18/02/2017
Trung Quốc là quốc gia nhiều
tham vọng; trong đó, tham vọng về mở rộng ảnh hưởng, mở rộng địa bàn hoạt động,
mở rộng cương vực sinh tồn, lãnh thổ, đất đai là một trong những trục có tính
xuyên suốt, nhất quán từ lịch sử tới hiện tại. Áp lực dân số và “ước mơ Trung
Hoa” – “ước mơ” trỗi dậy một cách nhanh chóng, trở thành siêu cường có khả năng
chi phối thế giới càng củng cố, thúc đẩy Trung Quốc thực hiện chiến lược “lấn dần”,
“chèn ép”, tranh đoạt đất đai, sông biển của láng giềng, nhất là của các nước
láng giềng nhỏ và yếu hơn.
1. Ngược dòng sự kiện
Là quốc gia thích “gây hấn”,
thường xuyên “gây hấn” để đạt mục tiêu và mang lại lợi ích một cách tối đa nhất;
đồng thời, cũng là quốc gia từng lâu đời cọ sát, đang tham gia giải quyết nhiều
vấn đề trên chính trường quốc tế, Trung Quốc có kinh nghiệm lão luyện chuẩn bị,
chọn và thúc đẩy thời điểm quyết định hành động. Có nhiều cách thức trong lựa
chọn thời điểm bắt đầu của Trung Quốc, song cách phổ biến, cổ truyền và cũng hữu
hiệu nhất vẫn là lựa khi quốc gia - đối tượng trong tình thế
có những bất ổn nội bộ, gặp rắc rối hoặc có vị thế yếu trên trường quốc tế. Đó
là lúc “trong không ấm, ngoài không êm” và nếu quốc gia bị Trung Quốc “nhòm
ngó” có những quyết định đương đầu mạnh mẽ, dứt khoát, thì tác dụng, hiệu quả
cũng bị hạn chế đáng kể - trong điều kiện đó, Trung Quốc đã kịp thời và nhanh
chóng chớp lấy thời cơ thực hiện mục tiêu định sẵn.
Xâm lấn, đánh chiếm lãnh thổ
các nước láng giềng, Trung Quốc không chỉ tính toán thời điểm hành động, mà còn
tính toán kỹ càng mục tiêu hành động. Trung Quốc luôn hướng tới những mục tiêu
kép, có nghĩa là bỏ “vốn” ít, song làm sao “lãi” lớn nhất – một hành động, nhiều
mục đích, nhiều thông điệp.
Minh chứng cho nhận định trên,
có thể dẫn dụ những vụ việc điển hình trong lịch sử Trung Quốc xâm lấn lãnh thổ,
lãnh hải Việt Nam.
Trước tiên là sự kiện Trung Quốc
đánh chiếm Hoàng Sa vào tháng 1-1974. Bối cảnh lúc đó nhìn tổng thể như sau: Từ
tháng 2-1972, quan hệ Trung – Mỹ được cải thiện một bước đáng kể sau chuyến
thăm Trung Quốc của Tổng thống Mỹ R. Nicxon – một chuyến thăm như R.Nicxon hoan
hỉ nhận xét: "Đây là một tuần lễ làm thay đổi thế giới"[1];
"hai nước chúng ta đã nắm tương lai của thế giới trong lòng bàn tay"[2].
Tháng 1-1973, Hiệp định Paris lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết, Mỹ rút
quân khỏi Việt Nam, theo đó, Hạm đội 7 rút khỏi khu vực quần đảo Hoàng Sa. Sau
khi Mỹ rút, Việt Nam Cộng hòa gặp phải những khó khăn về kinh tế, quân sự và
lúng túng trước những lục đục nội bộ, trước các phong trào phản chiến, trước
các phong trào đấu tranh chính trị; đồng thời, phải căng mình chống đỡ các cuộc
tiến công của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Về phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hiệp
định Paris mở ra cơ hội thống nhất đất nước, miền Bắc Việt Nam dốc toàn lực chuẩn
bị cho cuộc Tổng tiến công “một ngày bằng 20 năm”. Cũng từ năm 1973,
Philippines tăng cường sự hiện diện ở khu vực Trường Sa, chính quyền Sài Gòn có
những động thái tích cực trong xác định chủ quyền và khai thác tài nguyên, nếu
không hành động, sau này việc chiếm đóng Hoàng Sa sẽ khó khăn thêm. Phân tích
tình hình, Trung Quốc nhận thấy đây là cơ hội tốt để thực hiện quyết tâm độc
chiếm quần đảo này. Đúng như Trung Quốc định liệu, khi hải chiến Hoàng Sa xảy
ra, vì đang cần tranh thủ sự ủng hộ của Trung Quốc đối với công cuộc giải phóng
miền Nam; đồng thời, bị trói buộc bởi “vòng kim cô” ý thức hệ, Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa không lên tiếng (chỉ có Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền
Nam Việt Nam ra tuyên bố). Vừa cải thiện quan hệ với Trung Quốc, không mấy thiết
tha với chính quyền Sài Gòn, hy vọng “sự kiện Hoàng Sa” trở thành “khúc xương”
trong quan hệ giữa hai quốc gia cộng sản, Mỹ đã im lặng. Cuối cùng, chỉ còn Việt
Nam Cộng hòa lên tiếng phản đối và đề nghị các quốcgia đồng minh đưa vấn đề
Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa ra Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, song kết quả
nhận được là hạn chế. Tiến hành cuộc đột kích đẫm máu, Trung Quốc không chỉ chiếm
trọn quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, mà còn mở rộng cương vực hoạt động, khẳng
định với các nước Đông Nam Á chiến lược hướng ra biển Đông với mục tiêu bất biến
là trở thành một đế chế biển rộng lớn.
