28/01/201700:55:00
Ăn
Tết xưa nay đã trở thành một ngày hội lớn nhất trong năm của nhân loại. Riêng
dân tộc VN qua bao đời đã có nhiều phong tục cổ truyền rất phong phú như đưa
Táo Quân về trời, dựng nêu đón xuân, cúng giao thừa, mừng Nguyên Đán, tảo mộ,
thăm hỏi, chúc tung .. nhất nhất đều hàm chứa những ý nghĩa thiêng liêng độc
đáo. Trong giờ khắc năm cũ sắp tàn, mọi nhà cài then chặt cửa để sửa soạn đón
năm mới trong sự xum họp đầm ấm của gia dình..Nhưng chính trong giây phút đợi
nàng Xuân bước vào thềm hạnh phúc , trước bàn thờ tổ tiên thơm lừng hương khói,
hoa quả, bên cạnh cội mai vàng đang ẽo lã mãn khai những cánh non, người trong
cuộc trầm ngâm uống từng ngụm trà nhỏ, nghe hơi ấm thấm tận hồn, để tự ý thức đầy
đủ về đời mình suốt một năm dài truân chuyên hay may mắn và quên đi sự ồn ào từ
bên ngoài.
Có
điều chắc chắc rằng không phải là ngẩu nhiên mà nhiều dân tộc trên thế giới lại
thích uống trà, đặc biệt nhất là người Nhật đã tôn sùng cái thi vị trên thành một
thứ tôn giáo lạ lùng gọi là Trà Đạo (Théisme) . Riêng các nước sùng Nho giáo
như Trung Hoa, Đài Loan, VN, Cao Ly.. cùng có một lịch sử và cung cách thưởng
ngoạn trà gần giống nhau và rất lâu đời. Người Anh thường uống trà vào lúc 5 giờ
chiều mỗi ngày. Các bậc thượng lưu trí thức, hàng phú gia quyền quý uống trà lại
càng cầu kỳ và thời gian kéo dài với bốn cô thiếu nữ trẻ đẹp phục vụ, một cô
nhúng chén dĩa vào nước sôi cho chén ấm, cô thứ hai cho trà vào chén, cô kế đổ
nước sôi vào chén và cô cuối cùng đậy nắp rồi bưng trà tới cho chủ nhân.. chỉ
việc nhẹ nhàng mở nắp, hớp một ngụm nhỏ rồi lai đặt chén xuống, trong lúc đôi mắt
lim dim tựa như kẻ mộng du. Nhưng thú vị nhất có lẽ là các thiền sư, tự rửa
chén ấm cũng như nấu nước pha trà và một mình độc ẩm, hay nhiều nhất cũng chỉ
hai ba người, gọi là đối ẩm.. Tóm lại dù uống trà trong hoàn cảnh nào chăng nửa,
thì cái tính chất cao quý của nó là làm cho thế nhân trở nên tĩnh lặng để chiêm
cuộc đời.
1-LỊCH
SỬ CỦA TRÀ :
Theo
truyền thuyết thì chính Vua Thần Nông khi tuần thú phương nam, vô tình uống được
một thứ lá cây rơi trong nồi nước đang sôi, làm cho tinh thần phấn chấn sảng
khoái nên ông gọi đó là Trà. Một huyền thoại khác kể rằng Đức Đạt Ma Sư Tổ của
Thiền phái Thiếu Lâm Tự Trung Hoa, đã ngủ quên trong lúc tọa thiền nên tức giận
tự cắt mí mắt của mình quăng xuống đất và nơi ấy mọc lên một thứ cây kỳ lạ, hái
lá nấu nước uống khiến cho tâm hồn tỉnh táo, được gọi là Trà. Từ đó trà trở nên
thức uống thông dụng của thiền môn.
