ đã tiêu diệt toàn bộ quân đội Tây Ban Nha
tại Philippines nhưng ngay sau đó Mỹ lại trả độc lập cho Philippines, bởi vì Mỹ
là một cường quốc thương mại chứ không phải là một cường quốc thực dân, họ tìm
đối tác chứ không tìm thuộc địa. Nói chung đây là một cuộc chiến do Đảng Cộng sản
Việt Nam phát động để áp đặt chủ nghĩa Mác-Lênin lên toàn cõi Việt Nam và mở rộng
thế lực của phong trào cộng sản thế giới, như lời ông Lê Duẩn mà ông vừa nhắc lại.
*
TQT
: Cuộc chiến đã kết thúc hơn 40 năm, gần một
nửa thế kỷ qua bên thắng cuộc, nghĩa là phe cộng sản, tự hào rằng họ đã đánh bại
hai đế quốc to và thống nhất non sông Nam Bắc về một dải. Bên những người bị
thôn tính là Việt Nam Cộng Hòa cũng đưa ra nhiều lý lẽ để cho rằng đây chỉ là một
cuộc xâm lăng đối với một đất nước có chủ quyền. Ông đánh giá sao về việc Đảng
cộng sản cho ràng họ có chính nghĩa ?
NGK : Như tôi vừa nói không có cuộc nội chiến nào là có chính nghĩa cả.
Không có bất cứ lý do gì có thể biện minh cho sự kiện đẩy người dân cùng một nước
vào cảnh chém giết lẫn nhau. Không nên đặt vấn đề chính nghĩa ở đây.
Như tôi đã nói mục tiêu của Đảng cộng sản là áp đặt
chủ nghĩa cộng sản trên cả nước và mở rộng thêm thế lực của phong trào cộng sản.
Những người lãnh đạo cộng sản đã lý luận như là những người cộng sản chứ không
phải như là những người Việt Nam. Nếu quyền lợi của đất nước Việt Nam được coi
là trên hết thì đã không có cuộc chiến này. Cho nên chúng ta cũng không cần phải
mất thì giờ để bàn cãi thêm nữa. Ngày nay tất cả người Việt đều đã thấy cuộc
chiến này là một cuộc nội chiến tai hại, và là một cuộc nội chiến mà Đảng cộng
sản phải chịu trách nhiệm. Chúng ta không có nhu cầu phải bàn cãi thêm nữa.
*
TQT
: Cuộc chiến đã kết thúc với biến cố 30/4/1975 và cộng
sản là người đã gây nên cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn đó. Nhìn lại 41 năm
qua ông thấy Việt Nam ta dưới sự cai trị độc tài của cộng sản đã được gì, mất
gì. Ông bình luận gì sau biến cố đó ?
NGK
: Nếu nói về những cái được thì chúng ta phải nói đây
là ngày mà nội chiến chấm dứt, người Việt Nam không còn chém giết nhau nữa. Điều
này rất quan trọng. Và đất nước đã thống nhất. Dù đã không thống nhất trong những
điều kiện chúng ta mong muốn, trái lại đã thống nhất trong những điều kiện tang
tóc, nhưng dù sao đất nước đã thống nhất. Đó là điều chúng ta có thể ghi nhận
là tích cực.
Nhưng theo tôi yếu tố tích cực nhất là điều không ai
chờ đợi, không ai dự đoán. Đó là sự hình thành của cộng đồng người Việt hải ngoại,
những người đã chạy trốn chế độ cộng sản đi tìm tự do ở các nước khác. Hiện nay
chúng ta, với sự sinh sản nhanh chóng của người Việt, đã có được hơn năm triệu
người, phần lớn định cư ở các nước tiến tiến. Nhờ đó đã có những người Việt Nam
thử nghiệm mọi nếp sống, mọi văn hóa, và mọi thể chế chính trị. Đã có những người
Việt Nam làm việc ở mức độ cao trong tất cả mọi địa hạt văn hóa, chính trị, luật
pháp, khoa học, kỹ thuật. Khối người Việt đó trong tương lai sẽ là những đầu cầu
văn hóa, thương mại, khoa học, kỹ thuật rất quí báu cho đất nước, cho cố gắng
phát triển của Việt Nam. Nhưng trước hết nó là con mắt của người Việt để nhìn
thế giới. Một trong những nguyên nhân sâu xa khiến chúng ta rơi vào thảm kịch
30/4/1975 và kéo dài cho tới ngày hôm nay là vì chúng ta đã không hiểu biết về
thế giới. Hiện nay với cộng đồng người Viêt hải ngoại này chúng ta vọng có một
con mắt để quan sát những gì xẩy ra trên thế giới. Tôi nghĩ đó là một bảo đảm để
chúng ta không bao giờ rơi trở lại vào cái bẫy của cố chấp và thiển cận nữa.