Năm 1979, sau một thời
gian dài chuẩn bị, Trung Quốc đưa 60 vạn quân cùng với gần 800 xe bọc thép, xe
tăng, trọng pháo và máy bay các loại đồng loạt tấn công 6 tỉnh biên giới
phía Bắc Việt Nam. Vào thời điểm đó, tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam đang gặp
những khó khăn to lớn: Năm 1979, tổng sản phẩm xã hội, thu nhập quốc dân đều giảm[3]; thiếu
lương thực gay gắt[4];
lạm phát diễn ra nghiêm trọng; thu chi ngân sách phải dựa vào vay và viện trợ
nước ngoài, lòng tin của nhân dân đối với chế độ giảm sút, tâm trạng xã hội
căng thẳng, nao núng. Cùng lúc, Việt Nam bị “sa lầy” tại Campuchia, vừa phải đối
đầu với tàn quân Polpot, vừa gánh đỡ đất nước Campuchia sau thảm họa diệt chủng.
“Vấn đề Campuchia” khiến Việt Nam cô đơn, lẻ loi hơn bao giờ hết trong quan hệ
đối ngoại. Các nước lên án Việt Nam “xâm lược”, rút quan hệ, bao vây, cấm vận;
thậm chínhững quốc gia trước đây là đồng minh, bạn bè cũng nhìn Việt Nam với
con mắt nghi ngại, lạnh nhạt. Trong tình hình bất lợi đối với Việt Nam, Trung
Quốc tiến hành chiến tranh xâm lược mà không cần nguyên do/nguyên cớ (trong khi
năm 1964, Mỹ phải viện sự kiện Vịnh Bắc Bộ mới có thể đưa quân vào Việt Nam),
tuyên bố “dạy cho Việt Nam một bài học”, viết nên “quyền” hành xử bất chấp luật
lệ. Sau khi rút quân (5-3-1979), tuyên bố không tham vọng dù "chỉ một tấc
đất của Việt Nam”, song trên thực tế, Trung Quốc đã chiếm giữ một số điểm cao
có ưu thế quân sự, lấn sâu vào lãnh thổ Việt Nam. Tấn công Việt
Nam, Trung Quốc không chỉ muốn đất đai và răn đe, làm suy yếu Việt Nam, mà còn
nhằm nâng cao uy tín nước lớn, tuyên bốvới các quốc gia láng giềng, nhất là ở
khu vực Đông Nam Á về khả năng, quyết tâm ngăn chặn ảnh hưởng, tham vọng của Việt
Nam và Liên Xô. Trung Quốc còn sử dụng cuộc chiến tranh chống Việt Nam để giải
quyết một số vấn đề nội bộ, phục vụ cho việc Đặng Tiểu Bình củng cố quyền lực
sau khi trở lại “võ đài” chính trị chưa bao lâu.
Tháng 3-1988, Trung
Quốc có hành động quyết liệt hơn, gây ra cuộc hải chiến đẫm máu gần cụm đảo
Sinh Tồn (quần đảo Trường Sa) –“cuộc đụng độ hải quân trầm trọng nhất ở khu vực
Trường Sa kể từ khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai”[5], khiến 3 tàu vận tải của Việt
Nam bị bắn chìm, 20 người hy sinh và 74 người bị mất tích. Đây là thời điểm được
Trung Quốc tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng, vì Việt Nam vẫn chưa giải quyết dứt điểm
“vấn đề Campuchia”, chưa thoát khỏi bao vây, cô lập, chưa gia nhập ASEAN, trong
khi đang phải bận tâm với những khó khăn kinh tế - xã hội. Ngoài ra, Việt Nam vừa
tiến hành đổi mới (1986), các nhà đầu tư nước ngoài có mặt ở Việt Nam còn ít ỏi;
do vậy, khi xảy ra “tình huống có vấn đề”, sẽ không đánh động đến nhiều quốc
gia. Cuối thập niên 80 (XX), nội bộ Trung Quốc diễn ra tranh chấp quyền lực giữa
các phe phái, trong đó phái quân sự và chủ trương làm mạnh ở biển Đông đang thắng
thế; do vậy, ngoài mục tiêu đặt chân lên quần đảo Trường Sa - điều mà Trung Quốc
mơ đã từ lâu, đẩy mạnh hoạt động xâm lấn trên biển Đông, Trung Quốc còn muốn giải
quyết những mâu thuẫn quyền lực trong nước; đồng thời, tuyên cáo “quyền sở hữu”
đối với quần đảo, chứng minh “thực lực” bảo vệ chủ quyền trên biển, mở rộng khu
vực hoạt động của tàu thuyền Hải quân Trung Quốc phủ khắp các đảo đá ngầm Việt
Nam. Trung Quốc còn đặt mục tiêu "cố tình khiêu khích Việt Nam vào một cuộc
chiến để xua đuổi các nhà đầu tư khỏi Việt Nam và ngăn cản mức tăng trưởng kinh
tế cạnh tranh của Việt Nam"[6]. Lưu ý thêm rằng, năm 1987 –
một năm trước khi Trung Quốc gây ra hải chiến Hoàng Sa, Việt Nam thông qua Luật
đầu tư nước ngoài –bộ luật được các nhà đầu tư trên thế giới đón nhận
và đánh giá là thông thoáng, có sức hấp dẫn. Qua một thời gian thực hiện, đã
thu hút được tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào một số ngành và vùng kinh tế,
đạt được những kết quả bước đầu đáng khích lệ- điều đó cũng đồng thời báo trước
khả năng chuyển dòng của dòng vốn đầu tư vào Trung Quốc chảy đến một đất nước
Việt Nam đang đổi mới và cởi mở hơn.