Gần
hơn còn có câu chuyện của một người tiều phu nghèo khó sống ở miền cao tỉnh
Phúc Kiến, bao nhiêu năm vẫn ôm ấp thầm thương trộm nhớ một cô gái làng bên và
hằng mong có tiền để cưới nàng. Ngày nọ lên núi hái củi, anh ta phát hiện một
cây trà có dáng dấp kỳ lạ, mọc trong một kẻ nuí nên vội bứng đem về nhà trồng.
Hai năm sau cây trà lớn, anh vội hái vài lá có màu xanh đen, đem pha nước uống
, mới ngộ ra đây là một loại trà độc đáo, nên đặt tên là “ Thiết Quan Âm “ vì
loại trà này khi lên men có màu đen như sắt thép và nặng hơn những lá trà thường,
cho ra thứ nước uống thuần khiết như tấm lòng vị tha bác ái của Đức Phật Bà
Quan Âm. Trà Thiết Quan Âm ra đời từ đó.
Riêng
người Nhật thì viết là Trà đã được tìm thấy bởi một danh y tinh thông dược thảo,
từ niên lịch tương đương với thời Chiến Quốc của Trung Hoa (300-221 Tr TL).
Nhưng đó chỉ là huyền thoại. Theo Trung Hoa sử hiện nay, thì người Tàu chánh thức
biết uống trà vào thời Tam Quốc, nhưng mãi cho tới nhà Đường, trà vẫn chưa được
trồng và chế biến, thứ trà uống chỉ là loại trà mọc hoang trong rừng núi, thuần
khiết vẫn đươc coi như một vị thuốc bắc để trị bệnh. Do trên trà mới lưu hành
trong giới thượng lưu mà thôi, còn hạng bình dân hầu như chưa mấy ai biết tới.
Về
cách uống cũng khác biệt,giữa hai bờ đai giang và nhất là dân du mục ngoài Trường
Thành thì uống trà pha sưả trâu bò, dê ngựa. Cũng căn cứ theo Đường Sử, thì
chính Trà Tiên của Trung Hoa là Lục Vũ, tự Hồng Tiệm, người đất Cảnh Lăng, tỉnh
Hồ Bắc, tác giả quyển Trà Kinh là người đầu tiên khởi xuớng phong trào uống
trà. Sau này qua các đời cũng có nhiều tác phẩm nghiên cứu về trà nhưng tựu
trung so sánh nổi phải kể tới quyển “Tục Trà Kinh “ của của Lục tào Xán người
Tô Châu, thời Khang Hy, viết với nhiều tài liệu, dẫn chứng và phẩm bình về Trà
một cách xác đáng. Tại VN, luận về Trà trước kia có tác phẩm “ Vang bóng một thời”
của Nguyễn Tuân, về sau Minh Đức Hoài Trinh và Vũ Thế Ngọc.. cũng có viết về
Trà Kinh. Riêng người Nhật thì có Trà Đạo của Okakura Kakuro.. Cũng kể từ đó nối
tiếp các đời Tống, Nguyên, Minh, Thanh.. trà trở thành phổ quát . Nhiều khu vực
sản xuất trà nổi tiếng xưa nay như Hồ Nam, Hồ Bắc, Chiết Giang, Giang Tô, Lãnh
Nam, Kinh Tương, Phúc Kiến..
Tại
Nga, truyền thống uống trà gắn liền với ấm Samovar. Đây là loại bình lớn được
thiết kế rất đẹp đẽ, chứa hơn một lít nước sôi ở độ cao. Tại Nga, thời tiết lạnh
lẽo gần như quanh năm suốt tháng, nên uống trà nóng gần như là một nhu cầu cần
thiết vì với người Nga thì Trà có tác dụng giữ ấm cơ thể nhất là tim. Bởi vậy
trong mọi nhà tại Nga, hâu như trong chiếc bình đặc biệt Samovar luôn đầy nước
trà nóng và những hộp đường viên, mọi người lúc đó quây quần bên ấm trà nóng, để
những viên đường vào giữa hàm răng và thong thả nhắm nháp từng ngụm trà thơm
ngát, nóng hổi, trong khi bên ngoài giá lạnh mưa tuyết trùng trùng.
