Tác giả: Nguyễn Thanh Minh
Posted
on 26/03/2017 by The Observer
Đặt
vấn đề
Chủ
quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là không thể
tranh cãi, dựa trên các yếu tố cấu thành chủ quyền của một quốc gia về lãnh thổ
đó là khẳng định chủ quyền về mặt nhà nước và sự đương nhiên thừa nhận trong tập
quán quốc tế. Việt Nam là quốc gia duy nhất có những dữ kiện địa lý, bằng chứng
lịch sử, cơ sở pháp lý quốc gia và quốc tế để xác lập chủ quyền và khẳng định chủ
quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Nội dung chính sách
về biển của Nhà nước Việt Nam trong quá trình xác lập chủ quyền về mặt nhà nước
đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa luôn phù hợp với hệ thống quy phạm
pháp lý quốc tế về xác lập chủ quyền đối với một vùng lãnh thổ. Đó là một quốc
gia khi xác lập chủ quyền đối với một vùng lãnh thổ phải thể hiện đầy đủ tính
chất về mặt nhà nước, tức là nhà nước đó có ban hành văn bản, chính sách và tổ
chức quản lý hành chính vùng lãnh thổ đó hay không khi nó chưa thuộc chủ quyền
của bất kỳ một quốc gia hay vùng lãnh thổ nào, đồng thời cách thức xác lập chủ
quyền phải được thực hiện bởi tổ chức hành chính trực thuộc nhà nước. Xét về
khía cạnh này, Việt Nam là quốc gia duy nhất trong khu vực Biển Đông đáp ứng đầy
đủ tính chất về xác lập chủ quyền và khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa về mặt nhà nước theo quy định của luật pháp quốc tế và thực
tiễn quốc tế.
Quá
trình hoạch định và triển khai chính sách về biển của Nhà nước Việt Nam qua các
triều đại phong kiến đã được thể hiện rõ nét trong suốt mọi giai đoạn lịch sử,
nội dung đó đã hình thành và liên tục được kế thừa phát triển qua các thể chế
nhà nước. Đặc biệt, trong chính sách về biển đảo có nội dung khẳng định chủ quyền
của Nhà nước Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Những chứng lịch
sử đã chứng minh quá trình xác lập chủ quyền đối với toàn bộ vùng biển đảo của
Nhà nước Việt Nam, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một trong
những nội dung cơ bản của quá trình triển khai chính sách về biển đối với các
Nhà nước phong kiến Việt Nam.
Trong
suốt chiều dài lịch sử phát triển của đất nước, chủ quyền của Nhà nước Việt Nam
trên các vùng biển đảo và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong khu vực Biển
Đông luôn được xác định rõ ràng, nội dung này được thể hiện qua những nội dung
cơ bản của quá trình hoạch định và thực thi chính sách về biển của quốc gia, điều
này hoàn toàn phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế về xác lập
chủ quyền đối với những vùng lãnh thổ vô chủ đương thời.
Việt
Nam trong thời kỳ Lê – Trịnh (1592 – 1788), đã chứng kiến sự mở rộng lãnh thổ
xuống phía Nam của nhà Nguyễn ở Đàng Trong. Từ khi chúa Nguyễn Hoàng (1558
-1613), đặt nền móng cho sự mở rộng bờ cõi mà đến đỉnh cao là chúa Nguyễn Phúc
Nguyên (1613 – 1635), vị chúa của những kỳ công mở cõi đầu thế kỷ XVII. Trong
thời kỳ này, chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
đã được xác lập và đi vào quản lý, khai thác một cách đồng bộ vừa mang tính dân
sự vừa mang tính quân sự. Tuy nhiên, do vấn đề lịch sử để lại, bởi vậy, chủ quyền
của Nhà nước Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên Biển Đông đã
bị một số quốc gia và vùng lãnh thổ trong khu vực bất chấp những nguyên tắc cơ
bản của luật pháp quốc tế và nội dung của Hiến chương Liên hợp quốc cũng như những
quy định của luật biển quốc tế đã xâm chiếm trái phép hoàn toàn quần đảo Hoàng
Sa và một số đảo đá thuộc quần đảo Trường Sa của Nhà nước Việt Nam. Điều này,
đã dẫn đến hệ quả là cuộc đấu tranh trên các phương diện bằng chứng lịch sử và
cơ sở pháp lý quốc tế, luật pháp quốc gia và phương diện ngoại giao nhằm khẳng
định chủ quyền của Nhà nước Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
là cuộc đấu tranh lâu dài nhưng oanh liệt, khó khăn và rất phức tạp.