2- Câu chuyện giàn khoan Hải Dương
981
Ngày 2-5-2004, Trung Quốc ngang
nhiên đưa giàn khoan Hải Dương 981 (HD- 981) vào hoạt động trong vùng đặc
quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, cách bờ biển Việt Nam khoảng 120 hải
lý, cách đảo Lý Sơn 119 hải lý (221km) và cách phía nam đảo Tri Tôn thuộc quần
đảo Hoàng Sa của Việt Nam khoảng 18 hải lý. Trung Quốc liều lĩnh tiến
thêm một bước trong việc hiện thực hóa đường lưỡi bò cũng như chiến lược khai
thác dầu khí, ngày càng coi thường dư luận và luật pháp quốc tế, phô trương sức
mạnh trên biển Đông. Hành động ngang ngược này của Trung Quốc diễn ra không lâu
sau chuyến công du đến châu Á của Tổng thống Mỹ Barack Obama – chuyến thăm có mục
đích tái khẳng định chính sách xoay trục an ninh và nhấn mạnh bảo đảm cam kết với
các đồng minh trước sự hung hăng, lấn lướt của Trung Quốc tại khu vực này; tuy
nhiên, trong chuyến thăm của Tổng thống Mỹ, Việt Nam không phải là điểm đến. Do
vậy, Trung Quốc tính rằng khi Trung Quốc hành động, Mỹ sẽ không có phản ứng quyết
liệt.
Xung quanh việc đối đầu Nga – Mỹở
Ukraine, Nga ra sức tranh thủ sự ủng hộ của Trung Quốc. Kết quả là suốt tiến
trình sự kiện, Bắc Kinh có thái độ khá trung dung và đã “tặng” V.Putin một tấm
phiếu trắng trong cuộc họp của Đại hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc thông qua Nghị
quyết về Crimea (15-3-2014). Trong điều kiện Mỹ và các nước phương Tây
gia tăng lệnh cấm vận trừng phạt đối với Nga, hợp tác với Trung Quốc sẽ là một
cứu cánh quan trọng, còn Trung Quốc cũng từ đó mà thu hái nhiều quyền lợi. “Mắc
nợ”, đang đặt nhiều hy vọng và rất có thể sẽ xích lại gần Trung Quốc hơn nữa,
liên kết kiềm chế Mỹ, chắc chắn, khi Trung Quốc “hành sự” ở biển Đông, nước Nga
sẽ không lên tiếng hoặc nếu có lên tiếng thì cũng ở mức độ cầm chừng. Một điều
không kém quan trọng là cách thức, mức độ phản ứng của Mỹ trước "cú đòn phủ
đầu hung hăng" của V. Putin ở Crimea càng củng cố ảo vọng của Trung Quốc tại
biển Đông với tính toán tái lập một kịch bản tương tự.
Quan hệ của Việt Nam với các nước
ASEAN – theo như các tuyên bố, thì khá chặt chẽ; tuy nhiên, thực tế đã chứng
minh ngược lại. Những lần Trung Quốc chèn ép Việt Nam trên biển Đông, thái độ của
các nước ASEAN là thờ ơ và thiếu tương trợ. Các nước ASEAN đã không lên tiếng
phản đối trước những sự kiện Trung Quốc giam cầm ngư dân Việt Nam đánh cá tại
khu vực Hoàng Sa, gây áp lực lên tập đoàn dầu khí Ấn Độ ONGC Videsh để họ rút
khỏi Lô 127 và 128, phá hoại thiết bị địa chấn các tàu khảo sát Việt
Nam....Do có những lợi ích khác nhau đối với Trung Quốc và biển Đông, nên quan
điểm, lập trường các nước ASEAN đối với tranh chấp tại khu vực này là không thống
nhất, có phần chia rẽ[7]. Liên kết lỏng lẻo giữa các
nước Đông Nam Á khiến Trung Quốc yên tâm và bình thản với “thẻ bài” HD- 981, biết
trước rằng sẽ không có những hành động thực tế mạnh mẽ từ ASEAN.
Trung Quốc trái phép đưa giàn
khoan HD -981 vào thềm lục địa Việt Nam đúng lúc Nhà nước Việt Nam đang rầm
rộ kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ - chiến thắng có phần đóng góp của Trung
Quốc. Trong dịp này, các đoàn viếng thăm Trung - Việt qua lại thường xuyên hơn,
trên các báo chí và các diễn đàn chính thống Việt Nam đăng tải không ít những
bài báo, bài phát biểu ca ngợi Trung Quốc, ca ngợi “tình hữu nghị Việt –
Trung”. Những chi tiết tưởng chừng như nhỏ nhặt, song trong các giới hạn nhất định,
lại có tác dụng hạn chế phản ứng của Việt Nam. Sau những cái bắt tay hữu hảo,
sau những lời ca tụng, xướng vinh nồng thắm, Việt Nam có thể sẽ khó mở lời hơn
khi phản đối, chần chừ khi phản kháng.