Tại
Morocco, Châu Phi : Theo quan niệm, trà ở đây có tác dụng cầm chân khách trong
các dịp có cơ hội gần gũi hay quây quần bên nhau. Hầu như người Morocco thường
uống một loại trà xanh thương thặng và theo tập quán , thì người con trai trong
gia đình phụ trách việc pha chế trà, ngoại trừ có trường hợp đặc biệt, vợ của
chủ nhà vì tình thân của bè bạn, trực tiếp mời chồng mình tự tay pha tra đãi
khách. Thường thì phải có hai bình trà sẳn sàng . Pha trà bằng ba loại nước với
độ sôi khác nhau và được rót trong những chén nhỏ xinh xắn, đặt trên chiếc khay
bằng kim loại có chạm khắc nhiều hình ãnh rất đep. Theo nghi thức, Trà được
châm đến tuần thứ ba thì chấm dứt buổi tiệc.
Tại
ANH : Theo sử liệu,thì chính Nữ Công Tước Bedford , tác giả quyển “ Năm giờ uống
trà” rất được người Anh ưa thích. Bà cũng là người đã tạo ra phong trào uống
trà vào buổi chiều tại xứ sương mù. Ngày nay tới nhà bất cứ một người Anh nào,
đặc biệt là giới trung và thượng lưu trí thức, ai cũng phải lóe mắt trước sự
khéo tay và vô cùng thẩm mỹ của các bà nội trợ , trong việc trang trí bàn uống
trà với khăn phủ bàn có bình hoa tươi và bộ bình trà làm bằng bạc và sứ men
Trung Hoa. Người Anh từ lâu có tập quán đãi khach loại Trà sữa hay Trà Chanh.
Cũng theo sữ liệu, thì vào thế kỷ XVIII, khi Anh chiếm Hồng Kông và nhiều thành
phố lớn khác tại Trung Hoa như Thiên Tân,Thượng Hải, Quảng Châu.. đã du nhập tập
tính uống Trà của người Tàu về bản quốc. Hằng tháng để kịp có Trà, nhiều cuộc
đua gọi là Đua Trà, bằng thuyền buồm, chở các loại trà quý từ Trung Hoa sang
Luân Đôn rất hào hứng.
Tại
VN : Mỗi năm xuất cảng trên 10.000 tấn khắp thế giới, được trồng nhiều loại
trên một diện tích 89.000 hecta tại Sơn La, Yên Bai, Lào Kai,Tuyên Quang,Thái
Nguyên, Nghệ An và Lâm Đồng.
Tại
Hoa Kỳ : Hằng năm theo thống kê, thì dân chúng xứ Cờ Hoa tiêu thụ cả chục triệu
tấn trà,bằng mọi hình thức như uống nóng, lạnh, trà nguyên chất hay ướp các loại
hoa, uống không hay uống chung với đường thêm mật ong, sữa,kem, chanh. Người Mỹ
uống nhiều loại trà, từ thứ gọi là Decaffeinated Tea hoặc các loại trà lá, kể cả
dược trà bằng lá ổi, lá hồng để trị bệnh và làm tan mỡ, gọi là Herbal Tea.
Tại
NHẬT : Việc uống trà tại Nhật đã có từ lâu đời và theo thời gian đã trở thành một
triết thuyết của Thiền giới. Đây là một hình thức huấn luyện các Trà Đồ hướng về
nẽo Thiền lý, đi tìm chân, thiện, mỹ trong thế giới tĩnh tại và tự nhiên của
tâm hồn. Ngày nay Triết Lý Trà của người Nhật đã trở thành một nghi thức chính
thống của một tôn giáo gọi là Trà Đạo, hình thành từ thời kỳ Mạc Phủ Tướng Qaân
ở thế kỷ thứ XV. Nơi uống trà gọi là trà thất làm bằng gổ, nằm giữa một khu vườn
đầy lá hoa có các lối nhỏ trãi đá sỏi dẫn tới.Những trà đồ trước khi bước vào
trà thất đã tự mình rũ bỏ hết cái thế giới ồn ào bon chen, nhập vào sự tĩnh lặng
của tâm hồn, quên hết kể cả cái ta phiền toái đáng phiền.
