Sinh thời, trong một lần được phỏng vấn, khi được hỏi
ông đã mang lại điều gì cho những người dân Singapore, cựu thủ tướng Lý Quang
Diệu không nghĩ mà đáp rằng «tôi cho họ được học hành». Và nếu có dịp phỏng vấn
những người đứng dưới mưa, xếp thành hàng dài tiễn ông đi ngày ông mất, chắc hẳn
sẽ nhận được câu trả lời tương tự, thậm chí còn hơn.
Singapore là một ví dụ để cho thấy rằng sự chọn lựa
trong chính sách của người lãnh đạo không những làm thay đổi văn hóa và suy
nghĩ của một lớp người mà còn ảnh hưởng đến vận mệnh và tương lai của một quốc
gia, dân tộc.
Khi bị đẩy ra khỏi liên bang Malaysia và buộc trở
thành một quốc gia độc lập, Singapore đứng giữa những ngổn ngang của chọn lựa
các chính sách, mà một trong các số đó là chọn cho mình một ngôn ngữ chính thức.
Cho đến lúc này, Singapore là vùng đất của những người nhập cư, với đủ các tộc
người, người Hoa, người Ấn, người Malay, người Anh,…, mà trong đó người Hoa là
thành phần chiếm đa số. Đứng giữa hai lựa chọn tiếng Hoa và tiếng Anh, chính phủ
đầu tiên của Singapore đã chọn tiếng Anh vì lý do đơn giản rằng đó là ngôn ngữ
của giao thương và tri thức. Chỉ bằng cách duy trì tiếng Anh và một hệ thống luật
lệ, hệ thống chính trị kiểu Anh – mà sự thành công đã được kiểm nghiệm –
Singapore đã có thể đặt những nền móng vững chắc cho sự tồn tại của một quốc
gia non trẻ. Những chính sách sau đó từ giáo dục, quốc phòng, ngoại giao,
thương mại đều là những tham khảo và áp dụng từ các nước Anh, Hoa Kỳ, Israel,
Thụy Sỹ, và Hà Lan. Và Singapore thành công như ngày hôm nay là nhờ ở sự liên tục
cải tiến và học hỏi, mà có được điều đó phần lớn là nhờ ở người Singapore thạo
tiếng Anh. Nhờ có thạo tiếng Anh và chăm chỉ mà họ cập nhật được những tri thức
mới một cách dễ dàng và buôn bán một cách tự tin với phần còn lại của thế giới.
Không phải là không có chống đối khi chính phủ chọn
tiếng Anh làm ngôn ngữ chính thức và bắt buộc làm ngôn ngữ giảng dạy chính thức
ở các cấp học. Phản ứng đầu tiên dĩ nhiên đến từ cộng đồng người Hoa với các
trí thức. Ngay khi Singapore độc lập, những đại diện của Phòng Thương Mại Hoa
Kiều ở Singapore đến văn phòng của Lý Quang Diệu đề nghị ông chọn tiếng Hoa làm
ngôn ngữ quốc gia và ngôn ngữ hành chính. Đáp lại là một cái lắc đầu và trừng mắt
cùng lời đe dọa sẽ đập tan những kế hoạch như vậy.
Giới trí thức người Hoa, mà nhiều trong số họ thiên
tả, chịu sự ảnh hưởng của Trung Cộng, mang trong mình mầm mống chống lại sự cai
trị của chính phủ Lý Quang Diệu – một chính phủ thân phương Tây và chống cộng sản
kịch liệt. Họ tập trung chủ yếu ở trường Đại học Nam Dương (Nanyang
University), một trường đại học được dựng lên bởi các nghiệp đoàn người Hoa. Đại
học Nam Dương ban đầu, do đó, dạy chủ yếu bằng tiếng Hoa.