Ở thời điểm hiện tại, Việt Nam
đang phải đối mặt với nhiều vấn đề nội tại do tình hình kinh tế - xã hội sa
sút, khủng hoảng, các cuộc khiếu kiện của người dân mất đất nổ ra ở nhiều nơi,
tệ nạn tham nhũng trầm trọng, một bộ phận nhân dân thờ ơ với Nhà nước… Sự thiếu
quyết đoán, nhân nhượng của chính quyền trước các tham vọng lãnh thổ, lãnh hải
Việt Nam của Trung Quốc trong nhiều năm qua vô hình trung trở thành yếu tố củng
cố thêm quyết tâm hành động của Trung Quốc.
Tháng 11-2013, Đảng cộng sản
Trung Quốc tổ chức Hội nghị Trung ương lần thứ 3 (khóa XVIII), nỗ lực cải cách
theo chiều sâu, nhằm đưa Trung Quốc bước vào một khởi đầu mới trong quá trình phát
triển – quá trình hoàn thiện và phát triển chủ
nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc, thực hiện “giấc mơ Trung Hoa”[8] phục
hưng dân tộc. Về xã hội, để trấn an dư luận, Đảng cộng sản Trung Quốc
nới lỏng chính sách một con, giảm án tử hình, xóa bỏ chế độ “lao cải”[9], tăng
cường giám sát và kỷ luật đối với bộ máy chính trị, năng cao năng lực bộ máy
hành chính công, nghiêm trị tham nhũng… Tuy nhiên, trong lĩnh vực chính
trị, vẫn chưa nhìn thấy những thay đổi mong đợi, nhằm hiện
đại hóa đời sống chính trị một cách mạnh mẽ; do vậy, Trung Quốc vẫn
đang phải đối diện với một cuộc “khủng hoảng tín nhiệm xã hội”[10].Theo
thống kê của các nhà xã hội học Trung Quốc, mỗi ngày tại đất nước này “diễn ra
khoảng 500 các vụ bạo loạn, phản kháng tập thể và đình công, tăng gấp bốn
lần so với một thập kỷ trước”[11]. Dù chính quyền đã buộc
phải nhượng bộ một số cuộc biểu tình - tranh chấp đất đai ở làng Ô Khảm (Quảng
Đông), những cuộc đấu tranh liên quan đến môi trường ở Đại Liên (Liêu
Ninh), Thập Phương (Tứ Xuyên) và Khải Đông (Giang Tô)…,
song tình hình vẫn tiếp tục nóng lên từng ngày. Sự kiện Tân Cương, Tây Tạng, những
vụ nổ bom, cuộc đấu đá phe cánh, nội bộ gay gắt từng ngày dù “con hổ Chu Vĩnh
Khang”[12]đang
đứng trước đoạn đầu đài, “vết thương” Thiên An Môn 25 năm chưa trám miệng… phản
ánh mâu thuẫn, bất ổn và bất lực của hệ thống chính trị. Khi bạo lực của chính
quyền không thể chống đỡ được khủng hoảng, “những người lãnh đạo thế hệ thứ năm
của Trung Quốc bắt đầu lo lắng cho tương lai của Đảng cộng sản”[13]. Để
giải quyết những lo lắng đó, trong điều kiện thay đổi cán cân quyền lực giữa Đảng
cộng sản và xã hội Trung Quốc diễn ra “theo chiều hướng Đảng mất dần sự tín nhiệm
và quyền kiểm soát, còn xã hội thì đang tích thêm sinh lực và sự tự tin”[14],
lãnh đạo Trung Quốc hướng sự chú ý trong nước ra bên ngoài, đánh lạc hướng dư
luận, tìm đến “giải pháp biển Đông”, nhằm tạo ra một đợt thủy triều dâng cao của
chủ nghĩa dân tộc được sử dụng như một chất kết dính xã hội.Không phải ngẫu
nhiên mà thời gian gần đây, trên các báo, tạp chí Trung Quốc như Nghiên cứu
Đông Nam Á, Nghiên cứu châu Á - Thái Bình Dương, tạp chí Quốc phòng, báo Giải
phóng quân, Nhân dân Nhật báo… đăng tải số lượng lớn các bài viết về chủ
đề biển Đông. Các tít cổ xúy tinh thần dân tộc và kích động cực đoan được giật
theo cách châm ngòi lửa: "Các quốc gia xung quanh khai thác
các nguồn dầu lửa ở Nam Sa của chúng ta như thế nào?"; “Kẻ nào đang
xâm lược các vùng biển của chúng ta?”; “Trung Quốc không cho phép chà đạp
lên chủ quyền lãnh thổ của mình!”; “Trung Quốc không thể để mất một tấc
đất thiêng”.... Nhiều bài báo chĩa mũi nhọn vào Việt Nam, mô tả Việt Nam
như một đối thủ hiếu chiến “đang thèm khát lãnh hải”, “cố gắng cướp đoạt toàn bộ
tài nguyên của Trung Quốc bằng sức mạnh” (?!).Mới đây, truyền hình Nhà nước
Trung Quốc đã phát sóng một bộ phim tài liệu dài tám tập ca ngợi
lực lượng tuần duyên và ngư chính trong việc bảo vệ “chủ quyền và
tài nguyên của Trung Quốc” trên biển Đông. Cảnh tàu Việt Nam “ngăn cản”
tàu thăm dò của Trung Quốc một cách “điên cuồng” đã gây một ấn tượng mạnh.