2-
CÁC LOẠI TRÀ :
Cây
Trà có tên khoa học là Camelia Sinencis, là một trong những thực vật thuộc Họ
Theacae, lá xanh tốt quanh năm và hoa thì màu trắng. Sau năm năm, cây Trà được
coi là trưởng thành và cho hoa lợi liên tiếp trong hai mưoi lăm năm hay lâu hơn
nữa tuỳ theo sự chăm sóc và tưới bón của nhà nông. Thông thường cây trà có độ
cao tới hàng chục thước nhưng để tiện dụng cho phu hái trà, người ta phải cắt tỉa
thường xuyên để thân cây đạt độ cao tối đa từ 1-1,50m. Riêng những cây già thì
cắt ngang thân để mầm non nẩy chồi mới và theo phương pháp này, trà đạt tuổi thọ
hơn một thế kỷ là sự thường.
Để
bảo quản tốt vườn trà, thường các cây bị sâu thì phải nhổ bỏ vì trà kỵ thuốc trừ
sâu rầy, cũng như không tốt đối với loại phân hoá học, mà chỉ thích ứng với loại
hửu cơ hay bã đậu nành. Mùa hái trà thường vào tiết thanh minh vì thời gian
này, mùa đông đã đi vắng, khắp nơi nàng xuân trở về với vạn vật trong lành, khí
trời ấm áp, nắng hanh nhè nhẹ đủ cho muôn hoa ngàn lá trong đó có cây trà xanh
tốt, ươm hoa nẩy lộc đầy cành . Ở Trung Hoa cũng như VN, vườn trà thường được lập
trên các vùng đồi thấp, làm thành các bậc thang. Người hái trà làm việc ngay từ
sáng sớm khi những giọt sương mai vừa tan theo ánh thái dương khẻ rọi. Theo qui
định rất nghiêm ngặt, số lương lá trà được hái tùy theo loại, chẳng hạn như trà
xanh thì ngắt hai lá, còn trà Ô Long tới ba lá to và một búp..
Trà
đem về hong ngoài trời cho héo sau đó đem ủ, sấy và biến chế làm trà sống.
Ngoài ra bên Tàu còn có những vườn trà cấm được công an canh phòng cẩn mật,
chuyển sản xuất trà quý cho các Hoàng Đế đỏ tại Tử cấm Thành ở Bắc Kinh. Tại
Tây Hồ, Hàng Châu nơi chuyên sản xuất trà Long Tỉnh, mùa trà kéo dài từ tháng
3-10, mỗi cây hái mỗi kỳ độ 20-30 lần và thời gian cách nhau 10 lần, mục đích
hái lá trà toàn búp non. Tóm lại xưa nay, người Tàu có bốn vùng sản xuất trà
khác nhau như TRÀ XANH trồng tại Giang Bắc ( phía tả ngạn sông Hoàng Hà) và
Giang Nam ( vùng giữa Hoàng Hà và Dương Tử). Lĩnh Nam ( Phúc Kiến, Hồ Nam, Quảng
Đông, Quảng Tây) có trà Ô LONG và Vùng Tây Nam (Vân Nam, Quý Châu, Tứ Xuyên..
chuyên sản xuất TRÀ ĐEN và TRÀ BÁNH có nước màu tía đỏ.