Chúng ta sẽ trở thành một dân tộc bình thường. Chúng ta cũng có điều kiện để trở
thành một dân tộc lớn. Cộng đồng người Việt hải ngoại cũng đã chứng tỏ khả năng
của người Việt. Trong một thời gian rất ngắn người Việt đã hội nhập và nói
chung ở các nước tiên tiến đã đạt được mức sống trung bình và có khi hơn cả mức
trung bình. Điều đó chứng tỏ khả năng của người Việt Nam và cho chúng ta một lý
do để hy vọng.
Thế nhưng cái mất mát cũng rất nhiều, nhiều hơn những
cái chúng ta đã được. Cách mà cuộc chiến đã chấm dứt đã mở đầu cho một giai đoạn
lịch sử đen tối. Đảng Cộng sản Việt Nam sau chiến thắng thay vì thực hiện hòa
giải dân tộc họ đã thực hiện một chính sách chiếm đóng, cướp bóc, bỏ tù và hạ
nhục tập thể đối với miền Nam và gây ra thù oán, khiến cho miền Nam sụp đổ hoàn
toàn và khiến hận thù không bớt đi, không tiêu tan mà còn tích lũy nhiều hơn nữa.
Tôi xin kể hai trường hợp cụ thể :
Trường hợp thứ nhất là một người anh rể tôi. Anh là
một kỹ sư, tổng giám đốc một công ty. Sau 30/4 công ty đó bị cái mà người ta gọi
là "tiếp thu" tức là bị tịch thu. Công ty đó chẳng có gì là quân sự cả,
chỉ là một công ty xây cất thôi. Công ty đó còn nợ một ngân hàng một triệu đồng
và người ta bắt anh phải thanh toán với tư cách giám đốc công ty mặc dầu công
ty ấy đã bị tịch thu rồi. Mặt khác anh ấy còn một tài khoản tiết kiệm gần mười
triệu đồng ở trong công ty đó thì người ta nói là để giải quyết sau nhưng không
bao giờ giải quyết cả. Thật phi lý, phải nói là một sự cướp bóc trắng trợn.
Trường hợp thứ hai là của một người mà tôi đặc biệt
thán phục. Phải nói tôi chưa bao giờ thán phục ai hơn cụ Vũ Đình Mai. Cụ là một
thanh niên nghèo ở miền Bắc một mình đi vào Nam năm 1940 ở tuổi 16 để chạy trốn
sự nghèo khổ. Cụ đã phấn đấu, đã làm việc và học hỏi thêm. Năm 1975 cụ đang là
chủ một công ty sản xuất đồ điện với trên 200 công nhân. Đó là một thành công
hoàn toàn do mồ hôi, nước mắt, cố gắng và trí thông minh. Cụ Mai là một người
mà dân tộc Việt Nam phải tự hào. Thế nhưng sau 30/4/1975 họ đã "tiếp
thu" công ty của cụ Vũ Đình Mai và sau vài tháng công ty đó sụp đổ vì họ
không biết quản trị, không biết phải làm gì. Sau này khi tôi gặp lại cụ Mai, cụ
vẫn không hiểu cái gì đã xẩy ra. Cụ là người rất thông minh và một thiên tài về
kinh doanh, một người rất lương thiện nhưng cụ không thể hiểu nổi. Cụ cứ hỏi
tôi "ông thử giải thích cho tôi xem cái gì đã xảy ra". Thật đau lòng.