Bộ phim cũng tung hô lòng dũng cảm của Hải quân Trung Quốc khi mô tả “sự đối đầu
không nao núng” và cuộc chiến đấu oanh liệt với đội tàu có vũ trang lớn
hơn gấp nhiều lần của Việt Nam. Bằng cớ mới nhất là ngày 6-7-2014, khi sự
kiện giàn khoan HD -981 đang ở vào điểm nóng rẫy, truyền hình Trung ương
Trung Quốc đã bước tới đỉnh cao của sự man trá bằng một màn diễn gay cấn và lâm
ly: Việt Nam câu kết với Mỹ, ASEAN, hung hăng gây hấn, tấn công tàu Trung Quốc,
chiếm biển, trong khi Trung Quốc “nỗ lực” kêu gọi đàm phán song không được đáp
từ (?!). Báo chí Trung Quốc tiếp tục đẩy chiến dịch “hâm nóng” tinh thần Đại
Hán tiến thêm một bước dài bằng những tin, bài, phóng sự lật ngược sự kiện và
khét lẹt mùi khói súng[15]. Màn “ảo thuật” truyền
thông quả thực đã phát huy tác dụng – một bộ phận người dân Trung Quốc (nhất là
khu vực dân trí thấp) đã tin vào những gì mà Nhà nước toàn trị bày ra trước mắt
họ, nhồi nhét vào đầu óc họ. Bằng cách đó,Trung Quốc xoay chủ nghĩa dân tộc về
phía biển Đông như là một phương thức để tái khẳng định vị thế, làm dịu dòng
nham thạch phun trào từ “núi lửa phản kháng và hàn gắn rạn nứt xã hội. Rất có
thể, giàn khoan HD- 981 là khởi đầu của cao trào đó.
Ngoài việc chọn thời điểm để đạt
mục tiêu một cách an toàn và thuận lợi nhất, đưa giàn khoan HD -981 vào
vùng biển Việt Nam, Trung Quốc còn muốn một chuyển tải một vài thông điệp quốc
tế quan trọng.
Sau khi Tổng thống Barack Obama
đặt chân đến Manila, ngày 28-4-2014, Mỹ và Philippines đã ký kết một Thỏa
thuận quân sự (trong 10 năm) cho phép Mỹ tiếp cận với các
căn cứ của Philippines, thúc đẩy an ninh khu vực. Điểm đặc biệt là sau khi ký kết,Thỏa
thuận sẽ được Chính phủ Philippines ban hành với tư cách là một văn kiện
hành pháp, cho phép có hiệu lực ngay, mà không cần phải thông qua thủ tục phê
chuẩn tại Quốc hội. Trong bối cảnh tranh chấp lãnh hải ở biển Đông đang hết sức
căng thẳng, Thỏa thuận này là bước quan trọng trong chiến lược
“xoay trục” qua châu Á của Washington, biến Philippines trở thành một trụ
cột quan trọng tại Đông Nam Á, tạo điều kiện cho Mỹ tăng cường sự hiện diện và
tham gia vào các vấn đề của an ninh khu vực. Điều đó cũng nói lên rằng, trong
các tranh chấp, đụng độ ở biển Đông, Trung Quốc sẽ không chỉ phải đối mặt với
khả năng bị cô lập lớn hơn, mà còn phải tính toán đến những phản ứng quyết liệt
của các quốc gia tranh chấp khi có Mỹ đứng đằng sau lưng. Do vậy, “sự kiện giàn
khoan HD -981” còn mang đậm động cơ chính trị, một mặt, nhắn nhủ,
đe dọa các nước có tranh chấp, vướng mắc với Trung Quốc ở biển Đông (đặc biệt
là Philippinesvà Việt Nam) không ngả sang và thắt chặt quan hệ với Mỹ; mặt
khác, thử phản ứng của Barack Obama, thách thức chiến lược xoay trục của
Washington. Cần nói thêm rằng, sau cuộc lỗi hẹn tháng 10-2013, ngày 23-4-2014,
Tổng thống Barack Obama đến châu Á và liên minh Mỹ - Nhật tiếp tục được củng
cố bằng những cam kết ủng hộ đất nước "Mặt trời mọc" trong tranh
chấp quần đảo Senkaku/Điếu Ngư với Trung Quốc trên biển Hoa Đông. Dựa vào những
cam kết đó, Nhật Bản hoàn toàn có thể định ra và thực hiện những đối sách cứng
rắn chống lại các sức ép từ Trung Quốc đối với vấn đề Senkaku/Điếu Ngư
trong khi đẩy mạnh hợp tác với Ấn Độ, nhằm “bảo vệ các vùng chung toàn cầu”, hạn
chế “chiến lược cơ bắp” và ngăn chặn, phá vỡ “chuỗi ngọc trai”[16] của
Bắc Kinh. Từ trong lịch sử cho đến hiện tại, Nhật Bản luôn là “cái gai” trong mắt
Trung Quốc, là nỗi hổ thẹn muốn quên xen lẫn uất hận canh cánh bên lòng Trung
Hoa Thiên triều[17].