Tổng
kết các loại từ trà lá, trà búp, trà xanh, trà đen, trà bột, trà hạt,trà cám,
trà mộc.. tới trà uớp hoa.. nay có tới hơn 1000 loại, nếu không phải là người
sành điệu thì dễ gì phân biệt. Giống như Rượu các loại, trà ngon hay dở đều tuỳ
vào cách ủ ( Oxidation) và thời gian lâu hay mau., để có hương vị và màu sắc
mong muốn. Các loại trà Nhật, Long Tỉnh, Bích Loa Xuân.. là loại trà xanh ủ ngắn
hạn. Loại trà ủ trung bình có Bạch Hào Ngân Châm, Bao Chủng, Động Đình, Thiết
Quan Âm, Thủy Tiên, Vũ Di, Ô Long của Trung Cộng, Ô Long Đài Loan. TRÀ ĐEN là
loại trà hiện nay được các nước Âu Mỹ ứa thích, được ủ trong thời gian rất lâu.
Thú
uống trà hiện nay được phổ quát khắp thế giới và trong mọi tầng lớp, nên trồng
và chế biến Trà đã trở nên một kỹ nghệ quan trọng nhất là tại các nước Á Châu
như Trung Cộng, Đài Loan, Nhật Bản, VN, Cao Ly.. Trà ngon nổi tiếng là loại trà
đã phải trải qua 10 giai đoạn chế biến, gồm có Trà Bắc-Thái của VN, trà Sâm Cao
Ly, Thiết Quan Âm ( Ly Sơn,Đài Trung, Đài Loan), Ô Long (Núi Phổ Đà,Trung Hoa,
trên một rặng núi có cao độ hơn 2100m) nhưng đặc biệt nhất là trà Vũ Di, mọc
trên một rặng núi rất cao lại vô cùng hiểm trở, người thường không thể leo tới
để hái nên phải cho khỉ hút thuốc phiện rồi luyện tập chúng thành những chuyên
viên hái trà như người.
Ngoài
ra theo khách sành điệu cũng như các bậc thầy về trà, thì việc uống và thưởng
thức trà , đều đồng tình rằng muốn đạt được tuyệt đỉnh không những phải nhờ phẩm
chất mà còn phải nhờ loại nước và cách pha trà, như Nguyễn Tuân thuở sinh thời
đã luận là đã phải hứng những giọt sương đọng trên lá sen làm nước pha trà.
Trong bài thơ “ Văn tế kim nhân phúng lộ bàn” của Tiết Phùng, có kể chuyện vua
Hán Võ Đế thuở xưa , đã cho dựng một cột bằng đồng cao 20 trượng , trên có một
tượng người bằng vàng đưa tay hứng sương dùng làm nước pha trà.
Trong
“ Vang bóng một thời” Nguyễn Tuân có giới thiệu về những chiếc ấm đất quý báu
dùng để pha trà, cho tới những chén uống trà nhỏ nhắn đủ loại mà khách sành điệu
gọi là chén tống, chén quân.. Về ấm trà thì hơn trăm năm về trước trên đất Bắc,
đã phát sinh lời truyền tụng “ thứ nhất Thế Đức gan gà, thứ nhì Lưu Bội, thứ ba
Mạnh Thần. Tất cả các loại trên đều là ấm Tàu, cũng giống nhu ấm Nghi Hưng nổi
tiếng từ lâu đời. Nghi Hưng là một huyện kế cận thành phố Thượng Hải, thuộc tỉnh
Giang Tô, tại đây có một loại đất sét đặc biệt , chứa nhiều thạch anh, mica, sắt..,
dùng để nung các ấm trà không tráng men, gọi chung là ấm tử sa (
Unglazed-Purple sand), thường có ba màu : tía đỏ, vàng sậm và nâu đen. Ngoài ra
ở đây còn có loại đất sét khác màu trắng và màu xanh nước biển rất hiếm hoi.
Theo sách Trà Kinh của Lục Vũ, thì ấm Nghi Hưng hay Tử Sa là những tuyệt tác phẩm
nghệ thuật của Trung Hoa với đủ loại kiểu cách, dung lượng dùng để độc ẩm, song
ẩm hay quần ẩm, chứng tỏ sự khéo tay và óc sáng tạo độc đáo của các nghệ nhân
nghệ sĩ.