Sau này cụ Mai đã vượt biên và qua được Canada. Năm
nay cụ cao tuổi lắm rồi, đã 92 tuổi. Nhưng tôi hy vọng cụ vẫn còn nghe được buổi
nói chuyện này để một lần nữa tôi bày tỏ sự kính trọng đối với cụ.
Ngày hôm nay tôi có một điều muốn nhấn mạnh đó là
chính sách tập trung cải tạo của đảng cộng sản sau ngày 30/4/1975. Như chúng ta
đã biết tất cả thanh niên miền Nam có trình độ đại học đều bị động viên trong
thời gian vài năm. Họ trở thành sĩ quan và sau đó họ giải ngũ trở về đời sống
dân sự nhưng mang qui chế lý thuyết là "sĩ quan biệt phái". Sau ngày
30/4/1975 tất cả đã bị bắt đưa vào những trại tập trung. Thí dụ như ông anh ruột
tôi, sau khi tốt nghiệp đại học đã bị đi quân dịch trong vòng ba năm và giải
ngũ với cấp bậc trung úy rồi trở về làm giảng viên trường Đại học Khoa học Sài
Gòn. Thế nhưng sau ngày 30/4/1975 anh tôi vẫn bị bắt đi tập trung cải tạo trong
vòng 5 năm. Có nhiều người nói rằng Đảng cộng sản ngây thơ không biết những người
đó là dân sự, họ đã giải ngũ rồi và không còn liên quan gì đến quân đội cả.
Tôi muốn nói chắc chắn là cộng sản biết rất rõ những
người đó là dân sự không có liên quan gì đến quân đội cả. Họ không có lầm lẫn
đâu bởi vì họ đã cài cắm một lớp điệp viên, một lớp cán bộ nẳm vùng trong tất cả
các cơ quan của Việt Nam Cộng Hòa. Ngay cả một phụ tá của ông Nguyễn Văn Thiệu
sau này cũng được phát giác là một cán bộ nằm vùng. Ông tướng Nguyễn Hữu Hạnh
mà tôi có gặp sau khi ở tù ra năm 1980 là phó tổng tham mưu trưởng quân đội Việt
Nam Cộng Hòa trong những ngày cuối cùng. Ông ấy cũng là một trong những cán bộ
nằm vùng của cộng sản.
Người cộng sản biết rất rõ rằng những người gọi là
"sĩ quan biệt phái" không có liên quan gì đến quân đội cả. Nhưng họ vẫn
tập trung cải tạo những người đó. Chúng ta phải hiểu cho rõ : đó là vì họ muốn
đánh gục khả năng và ý chí của thành phần tinh nhuệ nhất của miền Nam. Bởi vì
sau ngày 30/4/1975 sự thực rõ ràng là khả năng, trình độ văn hóa và kiến thức của
miền Nam hơn hẳn miền Bắc, cho nên họ thấy cần phải đánh gục miền Nam, đánh gục
những thành phần tinh nhuệ của miền Nam bằng chính sách đầy đọa, hạ nhục trong
một thời gian dài.
Trong một bài viết cách đây 17 năm, năm 1999 - bài "Vết
thương ngày 30/4" - tôi có nói đây là đổ vỡ lớn nhất, vết thương
lớn nhất của đất nước Việt Nam và đây là một hành động có chủ ý của Đảng cộng sản.
Chúng ta phải nói đảng cộng sản hoàn toàn không có quan tâm nào tới quyền lợi của
đất nước cả, họ chỉ quan tâm bảo vệ quyền lực của đảng cộng sản, họ chỉ quan
tâm đến thắng lợi của phong trào cộng sản. Tôi xin nhắc lại một lần nữa rằng những
người lãnh đạo cộng sản đã hành động như những người cộng sản chứ không phải
như những công dân Việt Nam.
*
TQT
: Ông vừa đề cập đến những tội ác của cộng sản đối với
những người dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Những điều đó là rõ ràng và khẳng định.
Không chỉ thế những người dân miền Bắc, những người đã sống nhiều năm dưới chế
độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do cộng sản cai trị cũng ngày càng bừng tỉnh thấy
rằng chế độ cộng sản là một chế độ độc tài toàn trị mang lại tội ác đau thương
cho cả dân tộc Việt Nam. Từ Nam chí Bắc đều chung quốc hận là cộng sản. Vậy tại
sao Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên lại đề ra chủ trương bao dung hòa hợp, hòa giải và
người ta nói đường hướng đó sẽ thất bại, tại sao ông vẫn kiên trì ?