Với sức mạnh kinh tế, quân sự và quan hệ đồng minh với Mỹ, Nhật Bản không chỉ cạnh
tranh trực diện với Trung Quốc, mà bắt đầu có chính sách kiềm chế, hạ thấp ảnh
hưởng của Trung Quốc từ xa - trong khu vực Đông Nam Á và ở châu Phi[18]. Với
ngần đó “oán thù” Trung – Nhật, “nắn gân”, thách thức “kẻ đứng sau” đất nước
hoa Anh đào là điều cần thiết lúc này. Ngoài ra, Trung Quốc đủ thông minh để nhận
thấy là theo lý thuyết “trung tâm – ngoại vi”, chiến lược trọng tâm của Mỹ là ở
châu Âu – nơi được mệnh danh là “trái táo bất hòa” giữa hai cường quốc Nga - Mỹ
trước đây và cả hiện tại. Đặc biệt, “thùng thuốc súng” Ukraine” và nguy cơ “lật
cánh” trật tự địa – chính trị châu Âu càng khiến Mỹ khó lòng buông lỏng khu vực
này; và như thế, chiến lược “xoay trục” có thể chỉ là một kết nối mang tính biểu
tượng hơn là hiện thực – đó chính là điều mà Trung Quốc mong và chờ đợi.
Quan hệ Trung Quốc - Ấn Độ vốn
là mối quan hệ rắc rối, phức tạp, “rất mong manh, rất dễ tổn thương và rất
khó hàn gắn”, phủ bóng bởi cuộc chiến tranh biên giới năm 1962 và tà
áo choàng Đức Đạt lai Lạt ma Tây Tạng. Những thập kỷ gần đây, Trung - Ấn có một
số va chạm trên biển và Ấn Độ có thái độ cũng như phản ứng khá kiên quyết trước
những lấn lướt của Trung Quốc. Ấn Độ đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia trong
khu vực có biên giới biển, với một số đối thủ của Trung Quốc (đặc biệt là một số
quốc gia Đông Nam Á và Nhật Bản), gia tăng sức mạnh, kiềm chế Bắc Kinh. Việc
công ty dầu khí Ấn Độ OLV ký kết với Việt Nam dự án thăm dò dầu khí ở hai lô
127 và 128- nơi mà Trung Quốc cho rằng “nằm bên trong hải giới truyền
thống” của mình, khiến Trung Quốc không chỉ thấy bất an, mà còn coi đó như một
sự thách thức. Khai thác hai lô 127, 128 là cách thức Ấn Độ can dự gián tiếp
vào cuộc tranh cãi trên biển Đông và ngầm phản đối thái độ bá quyền của Trung
Quốc. Nếu Ấn Độ khai thác dầu khí thành công có nghĩa là Việt Nam không chỉ có
thêm đồng minh trong xung đột, đối đầu trên biển Đông, mà còn ấn định chủ quyền
tại vùng tranh chấp, khi việc khai thác tài nguyên diễn ra êm thấm là một hình
thức xác định cũng như khẳng định chủ quyền trên vùng biển đó. “Con bài” giàn
khoan HD- 981 của Trung Quốc chính là một động thái gây áp lực và răn đe Ấn Độ.
Nếu Việt Nam thất bại trong việc “đuổi” giàn khoan HD- 981, chắc chắc Trung Quốc
sẽ bước tiếp, sẽ có những hành động hung hăng hơn, những yêu sách quyết liệt
hơn, để các quốc gia đối tác của Việt Nam, nhất là Ấn Độ, phải rút khỏi biển
Đông, nhường không gian tài nguyên mầu mỡ này cho Trung Quốc độc chiếm. Lúc đó,
Việt Nam đã khó lại còn khó khăn hơn, trở nên yếu thế và đơn thương độc mã trước
những đòi hỏi chủ quyền phi lý của một Trung Quốc ngược ngạo vùng vẫy trong
“cơn khát” tài nguyên.
3- Thấy gì từ lịch sử và hiện tại?
Qua khảo cứu, phân tích những vụ
việc điển hình xảy ra trong quá trình Trung Quốc thực hiện chiến lược xâm chiếm
lãnh thổ, lãnh hải của Việt Nam, có thể thấy ngay rằng, đó là chiến lược nhất
quán, ăn sâu vào máu thịt, vào não trạng của những thế hệ lãnh đạo Trung Quốc.
Nó giống như một căn bệnh mãn tính, không thể chữa trị mang tên “bành trướng”,
“bá quyền” âm ỉ trong cơ thể Trung Quốc. Chiến lược ấy của Trung Quốc được tính
toán cẩn trọng, kỹ lưỡng, nhằm nuốt dần đất đai, sông biển Việt Nam. Chiến lược
ấy cũng còn nhằm bào mòn sức mạnh nội ngoại lực, hút dần dinh dưỡng, làm cho Việt
Nam rối loạn, yếu dần và chia rẽ. Một dân tộc chia rẽ là một dân tộc yếu – đó
là nguyên lý. Từ yếu đến đớn hèn chỉ còn một bước ngắn. Khi đã đớn hèn khó
tránh khỏi hòa tan.