Tiếp
cận cơ sở pháp lý quốc tế từ kết quả phân tích nội dung chính của một số hội
nghị quốc tế diễn ra trong thế kỷ XX, đã đương nhiên thừa nhận chủ quyền của
Nhà nước Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là hướng nghiên cứu
mới. Những nội dung cơ bản được quy định trong các hội nghị quốc tế có thể được
xem là một trong những cơ sở pháp lý quốc tế quan trọng để Nhà nước Việt Nam
làm căn cứ phục vụ cho cuộc đấu tranh trường kỳ để khẳng định chủ quyền của mình,
buộc các bên hữu quan có yêu sách phi lý về chủ quyền trao trả quần đảo Hoàng
Sa và một số điểm đảo đá, bãi ngầm, bãi cạn thuộc quần đảo Trường Sa cho Việt
Nam theo luật pháp quốc tế, bằng biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp chủ
quyền lãnh thổ.
1.
Tuyên bố Cairo
Năm
1943, bối cảnh chung của thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, các mối quan hệ
quốc tế liên tiếp diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, song mục đích chính của
các nước lớn là tranh dành phạm vi ảnh hưởng và phân chia lại biên giới lãnh thổ
sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc. Bên cạnh đó, cuộc chiến tranh thế
giới lần thứ hai đã bước vào giai đoạn khốc liệt nhất. Để xem xét một số vấn đề
quan trọng của thế giới có liên quan đến biên giới lãnh thổ, đại diện ba nước
Anh, Mỹ và Trung Quốc (Cộng hòa Trung Hoa do Tưởng Giới Thạch đứng đầu) đã nhóm
họp tại Cairo Thủ đô của Ai Cập ngày 27-11-1943, mà lịch sử gọi là Hội nghị Tam
cường Anh – Mỹ – Trung. Hội nghị kết thúc đã đưa ra được Tuyên bố chung, trong
tuyên bố có đoạn viết: Nhật Bản phải bị loại ra khỏi tất cả các đảo ở Thái Bình
Dương mà Nhật đã cướp hoặc chiếm đóng từ khi bắt đầu cuộc Chiến tranh Thế giới
lần thứ nhất năm 1914, và tất cả những lãnh thổ Nhật đã chiếm của Trung Quốc
như Mãn Châu Lý, Đài Loan và Bành Hồ sẽ được trả lại cho Cộng hòa Trung Hoa.[1] Ở đây chúng ta xem xét chủ quyền của
Nhà nước Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên hai khía cạnh
cơ bản:
Thứ
nhất, vấn
đề lãnh thổ của Trung Quốc, Tuyên bố Cairo đã khẳng định ý chí của các cường quốc
buộc Nhật Bản phải trao trả lại cho Cộng hòa Trung Hoa các lãnh thổ mà Nhật Bản
đã chiếm của Trung Quốc bao gồm: Mãn Châu Lý, Đài Loan và Bành Hồ, không có gì
liên quan đến chủ quyền của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, bởi vì chủ quyền
đó đã thuộc về Nhà nước Việt Nam từ lâu.
Thứ
hai, Tuyên
bố Cairo đã không đề cập đến chủ quyền của quốc gia nào đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa. Tại sao vậy? Bởi vì, hai quần đảo này đã thuộc chủ quyền
của Nhà nước Việt Nam từ lâu, ít nhất là từ thế kỷ XVII đã có những chứng cứ lịch
sử chứng minh chủ quyền thuộc về Nhà nước Việt Nam. Chính vì vậy, những người đứng
đầu của hội nghị đã không đề cập đến chủ quyền lãnh thổ của Hoàng Sa và Trường
Sa là lẽ đương nhiên.
Tựu
trung lại, nội
dung của Tuyên bố Cairo năm 1943, được xem là một trong những điều ước quốc tế
quan trọng để hợp thành hệ thống cơ sở pháp lý quốc tế nhằm khẳng định chủ quyền
của Nhà nước Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đồng thời là một
trong những căn cứ pháp lý quốc tế quan trọng để Nhà nước Việt Nam vận dụng, nhằm
bác bỏ những luận thuyết sai trái về hiện thực khách quan. Đồng thời phản đối sự
khẳng định chủ quyền phi lý của Trung Quốc đã xâm chiếm trái phép hoàn toàn quần
đảo Hoàng Sa và một số đảo đá thuộc quần đảo Trường Sa của Nhà nước Việt Nam.
2.