NGK
: Tôi phải nói dứt khoát như thế này : Hòa giải là một
bắt buộc đối với các dân tộc sau một cuộc nội chiến. Chúng ta đã thấy tại Hoa Kỳ
sau một cuộc nội chiến chỉ kéo dài bốn năm cách đây một thế kỷ rưỡi chính quyền
Mỹ đã làm tất cả để hòa giải hai miền Nam – Bắc. Tại Tây Ban Nha sau cuộc nội
chiến cũng chỉ kéo dài có mấy năm thôi mà chính quyền hiện nay cũng vẫn còn phải
cố gắng hết sức để hòa giải dân tộc. Bởi vì hòa giải là bắt buộc nếu chúng ta
muốn động viên mọi khối óc và mọi bàn tay trong một cố gắng chung.
Tôi đã đi khá nhiều nước để tìm câu trả lời cho một
câu hỏi : "Tại sao theo các nhà khoa học mọi giống người sinh ra
trên thế giới này đều tương đương với nhau về khả năng vậy mà có những quốc gia
tiến bộ và phồn vinh trong khi đó các nước khác tụt hậu và nghèo khổ" ?
Câu trả lời mà tôi tìm được cũng chỉ xác nhận kết quả
của những nghiên cứu chính trị mà thôi. Đó là một quốc gia chỉ tiến lên được nếu
có hòa hợp dân tộc, nếu những người trong cùng một nước chấp nhận lẫn nhau và
cùng cố gắng xây dựng và chia sẻ một tương lai chung. Hòa hợp dân tộc là một yếu
tố không có không được để một quốc gia có thể phát triển được. Thế nhưng làm thế
nào để có hòa hợp ? Đối với các dân tộc đã trải qua nội chiến như Việt Nam thì
trước đó phải có hòa giải dân tộc.
Ngày hôm nay chúng ta lại có một vấn đề khác. Chúng
ta đang sống trong một thế giới toàn cầu hóa. Phong trào toàn cầu hóa này đe dọa
tất cả các quốc gia, nó chất vấn từ nền tảng khái niệm quốc gia, nó đặt câu hỏi
"các quốc gia có cần cho con người hay không ?" bởi vì phải nói rằng
ngày nay con người là giá trị cao nhất, tất cả những gì không đạt được mục tiêu
phục vụ con người đều không có lý do để tồn tại. Hiện nay chính đất nước Việt
Nam đang bị chất vấn. Không chỉ riêng Việt Nam mà tất cả các quốc gia không
thành công - nghĩa là không đem lại tự do, phồn vinh và tự hào cho người dân -
sẽ không có lý do tồn tại và sớm muộn gì cuối cùng sẽ tan vỡ mà thôi. Vậy thì
hòa giải và hòa hợp dân tộc là điều kiện phải có để đất nước Việt Nam còn tồn tại.
Hòa giải dân tộc để có thể hòa hợp dân tộc. Hòa hợp dân tộc để có thể tồn tại
được. Cho nên yêu cầu hòa giải và hòa hợp dân tộc cũng là một yêu cầu giữ nước.
Một lý do nữa là hòa giải và hòa hợp dân tộc cũng là
điều kiện để đánh bại được chế độ cộng sản, buộc chế độ cộng sản nhượng bộ và
chấp nhận tiến trình dân chủ. Vì sao ? Chúng ta đừng quên là các chế độ độc tài
hung bạo không cần người dân yêu chúng, chúng chỉ cần người dân đừng thương yêu
nhau để cho chúng dễ thống trị một xã hội bất lực vì chia rẽ. Cho nên hòa giải
và hòa hợp dân tộc cũng là một điều kiện phải có để giành thắng lợi cho dân chủ.