Có lịch sử lâu đời 5.000 năm, tự
hào là trung tâm văn minh Đông Á không ai sánh kịp, song điều đáng sợ là ở chỗ,
những nhà lãnh đạo Trung Quốc lại đem niềm kiêu hãnh ấy nuôi giấc mộng khôi phục
“địa vị ưu việt” bằng những phương thức cực đoan, quá khích, nhằm xóa đi cái
quá khứ một “thế kỷ nhục nhã” bạc nhược, tổn thương, u tối và mất tự chủ.
Lịch sử đã vô tình, trớ trêu,
thậm chí khắc nghiệt đặt dải đất hình chữ S bên cạnh một người láng giềng
phương Bắc to lớn, rắc rối và tham vọng. Láng giềng không thể chọn lựa, Trung
Quốc luôn tồn tại ở đó, bất trắc, khó lường, nguy hiểm. “Sự kiện giàn khoan HD-
981” là câu trả lời đầy đủ nhất, trung thực nhất, rõ ràng nhất về “phương châm
16 chữ vàng”, “tinh thần bốn tốt” và áp lực “Hán hóa” – một câu chuyện có thật,
thường trực và chưa có hồi kết thúc.
Hiện diện ở biển Đông bằng vũ lực,
trong “cơn mê sảng” quyền lực, trong “cơn thèm khát” lãnh hải, Trung Quốc đang
bước tới sai lầmkhó gỡ, đang hủy hoại lòng tin, uy tín quốc tế và sự tôn trọng
của các quốc gia xung quanh. Hành xử hung hăng theo kiểu côn đồ trên biển Đông,
Trung Quốc không những khiến các đối thủ của mình sợ hãi, trái lại, hiện ra như
một quốc gia đầy hiểm họa, ưa thích ức hiếp,tôn sùng các nguyên tắc ứng xử thời
trung cổ, viết nên luật lệ của riêng mình trong một thế giới khi mọi quốc gia đang
nỗ lực đi về phía văn minh.
Trung Quốc đang chơi một trò
chơi nguy hiểm, đang biến “giấc mơ Trung Hoa” thành “cơn ác mộng Trung Hoa”. Có
thể, nếu các quốc gia liên quan không có những hành động quyết liệt, không gom
tụ lại, Trung Quốc sẽ thắng thế. Nhưng dù có thắng thế, dù có trỗi dậy, dù “giấc
mơ Trung Hoa” có sớm thành hiện thực, song trong mắt nhân loại, trong mắt những
quốc gia tử tế, trong thứ bậc thế giới, Trung Quốc mãi mãi chỉ là quốc gia dưới
ngưỡng văn minh
[1]Marvin Kalb- Barnard Karbl: Đột phá khẩu
Trung Quốc, Hội nghị cấp cao 1972, Tập 2, Viện Thông tin Khoa học Xã hội,
Hà Nội, 1979, tr. 67.
[3]Trong kế
hoạch 1976 - 1980, bình quân một năm tổng sản phẩm xã hội chỉ tăng 1,4 %, thu
nhập quốc dân tăng 0,4 % (kế hoạch là 13-14%). Kết thúc kế hoạch 5 năm (1980),
tất cả 15 chỉ tiêu chủ yếu đều không đạt, thậm chí một số sản phẩm công nghiệp
và nông nghiệp quan trọng bình quân đầu người không giữ được mức của năm 1976.
Hiệu quả của nền kinh tế rất thấp, tốc độ tăng không tương xứng với mức đầu tư
xây dựng cơ bản; giá trị tài sản cố định tăng chỉ bằng 46,8 % tổng mức đầu tư
xây dựng cơ bản; hiệu quả hoạt động của hệ thống cơ sở vật chất thấp, chỉ huy động
được trên dưới 50 % công suất.
[4]Năm 1980,
Nhà nước phải nhập 1,576 triệu tấn lương thực. Ngân sách thiếu hụt lớn, giá cả
tăng hàng năm 20%, nhập khẩu nhiều gấp 4-5 lần xuất khẩu.
[5]Quần đảo Trường Sa: Liệu có còn thích hợp khi tranh cãi về vấn đề chủ quyền, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý quốc tế, Bản dịch,
Lưu tại Thư viện Quân đội, tr.5.
[6]Valencia.M.J,
Vandyke.J.M, Ludwig.N.A: Chia sẻ tài nguyên ở biển Nam Trung Hoa, Bản
dịch, Lưu tại Thư viện Ban Biên giới Chính phủ, tr.70.
[7]Lào, Thái
Lan và Myanmar không có lợi ích trực tiếp ở biển Đông; Campuchia có quan hệ
kinh tế - chính trị gắn bó với Trung Quốc; Malaysia, Brunei tuy có yêu sách,
không bị Trung Quốc đe dọa trực tiếp trên biển, có quan hệ gần gũi với Trung Quốc;
Singapore và Indonesia đứng trung lập.
[8]Ngày
8-4-213, nội hàm “giấc mơ Trung Hoa” được Tập Cận Bình giải thích rõ
trong phát biểu khai mạc Diễn đàn châu Á Bác Ngao (BFA) như
sau: Vào giữa thế kỷ XXI, Trung Quốc sẽ trở thành một quốc gia xã hội chủ nghĩa
hiện đại, thịnh vượng, hùng mạnh, dân chủ, văn hóa tiên tiến, hòa hợp và giấc
mơ Trung Hoa, cụ thể là sự phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa sẽ thành hiện thực.