3-
NỀN VĂN HÓA UỐNG TRÀ :
Uống
trà là một nghệ thuật có tính cách văn hoá và xã hội. Thời gian uống trà cũng
là một thái độ tĩnh tâm và tu luyên, giúp cho cuộc sống thêm thư giản và quên bớt
phiền nảo, bon chen, cho nên xưa nay đã trở thành những nghi thức hay tôn giáo
gần như khắp thế giới.
-
ĐẤU TRÀ : Theo
Thái Vĩnh Chương, một chuyên gia nổi tiếng về trà của Đài Loan, thì môn đấu trà
của người Tàu, bắt đầu từ đời nhà Tống, sau đó bành trường sang Nhật Bổn thành
môn Đoán Trà. Đây không phải là cuộc thi đấu võ thuật, thuần tuý chỉ có đấm
đánh mà thôi, trái lại Đấu Trà là một cuộc thi đòi hỏi thí sinh phải có thực
tài và sự hiểu biết cao thâm chẳng những về trà, mà còn phải tinh thông đủ
tính, y,lý, đạo làm người khiêm thụ ích mản chiêu tốn, tức là người khiêm tốn
luôn thu được lợi ích còn kẻ tự mãn chỉ chuốc lấy tổn hại. Tóm lại đấu trà tại
Trung Hoa với tất cả các loại trà, còn đoán trà ở Nhật Bản chỉ với trà xanh mà
thôi.
Nước
Tàu khi xuân về Tết đến, tiết trời ấm áp êm dịu, làm cho những đồi chè cây bắt
đầu trổ lá non mơn mởn, cũng là lúc khắp nơi người ta nô nức mở hội đấu trà. Có
hai cách thi đấu, thứ nhất là thi pha trà và thứ hai là thi nhận loại trà . Nói
chung thì thi loại nào chăng nửa, thí sinh phải đạt tới mức thượng thừa về trà,
mới mong chiếm giải. Trong cuộc thi, trước hết Ban giám khảo đưa cho thí sinh
xem trươc năm mẫu trà. Sau đó bí mật pha chế thành nhiều chén trà để các thí
sinh nhắm và đấu với nhau, cũng như bình phẩm để phân loại trà theo các hạng
tùng, trúc, mai, lan, cúc. Tuy nhiên điểm then chốt của cuộc thi vẫn là miêu tả
trà qua hương sắc, mùi vị, từ đó cho biết độ lên men, cách sao tẳm, lá chè già
non và xuất xứ của trà. Thời xưa trong các cuộc đấu trà, còn có phần ngâm thơ,
phổ nhạc. Hiện nay tại nước này còn lưu trữ một bài thơ truyền khẩu về “ Ẩm Trà
“ :, đại khái như sau :” một chén trơn môi trơn cổ, hai chén hết nổi cô buồn,
ba chén tuy cạn nguồn thi hứng nhưng vẫn còn ngàn vạn quyển, bốn chén vả mồ hôi
nhẹ, bình sinh mà không bình sự, năm chén gân chén thanh sạch, sáu chén thông đạt
diệu linh, bảy chén như bổng như bay..” Những điều trên cho thấy cổ nhân nghiện
và thích thú trà đến mức nào.
-
THI PHA TRÀ :
Yip-Wai-Man hiện được người Hồng Kông tôn xưng như là một bậc thầy trong việc
thưởng thức và thi pha trà, khi sự kiện này được nâng thành một nghệ thuật Trước
năm 1997, Hồng Kông là nhượng địa của người Anh và từ đó nơi miền đất này người
Anh được nổi tiếng là một trong những dân tộc trên thế giới thích uống trà nhất.
Tuy nhiên về cách pha chế và thưởng thức thì người phương đông sành điệu hơn và
họ đã tạo thành một nền văn hóa trà độc đáo.