Nói chung hòa giải, hòa hợp dân tộc là một điều kiện
bắt buộc trong hoàn cảnh Việt Nam. Vấn đề là nhiều người nói là người cộng sản
không muốn hòa giải. Điều đó đúng. Nhưng chúng ta đâu có bắt buộc phải chỉ làm
những gì người cộng sản muốn đâu. Chúng ta làm rất nhiều điều mà đảng cộng sản
không muốn. Nói chung phần lớn những điều chúng ta làm là những điều Đảng cộng
sản không muốn. Hòa giải và hòa hợp dân tộc là một bắt buộc cho tương lai đất
nước. Nếu Đảng cộng sản không muốn hòa giải như nhiều người nghĩ thì họ sẽ bị
đào thải. Vấn đề chỉ giản dị như vậy thôi.
*
TQT
: Kinh nghiệm trong cuộc sống cho thấy là người cộng sản
luôn tráo trở trong vấn đề gọi là hòa hợp, hòa giải. Năm 1945 khi giành được
chính quyền họ đã bầy ra trò hòa hợp, hòa giải. Năm 1975 họ cũng đã từng đưa ra
cái bánh vẽ hòa hợp, hòa giải. Những người mắc lừa họ đã phải trả bằng xương
máu cả cuộc đời. Ông đã từng chứng kiến như vậy, nhưng tại sao ông vẫn giữ ý
nghĩ có thể hòa hợp, hòa giải với cộng sản ?
NGK
: Sự gian trá, sự phản trắc nẳm ngay trong bản chất của
chế độ cộng sản. Tôi không cần ai dạy tôi điều đó cả. Ông Thành đã từng sống dưới
chế độ cộng sản. Vào ngày 30/4/1975 hai vị trí của ông và tôi rất khác nhau.
Ông thuộc phe chiến thắng, tôi thuộc phe chiến bại. Tôi không biết ngày hôm đó
ông Thành có hân hoan hay không nhưng ngày hôm đó là tủi nhục đối với tôi.
Chúng ta khác biệt nhau lắm. Thế mà hôm nay chúng ta vẫn có thể nói chuyện với
nhau thân mật như thế này. Điều đó chứng tỏ thời gian đã làm nhiệm vụ của nó và
hòa giải dân tộc giữa những người biết điều và yêu nước là lẽ tự nhiên.
Nhưng trở lại vấn đề day dứt là nhiều người sợ là Đảng
cộng sản vẫn cứ tráo trở. Chúng ta phải biết sự tráo trở đó nằm trong bản chất
của chế độ cộng sản. Ông Thành lớn lên trong chế độ cộng sản chắc phải biết
Lenin định nghĩa đạo đức là như thế nào chứ gì ? Lenin định nghĩa đạo đức là những
gì có lợi cho đảng cộng sản. Nghĩa là nếu sự phản trắc, lật lọng, giết người mà
có lợi cho đảng cộng sản thì họ vẫn làm. Như vậy không có ai lầm, không có ai
ngây thơ cả. Vấn đề là đảng cộng sản có khả năng để mà lật lọng hay không.
Chúng ta đều nghĩ rằng sự lật lọng của Đảng cộng sản là có thật, nhưng cái lỗi
của những người chống cộng –nghĩa là chế độ Việt Nam Cộng Hòa và những người
dân chủ nói chung- là chúng ta quá yếu nên chúng ta đã để cho đảng cộng sản có
thể lật lọng. Tôi nghĩ nếu chúng ta mạnh hơn họ thì Đảng cộng sản sẽ không mong
gì hơn là tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc được thực hiện một cách thành
thực. Thí dụ như tại sao họ không lật lọng tại Ba Lan như họ đã từng lật lọng ?
Tại sao ở Hungary trước đây họ đã từng lật lọng nhưng bây giờ lại không lật lọng
? Tại Romania ngày trước họ gian xảo bao nhiêu bây giờ họ ngoan ngoãn bấy nhiêu
? Đó là vì họ ở trong thế yếu. Chúng ta bị phản bội vì chúng ta yếu.