Hội nghị Postdam
Vào
năm 1945, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai dần dần đi vào kết thúc, thế giới
có nhiều việc phải làm đối với các cường quốc thắng trận như vấn đề lãnh thổ,
phân chia phạm vi ảnh hưởng… Sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc ở mặt trận châu
Âu, tháng 7-1945, đại diện ba nước lớn là Anh, Mỹ và Liên Xô đã tổ chức nhóm họp
tại Postdam của Đức, nội dung chính của cuộc họp là để thảo luận về tương lai
chính trị, đặc biệt về vấn đề tổ chức tuyển cử tại các nước Đông Âu và Trung
Âu. Hội nghị Postdam đã ra Tuyên bố chung ngày 26-7-1945, nội dung của Tuyên bố
còn ấn định thể thức giải giáp quân đội Nhật Bản sau khi chiến tranh Thái Bình
Dương kết thúc.
Đối
với Việt Nam, để giải giáp quân đội Nhật, ba nước Anh – Mỹ – Liên Xô đã quyết định
chia Việt Nam thành 2 khu vực từ vĩ tuyến 16, theo đó quân đội Trung Hoa có
nghĩa vụ giải giáp và hồi hương quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 ra Bắc và quân đội
Anh được ủy nhiệm giải giáp quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam. Theo
tuyên bố Postdam, phía Trung Quốc do phái đoàn Cộng hòa Trung Hoa (Quốc dân đảng)
có nghĩa vụ giải giáp quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 ra Bắc, trong đó có quần đảo
Hoàng Sa của Việt Nam tọa lạc tại vĩ tuyến 16: nhóm Lưỡi Liềm phía Tây Nam tại
vĩ độ 16030’N và nhóm An Vĩnh phía Đông Bắc tại vĩ độ 16050’N.
Trong khi đó, quân đội Hoàng gia Anh có nghĩa vụ giải giáp quân đội Nhật từ vĩ
tuyến 16 trở vào Nam, kể cả quần đảo Trường Sa tọa lạc tại các vĩ tuyến từ 120 đến
70 N, tính từ Cam Ranh xuống tỉnh Cà Mau. Nhiệm vụ đã được quy
định rõ ràng trong nội dung của tuyên bố Postdam, đó là lực lượng của các nước
Cộng hòa Trung Hoa và Anh thay mặt Đồng minh vào giải giáp quân Nhật, chứ không
phải tiếp thu hay chiếm hữu lãnh thổ của quốc gia đến làm nhiệm vụ. Xét tính chất
đóng vai trò quan trọng là nhiệm vụ đã được quy định rõ ràng trong bản tuyên bố
là giải giáp quân Nhật, đồng thời thực tế này cho thấy, các nước Đồng minh đã mặc
nhiên thừa nhận hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc lãnh thổ của Nhà nước
Việt Nam là lẽ đương nhiên.
Tháng
8-1945, quân đội Trung Hoa Quốc dân đảng vào miền Bắc để tiến hành việc giải
giáp quân Nhật ở đây. Sau một thời gian, Trung Quốc đã ký với Pháp bản Hiệp ước
Trùng Khánh vào ngày 28-2-1946. Theo nội dung chính của Hiệp ước thì “Pháp khước
từ trị ngoại pháp quyền và các quyền liên hệ khác tại Trung Hoa” điều thể hiện
rõ nét là Pháp trả Trung Quốc các tô giới tại Thượng Hải và Quảng Châu Loan. Đổi
lại Trung Quốc đồng ý để quân đội Pháp vào bắc vĩ tuyến 16 thay thế quân đội
Trung Hoa Quốc dân đảng để thực hiện nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật. Ngay sau
thời điểm đó, Chính phủ Pháp đã ký với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hiệp
định Sơ bộ vào ngày 6/3/1946, xoay quanh vấn đề nước Pháp thừa nhận Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa là một Quốc gia tự do và tự trị nằm trong Liên bang Đông
Dương và trong Khối Liên hiệp Pháp và quân đội Pháp sẽ ra miền Bắc của Việt Nam
để thay thế quân Tưởng.
3.
Hội nghị hòa bình San Francisco
Hội
nghị San Francisco được tổ chức từ ngày 4 – 8/9/1951, có đại diện 51 nước tham
dự để bàn về việc ký hòa ước hòa bình với Nhật Bản. Đầu tháng 9-1951, theo lời
mời của Chính phủ Mỹ, 51 quốc gia trước kia đã từng tham gia hay có liên hệ tới
cuộc chiến chống xâm lược Nhật Bản từ năm 1939 đến năm 1945 đã tham dự Hội nghị
hòa bình nhóm họp tại thành phố San Francisco của Mỹ để thảo luận vấn đề chấm dứt
tình trạng chiến tranh và tái lập bang giao với Nhật Bản. Phái đoàn Quốc gia Việt
Nam đại diện cho Nhà nước Việt Nam do Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trần Văn Hữu
thuộc Chính phủ Bảo Đại làm trưởng đoàn cũng được mời tham gia hội nghị. Tuy
nhiên, Trung Quốc và vùng lãnh thổ Đài Loan đều không được mời tham dự Hội nghị.