Đối
với một số người Hồng Kông sành điệu, thì việc pha trà là cả một nghệ thuật hay
nói đúng hơn đó là thứ đam mê của cả đời người., dĩ nhiên cái giá để thỏa mãn
cái thú đam mê trên là sự tốn kém, khi mua sắm các loại trà nổi tiếng như Thiết
Quan Âm rất mắc mõ, cũng như các loại bình, ấm, chén khay dùng trong việc uống
trà, nhất là tại hòn đảo giàu có này.
Thật
ra thi pha trà đã phổ biến từ đời nhà Tống, do các quan lại trong triều, các
nho sĩ và những thương nhân đua tài. Quy luật của cuộc thi rất nghiêm ngặt, nhiều
nhà giàu còn dùng cả những chiếc muổng bằng vàng để khuấy trà. Tại Hồng Kông
ngày nay, cuộc thi pha trà thường được các tổ chức công tư bảo trợ và được sự tham
dự đông đảo của mọi tầng lớp kể cả học sinh, nhằm mục đích trao đổi sự hiểu biết
và các kỹ thuật liên quan tới trà. Ngày 12-7-1997 có 12 thí sinh dã lọt vào
chung kết cuộc thi pha trà tại Hồng Kông, thật là gay go, mỗi người chỉ có 15
phút vừa để pha ba lần trà. Sau đó là cuộc sát hạch về kiến thức, lịch sữ và
triết lý trà. Điểm chấm để xếp hạng căn cứ vào bốn yếu tố như hương vị trà, kỹ
thuật pha chế, bộ đồ trà và phong độ của thí sinh. Hội đồng giám khảo gồm 10
chuyên gia về trà ở Hồng Kông, Nhật Bản, Đài Loan, Trung Cộng và Tân Gia Ba. Có
ba giải đồng hạng nhất với tiền thưởng và các tài vật trị giá tới 68.000 tiền Hồng
Kông, hạng nhì 38.000 và hạng ba 18.000. Theo chuyên gia Yip thì người Hồng
Kông đam mê trà thường pha chế theo cách tổng hợp giữa Trung Hoa và Anh. Riêng
những người già thì sau khi uống trà xong, họ ăn luôn xác trà gọi là rau đắng.
Ngoài ra người Hồng Kông còn xào lá trà với gừng và hành tươi làm món súp trà.
Tóm lại trà đã trở thành một triết lý sống tại đây và dã có nhiều câu lạc bộ
chuyên về trà ra đời với đông đảo hội viên. Cũng đã có một nhà bảo tàng chứa đủ
tài liệu cùng các vật dụng liên quan tới trà.
TRÀ
LỄ, BƯỚC ĐẦU RÈN LUYỆN SỰ KHỔ HẠNH TẠI NHẬT : Người Nhật gọi nghi lễ dùng
trà là Chanoyu, ca tụng cái đẹp giữa sự hài hoà từ thiên nhiên cùng tính khắc
khổ của con người. Đây là trà đạo và đối nhiều phụ nữ Nhật cũng là
một nghề nghiệp chuyên môn khổ luyện mới đạt được vì những động tác của trà lễ
là một hệ thống chặt chẽ, song hành với cách ăn vận bộ quốc phục Kimono truyền
thống cùng cách cắm hoa. Trước khi hành lễ, các đệ tử phải cúi đầu sát đất để
chào một cây quạt đặt ngay ngạch cửa, vì vật này tượng trưng cho thanh kiếm của
các võ sĩ đạo ngày xưa, đặt trước trà đình khi hành lễ.
Theo
Nhật sữ thì chính một thiền sư của Trung Hoa tên Eichu đã mang trà đạo vào nước
này từ thế kỷ thứ XV. Suốt bao thế kỷ, trà đạo chỉ dành cho nam giới, qua các
thành phần tu sĩ, qúi tộc, thương nhân cùng chiến binh. Mãi tới thời Minh Trị
Thiên Hoàng mới được mở rộng cho nử giới nhưng đồng thời cũng bị đe dọa trước sự
hội nhập của nền văn minh cơ khí Tây Phương.