Trách nhiệm ở đâu ? Nếu chúng ta nhìn lại thì sau Thế
Chiến II có hai quốc gia ở châu Á - Cao Ly và Việt Nam - có một nền văn hóa giống
nhau, có mức độ phát triển tương đương với nhau và cùng bị chia cắt bởi
cùng một làn ranh ý thức hệ. Trong cả hai nước chế độ cộng sản miền Bắc đã gây
chiến để thôn tính nền dân chủ non trẻ ở phía Nam. Trong cả hai trường hợp Hoa
Kỳ và thế giới đã can thiệp rất mạnh mẽ để ủng hộ miền Nam. Thế nhưng kết quả
đã rất khác, hai cuộc chiến đã kết thúc rất khác ở Cao Ly và ở Việt Nam, và Hàn
Quốc đã có tương lai khác hẳn với Việt Nam. Vì sao ? Bởi vì trí thức Việt Nam
không bằng trí thức Đại Hàn, trí thức Việt Nam thua xa trí thức Đại Hàn. Như vậy
thay vì lý luận quanh co là Đảng cộng sản lật lọng, điều ai cũng biết, chúng ta
nên nhìn vào cái lý do căn bản hơn là vì chúng ta yếu cho nên Đảng cộng sản mới
có khả năng và dám phản bội.
Đây là dịp để nhìn lại lý do tại sao chúng ta yếu.
Đó là vì trí thức Việt Nam ảnh hưởng của văn hóa Khổng giáo quá nặng nề nên
không có kiến thức chính trị. Chế độ Khổng giáo xét cho cùng cũng tương tự như
chế độ cộng sản, nó cũng bất dung và toàn trị như chế độ cộng sản thôi. Trí thức
Việt Nam lớn lên theo văn hóa làm quan. Người trí thức Việt Nam có thể có bằng
cấp cao, có kiến thức chuyên môn cao nhưng về chính trị cũng gần như những người
vô học, cũng không khác gì người dân. Trí thức Việt Nam quan niệm chính trị như
một trò chơi để tranh giành công danh chứ không phải là một trách nhiệm đối với
xã hội. Đó mới là nguyên nhân đưa đến sự yếu kém của sức đề kháng của nhân dân
Việt Nam. Xét cho cùng thì Wilson Churchill đã có một câu nói đúng là dân tộc
nào cũng xứng đáng với chế độ mà họ có. Dân tộc nào cũng cần có một đội ngũ trí
thức chính trị để lãnh đạo họ. Nhưng Việt Nam đã thiếu tầng lớp trí thức chính
trị đó. Trí thức Việt Nam do đó không làm được bổn phận của mọi trí thức là
lãnh đạo dân tộc. Đó là nguyên nhân của thảm kịch dân tộc chứ không phải là vì
đảng cộng sản gian trá, phản trắc, điều đó ai cũng biết không cần phải nhắc lại
nữa.
Điều mà chúng ta phải nhắc lại nhiều lần là chúng ta
phải có một sức bật mới ; phải có một cuộc cách mạng văn hóa để cho những người
trí thức Việt Nam hiểu rằng chính trị không phải cứ tự nhiên là có thể làm được.
Chính trị là một bộ môn rất khó, đòi hỏi những cố gắng học hỏi và trải nghiệm rất
lớn. Nếu chúng ta ý thức được điều đó thì không có gì đáng lo sợ cả. Tôi nghĩ rằng
ngày nay chúng ta có hy vọng. Chúng ta cần tổ chức lại thành một đội ngũ những
người trí thức hiểu biết những vấn đề của đất nước ; hiểu thế nào là một quốc
gia, một dân tộc ; làm thế nào đưa đất nước đi lên ; những yếu tố nào khiến một
quốc gia suy vong hoặc hưng thịnh ; chúng ta đang sống trong bối cảnh thế giới
nào, đang đứng trước những thử thách nào và đang có những hy vọng nào v.v.
Nếu có một tầng lớp trí thức như thế – mà tôi thấy đang có – thì chúng ta không
sợ sự lật lọng của đảng cộng sản. Họ không còn khả năng để lật lọng nữa.
Vấn đề là giữa người Việt Nam với nhau là trước hết
chúng ta phải hòa giải với nhau, phải nhận ra những khuyết điểm của mình, chúng
ta phải tha thứ cho nhau, nhận nhau là anh em trong một cố gắng chung để xây dựng
một tương lai chung. Điều đó mới là điều căn bản.