Trong Hội nghị này, nội dung chính là thảo luận bản dự thảo hòa ước do hai nước
Anh và Mỹ đề nghị ngày 12-7-1951. Ngày 8-9-1951, các nước tham dự Hội nghị đã
ký hòa ước với Nhật Bản, ngoại trừ ba nước còn lại là Liên Xô, Ba Lan và Tiệp
Khắc đã không ký.
Mỹ
đã gạt Trung Quốc ra ngoài Hội nghị, chính vì vậy, các nhà lãnh đạo Trung Quốc
ngay từ cuối năm 1950 đã có phản ứng gay gắt. Một mặt Chính phủ Trung Quốc đã
ra một số tuyên bố chính thức, mặt khác họ cho đăng các bài báo để lên án việc
không mời Trung Quốc tham dự Hội nghị và để trình bày quan điểm của Trung Quốc
về một số vấn đề cần phải được thảo luận, trong đó có vấn đề chủ quyền trên quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày
5-9-1951, trong phiên họp toàn thể thứ hai của hội nghị San Francisco, đại biểu
Liên Xô là Andrei A. Gromyko Tại phiên họp toàn thể ngày 05/9/1951, Andrei
Gromyko, trưởng đoàn đại biểu của Liên Xô đó đề nghị một tu chỉnh trong Dự thảo
Hòa ước với Nhật Bản, theo đó Nhật Bản công nhận chủ quyền của Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa trên các quần đảo Paracels và Spratlys.[2] Nhưng Hội
nghị đó bỏ phiếu bác bỏ tu chỉnh này với 46 phiếu thuận, 3 phiếu chống gồm:
Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc và một phiếu trắng.
Tại
Hội nghị hòa bình San Francisco năm 1951, phái đoàn Quốc gia Việt Nam tham gia
Hội nghị đã ra tuyên bố khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày 7-9-1951, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trần Văn Hữu,
trưởng phái đoàn Quốc gia Việt Nam đã ra tuyên bố tái khẳng định chủ quyền của
Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trước 51 phái đoàn ngoại giao
của các nước thành viên Liên hợp quốc: Và để tận dụng không ngần ngại mọi cơ hội
để dập tắt những mầm mống bất hòa, chúng tôi khẳng định chủ quyền của chúng tôi
trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ xưa đến nay vẫn thuộc cương vực Việt
Nam.[3] Lời tuyên bố đó đã được Hội nghị San
Francisco ghi vào biên bản và trong tất cả 51 phái đoàn tham dự hội nghị, không
có một phái đoàn nào phản đối thể hiện bằng văn bản. Không có bất cứ một đại diện
nào của 51 quốc gia tham dự Hội nghị có ý kiến phản đối hoặc bảo lưu đối với
tuyên bố trên của đại diện Việt Nam tại Hội nghị San Francisco.
Về
khía cạnh pháp lý, với sự công bố khẳng định chủ quyền của Nhà nước Việt Nam đối
với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trước 50 quốc gia thành viên Liên hợp quốc
tham dự hội nghị San Francisco năm 1951, cho thấy: từ năm 1951 các quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa đã được các quốc gia trên thế giới đương nhiên thừa nhận
là lãnh thổ thuộc chủ quyền của Nhà nước Việt Nam trong một Hội nghị quốc tế có
sự tham gia của 50 quốc gia thành viên của tổ chức quốc tế là Liên hợp quốc. Sự
kiện 92% các quốc gia thành viên Liên hợp quốc thừa nhận chủ quyền của Nhà nước
Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có giá trị tuyệt đối phù hợp
với luật pháp quốc tế, buộc các quốc gia khác phải thừa nhận, kể cả đối với những
quốc gia và vùng lãnh thổ không tham dự Hội nghị như Trung Quốc và vùng lãnh thổ
Đài Loan.