Ngày
nay qua cuộc sống bon chen từng giờ để kiếm sống và đoạt vị, nam giới Nhật hầu
hết không còn thời gian để nghĩ tới trà đạo, mặc dù nó là một môn học bắt buộc
tại các trường Trung Học. Cũng do nghề trà đạo kiếm rất nhiều tiền, nên luôn có
những lớp học riêng tại nhà, đa số do nữ nhân giảng dạy, học viên cũng được tuyển
chon theo quy luật truyền thống và rất hạn chế, nhằm bảo đãm phẩm chất của trà
đồ khi ra đồi hành đạo.
Tuy
nhiên dù muốn dù không, đỉnh cao của trà lễ vẫn còn nằm trong tay nam giới. Đó
là những đại danh sư, có thẩm quyền trong việc cấp bằng tốt nghiệp môn Chanoyu
cho giáo viên, hầu hết đều ở Tokyo, bằng một giá cắt cổ. Có vậy những người tốt
nghiệp mới được phép hành nghề. Điều cũng đáng vì các đại danh sư hiện nay toàn
là hậu duệ của Tổ sư môn Chanoyu, từ thế kỷ thứ XV là Sen Rikyu . Ông sống vào
thế kỷ XVI, phục vụ cho lãnh chúa lừng lẫy lúc đó là Toyotomi Hideyoshi, người
đã dựng lên một trà đình ngay tại chiến trường với các nghi thức trà lễ, giống
như thuở trước, Trương Lương dùng tiếng sáo đánh tan quân của Bá Vương tại Cai
Hạ. Ở đây đich quân cũng xao xuyến và nản lòng trước hương vị của trà. Năm 1585
, lãnh chuá Hideyoshi được Thiên Hoàng bổ nhiệm làm tể tướng , nên ông này lại
cử thiền sư Sen Rikyu làm chủ tế buổi trà lễ cho nhà vua tại một trà đình xây bằng
vàng . Nhưng sau đó không hiểu vì lý do gì, lãnh chúa Hidoyosho bị tẩu hỏa nhập
ma và kết tội Rikyu đã đầu độc, nên bắt thiền sư phải tự xữ bằng cách mổ bụng
chết.
Tóm
lại khi mọi người bước vào thế giới tĩnh lặng của trà lễ, thì họ chỉ còn là những
chiếc bóng đã tự rũ bỏ lại bên ngoài tất cả. Trong suốt thời gian thiền vị, bên
bình trà bột xanh, các trà đồ trong tư thế đặc biệt đã thực hiện được cái đẹp
thực sư bằng cái triết lý hòa hợp giữa chân, thiện, mỹ thuần khiết. Thật vậy
trong trà thất cô tịch, bên ngoài các đoá hoa anh đào đang lao xao đâm chồi dưới
bầu trời lạnh băng tuyết phủ của mùa đông, thế nhân như thoát tục giữa lúc nhắp
từng ngụm trà màu hổ phách nóng hổi, đựng trong các chén sứ trắng tinh xinh xắn,
khiến cho người quên người, quên đời, quên hết dục vọng mà đắm mình trong không
gian và tâm hồn tĩnh lặng như mặt nước hồ thu lúc yên bình.
Với
người Nhật , trà đạo là một tôn giáo không có giới hạn, hận thù mà là một cách
tu luyện khổ hạnh của triết môn thần học về thực hành, tạo tinh không đối xứng
trong trí tưởng , gần giống như thiền học, qua nghệ thuật linh cảm, nên rất hợp
với phụ nữ Nhật trong thế giới xô bồ hiện tại -/-
TÀI
LIỆU THAM KHẢO :
Vang
bóng một thời cuả Nguyễn Tuân.
Trà
Tàu và ấm Nghi Hưng của Nguyễn văn Chính
Liên
hiệp báo viết về trà.
The
South China morning Post và HongKong Standard tháng 2-1997
World
& Worlds tháng 12/2001
Géo
tháng 5/1995
Xóm
Cồn Hạ Uy Di
Giêng
2017
Mường
Giang
No comments:
Post a Comment