*
TQT
: Sau một giai đoạn chiến tranh khốc liệt 1945 – 1975,
những người cộng sản họ tự hào rằng họ đã đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và
Mỹ để đưa non sông về một dải. Họ cũng tự hào là đánh cho cả Liên Xô và Trung
Quốc, cho Quốc Tế Cộng Sản.
Còn những người Việt Nam yêu nước, những người đã từng
sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa bị cộng sản xâm chiếm, tước đi quyền tự do họ
đang có, và hiện nay kể cả những người ở miền Bắc đã từng sống dưới chế độ cộng
sản cũng thấy mình là nạn nhân của chế độ cộng sản, thì nghĩ đến ngày quốc hận.
Còn ông Nguyễn Gia Kiểng nghĩ sao, nên đặt tên cho
ngày 30/4/1975 là ngày gì ?
NGK
: Đây chắc chắn không phải là ngày chiến thắng như Đảng
cộng sản đã rêu rao đâu. Phải tăm tối như ông Nguyễn Tấn Dũng trong ngày 30/4
năm ngoái mới có thể huênh hoang mà nói đó là ngày đại thắng, ngày "đánh
cho Mỹ cút - đánh cho ngụy nhào" ?! Tôi nghĩ ngày nay đa số đảng
viên cộng sản cũng không còn coi ngày 30/4 như một ngày chiến thắng để mà khoe
khoang nữa đâu. Cùng lắm nó đã là một ngày chiến thắng cho Đảng cộng sản, nhưng
đối với dân tộc Việt Nam nó đã là một ngày khởi đầu cho một giai đoạn đen tối,
đầy những mất mát và đổ vỡ. Đối với dân tộc Việt Nam, đối với đất nước Việt Nam
đó là một ngày buồn.
Nó có phải là một ngày thống nhất như họ nói hay
không ? Theo nghĩa đen thì nó đúng là một ngày thống nhất. Nhưng tôi không nghĩ
là ngày 30/4 xứng đáng với tên gọi này vì mới chỉ có thống nhất về mặt địa lý
và hành chính thôi chứ không có thống nhất trong lòng người, trong ý chí xây dựng
một tương lai chung.
Nhiều người, và nhất là ở hải ngoại, nói đó là một
ngày quốc hận. Tôi nghĩ không nên gọi 30/4 là ngày quốc hận. Đúng là chúng ta
có rất nhiều điều để ân hận. Chúng ta đã bỏ lỡ nhiều cơ hội và đã để đất nước
rơi vào thảm kịch. Nhưng trong tiếng Việt chữ "hận" cũng có nghĩa là
hận thù, mà hận thù là điều chúng ta phải xóa bỏ một cách dứt khoát và vĩnh viễn
nếu muốn quốc gia Việt Nam còn có thể tồn tại và vươn lên
Dầu sao thì ngày 30/4/1975 cũng vẫn là ngày của một
biến cố lịch sử rất lớn. Theo tôi nên coi đó là một ngày để cả nước suy nghĩ về
đất nước mình và để rút ra những bài học cho tương lai.
Tôi hình dung ngày 30/4 sau này là một ngày nghỉ. Cả
nước sẽ cùng hồi tưởng lại cuộc nội chiến. Sẽ có những cuộc hội thảo tại các
trường đại học. Tại đảo Côn Sơn sẽ có một ngày lễ lớn dưới chân một tượng lớn của
bà mẹ Việt Nam nhìn ra biển cả để tưởng nhớ những đứa con đã bỏ mình trên biển
cả trong lúc đi tìm tự do. Trên khắp mọi miền đất nước người ta sẽ tới thắp
hương, đặt hoa trên mộ các nạn nhân thuộc cả hai phía trong cuộc chiến này. Ở
ngoài phố người ta chào hỏi nhau, bắt tay nhau trong tình anh em và bạn bè để
biểu lộ một ý chí chung là xây dựng một đất nước Việt Nam có chỗ đứng, có tiếng
nói và có niềm tự hào cho tất cả mọi người.
Theo tôi nên gọi ngày 30/4 là ngày hòa giải và hòa hợp
dân tộc.
*
TQT
: Xin cảm ơn ông Nguyễn Gia Kiểng
No comments:
Post a Comment