Việc
hòa ước San Francisco tách riêng Đài Loan, Bành Hồ và hai quần đảo Hoàng Sa,
Trường Sa thành hai khoản riêng biệt (b, f) tự nó đã bao hàm ý nghĩa không công
nhận chủ quyền của hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Trung Quốc. Tại
khoản f quy định: Nhật Bản từ bỏ tất cả các quyền, tước hiệu và đòi hỏi đối với
quần đảo Spratlys and Paracels.[4]
Như
vậy, việc phái đoàn Quốc gia Việt Nam tham gia Hội nghị San Francisco tháng 9
-1951 và ra tuyên bố chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là sự
kiện có ý nghĩa quan trọng, nhằm chứng minh về sự xác lập chủ quyền đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Nhà nước Việt Nam. Đây được xem là cơ sở
pháp lý quan trọng để Việt Nam tiếp tục khẳng định chủ quyền ở hai quần đảo này
ra các hội nghị quốc tế và khu vực, tại các diễn đàn quốc tế và khu vực, cũng
có thể đưa vào hồ sơ pháp lý để đấu tranh với các bên có yêu sách chủ quyền tại
tòa án quốc tế.
Kết
luận
Nghiên
cứu những tư liệu và chứng cứ nêu trên cho thấy, rõ ràng là những văn kiện pháp
lý quốc tế từ Tuyên bố Cairo ngày 27-11-1943 và Tuyên ngôn Hội nghị Potsdam
ngày 26-7-1945 khẳng định lại nội dung Tuyên bố Cairo cho đến Hòa ước San
Francisco ký ngày 8-9-1951 đã không xác nhận chủ quyền của bất kỳ quốc gia nào
khác đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Nhà nước Việt
Nam. Đồng thời việc không một quốc gia nào tại Hội nghị San Francisco được tổ
chức vào năm 1951 phản đối hoặc bảo lưu về tuyên bố của Trưởng Đoàn đại biểu
Nhà nước Việt Nam lúc đó về khẳng định chủ quyền của Nhà nước Việt Nam đối với
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, điều này chứng tỏ cộng đồng quốc tế đã mặc
nhiên công nhận chủ quyền của Nhà nước Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa.
Như
vậy, các vùng lãnh thổ mà Tuyên bố Cairo xác nhận và Hòa ước San Francisco khẳng
định lại là của Trung Quốc chỉ bao gồm Đài Loan và Bành Hồ. Xuyên suốt các hội
nghị quốc tế, từ Tuyên bố Cairo cho đến Hội nghị San Francisco đều đã thừa nhận
chủ quyền của Nhà nước Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sự
thừa nhận chủ quyền thuộc về Nhà nước Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa từ 51 nước thành viên của tổ chức Liên hợp quốc là cơ sở pháp lý quốc
tế quan trọng và sinh động, nhằm khẳng định chủ quyền không thể tranh cãi của
Nhà nước Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Việt
Nam cũng là quốc gia duy nhất trong khu vực và trên thế giới có cơ sở pháp lý
quốc tế từ các hội nghị quốc tế để tiếp tục đấu tranh khẳng định chủ quyền đối
với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, tiến tới buộc các bên hữu quan có yêu
sách chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phải tiến hành trao
trả lại cho Nhà nước Việt Nam đúng theo quy định của luật pháp quốc tế.
*
TS.
Nguyễn Thanh Minh công tác tại Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển, Bộ Quốc phòng.
Bài
viết này đã được đăng lần đầu trên Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc (ISSN-0868
3670), số 6 năm 2014.
—————-
[2] Đề nghị của
Andrei Gromyko như sau: “Nhật Bản công nhận chủ quyền đầy đủ của Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa trên Mãn Châu Lý, đảo Đài Loan cùng tất cả các đảo phụ cận
của nó như Bành Hồ, Đông Sa quần đảo cũng như các đảo thuộc Tây Sa quần đảo và
Trung Sa quần đảo (quần đảo Paracels, nhóm đảo Vĩnh An) và Nam Sa quần đảo kể cả
các đảo Spratleys, và từ bỏ tất cả các quyền, danh nghĩa và yêu sách đối với
các lãnh thổ có tên nêu trên”. Conference for the Conclussion and Signature of
the Peace Treaty with Japan, Record of Proceedings (Hội nghị tổng kết
và ký kết Hòa ước với Nhật Bản) Washington D.C, Department of State, 1951,
p.119.
[3] Hội nghị ký kết
Hòa ước với Nhật Bản trang 314. Văn kiện của Bộ Ngoại giao Mỹ, tháng 12 năm
1951 – Washington.
[4] Hội nghị ký kết
Hòa ước với Nhật Bản trang 314. Văn kiện của Bộ Ngoại giao Mỹ, tháng 12 năm
1951 – Washington.
No comments:
Post a Comment