[9]Hệ thống
trại cải tạo lao động ra đời từ năm 1957 để giam giữ những người phạm các tội
danh không nghiêm trọng như trộm cắp, gây rối trật tự, mại dâm, sử dụng ma túy,
giam giữ những người bất đồng chính kiến. Hệ thống này này tồn tại nhiều điều bất
hợp lý nguy hiểm như chính quyền địa phương và công an có quyền ra lệnh giam giữ
mà không cần ra tòa xét xử. Tuy nhiên, người ta cũng cho rằng,giới lãnh đạo
Trung Quốc vẫn có thể tiếp tục sử dụng hệ thống lao cải với tên gọi khác, hoặc
thậm chí không cần đặt tên cho hệ thống này.
[10]“Khủng hoảng
tín nhiệm xã hội” có nghĩa là “chính quyền của dân” không nhận được sự tín nhiệm
của người dân, trên thực tế người dân không còn coi chính quyền là người đại diện
cho mình. Nói cách khác, đối với một bộ phận quần chúng nhân dân, chính quyền
không còn đồng hành với họ, không thể hiện được ý chí của họ. Một cuộc khủng hoảng
tín nhiệm xã hội sẽ gây ra sự nhiễu loạn về tư tưởng, gây mất niềm tin của dân
chúng vào hệ tư tưởng hiện hành của xã hội.
[12]Ngày
22-1-2013, trong buổi nói chuyện tại Ủy ban kỷ luật Trung ương Đảng, Tập Cận
Bình đã nói đến chuyện “bắt hổ, diệt ruồi” và theo một logic có tính truyền thống,
người ta liên tưởng tới chống tham nhũng tại Trung Quốc chủ yếu là “diệt ruồi”,
còn “đánh hổ” thường mang dáng dấp của cuộc xâu xé quyền lực thượng tầng. Vụ Bạc
Lai Hy và Chu Vĩnh Khang là những điển hình của các cuộc tranh giành quyền lực
cấp cao.
[15]Các báo
đài Trung Quốc đưa tin Việt Nam phái 6 tàu đâm vào tàu Trung Quốc khi giàn
khoan HD-981 neo tại “lãnh hải Trung Quốc”, thông báo rằng, từ ngày 2 đến ngày
8-5-2014, 36 tàu thuyền võ trang Việt Nam đã liên tục tấn công và đâm vào tàu
Trung Quốc 171 lần; ngoài ra, Việt Nam còn thả chướng ngại vật, lưới... nhằm
gây cản trở hành hải.
[16]Thuật ngữ
“chuỗi ngọc trai” là tên một kế hoạch triển khai an ninh hàng hải - quân sự của
Trung Quốc xuất hiện lần đầu tiên trong báo cáo mật mang tên “Tương lai của
năng lượng châu Á” được Mỹ đưa ra vào năm 2005. “Chuỗi ngọc trai” chỉ các
căn cứ quân sự, cảng biển của Trung Quốc nằm rải rác như những hạt ngọc trai,
chạy theo tuyến đường hàng hải trên biển bắt đầu từ đảo Hải Nam qua biển Đông,
qua eo biển Malacca, sang Ấn Độ Dương… đến tận châu Phi (Somali) và vùng vịnh
Persian, đặc biệt là các nước dọc vùng biển Ấn Độ Dương như Pakistan, Sri
Lanka, Sudan…. giúp Trung Quốc bành trướng trên mọi hướng biển.
[17]Trong cuộc
chiến tranh Trung – Nhật lần thức nhất (1894-1895), Nhật đánh bại Trung Hoa. Hiệp
ước Shimonoseki đã buộc Trung Hoa nhường nhiều phần của Mãn Châu và đảo Đài
Loan cho Nhật Bản, Hiệp ước cũng thiết lập quyền tối cao của Nhật Bản tại
Trung Hoa trong 50 năm sau. Trong chiến tranh Trung – Nhật (1937-1945), Trung
Quốc đã không thể thắng Nhật Bản trên lục địa châu Á. Người Nhật đã có mặt tại
Trung Quốc , cướp đoạt và góp phần chia xẻ Trung Quốc thành tô nhượng, nhượng địa.
[18]Nhật tích
cực xuất khẩu, viện trợ và giúp đỡ các quốc gia Đông Nam Á, xây dựng quan hệ
chính trị tốt đẹp với Myanmar (thông qua chiến lược dịch chuyển đầu tư từ Trung
Quốc sang và xóa nợ cho nước này, “đánh tập hậu” sân sau của Trung Quốc), nhằm
bao vây, cô lập Trung Quốc. Nhật viện trợ nhiều tỷ USD cho các nước châu Phi dưới
danh nghĩa “bảo đảm an ninh và chống khủng bố tại các nước châu Phi”, nhưng thực
chất phục vụ mục tiêu xây dựng quan hệ chính trị, đẩy bật Trung Quốc ra khỏi
nơi cung cấp dầu mỏ rất quan trọng cho nền kinh tế phát triển quá nóng của
Trung Quốc.
Nguồn: Theo
Văn Hóa Nghệ An
No comments:
Post a Comment