Ngay khi Singapore độc lập, những gia đình người Hoa
nghĩ rằng, giờ đây, sau khi độc lập khỏi liên bang Malaysia, đã đến lúc cho con
em mình học bằng tiếng Hoa. Số lượng sinh viên vào đại học học bằng tiếng Hoa
tăng nhanh chóng, phải hơn một nửa lượng sinh viên.
Chính phủ Lý Quang Diệu, vốn phải chiều lòng cộng đồng
người Hoa để lấy phiếu trong các kỳ bầu cử, buộc phải ngó lơ, cho phép duy trì
trường đại học dạy bằng tiếng Hoa. Song song đó là củng cố và hỗ trợ các cơ sở
dạy bằng tiếng Anh khác. Những sinh viên ra trường, chỉ nói tiếng Hoa, không thạo
tiếng Anh trở nên khó xin được việc. Điều đó dẫn đến một hiện tượng là các học
sinh giỏi bắt đầu chuyển sang đầu quân vào các trường dạy tiếng Anh vốn được
chính phủ hỗ trợ nhiều hơn để ra trường dễ xin được việc làm. Đến năm 1978 thì
trường Đại học Nam Dương đứng trên bờ vực của sự phá sản khi các sinh viên ra
trường hầu như không thể kiếm được việc làm, vì nó không còn là nơi đào tạo những
sinh viên xuất sắc và họ cũng chỉ thạo được tiếng Hoa trong một môi trường đòi
hỏi phải dùng tiếng Anh.
Thị trường cuối cùng bắt trường Đại học Nam Dương
chuyển sang dạy bằng tiếng Anh. Tuy vậy, các giáo sư đại học, vốn xưa lấy bằng
chủ yếu từ Hoa Kỳ, sau một quãng thời gian không dùng tiếng Anh, giờ khả năng
tiếng Anh không còn lưu loát nữa. Cuối cùng, chính phủ quyết định nhập trường đại
học Nam Dương vào hệ thống trường Đại học Quốc gia Singapore (National
University of Singapore).
Cho đến nay, hệ thống giáo dục của Singapore là một
sự sao chép lại từ Anh cho hệ thống giáo dục của bậc phổ thông và từ Mỹ cho bậc
giáo dục đại học. Sự sao chép đó không chỉ dừng lại ở các giáo trình được dạy
và cách thức nghiên cứu mà ngay cả ở các tổ chức sinh viên và các hoạt động ngoại
khóa cho sinh viên. Ở bậc phổ thông trung học, kỳ thi trước khi vào đại học ở
Singapore được gọi là kỳ thi Singapore-Cambridge GCE Advanced Level. Đây là một
kỳ thi được tổ chức bởi sự hợp tác của Bộ Giáo Dục Singapore và Ủy ban Thi cử Đại
học Cambridge (the University of Cambridge Local Examinations Syndicate —
UCLES). Chính nhờ một sự hợp tác như vậy mà kết quả của kỳ thi được công nhận
trên toàn thế giới và giúp các sinh viên Singapore dễ dàng theo đuổi các chương
trình đại học ở các trường đại học khắp nơi trên thế giới.
Cũng không chỉ có kỳ thi GCE A-level với sự hỗ trợ
và giúp sức của Đại học Cambridge, sự thành công của hệ thống giáo dục
Singapore và sự thành công của các trường đại học Singapore là sự thành công có
được mà ở đó có sự đóng góp vô cùng to lớn bởi sự hợp tác với các trường đại học
danh tiếng thế giới. Trong đó phải kể đến viện y khoa DUKE-NUS, trường chính
sách công Lý Quang Diệu hợp tác với Đại học Harvard, Liên minh Singapore-MIT
cung cấp các chương trình nghiên cứu giảng dạy chung bậc sau đại học giữa đại học
MIT của Hoa Kỳ với hai trường đại học hàng đầu của Singapore là Đại học Quốc
gia Singapore (NUS) và Đại học Công nghệ Nam Dương (NTU), sự hợp tác giữa trường
đại học Johns Hopkins của Hoa Kỳ và National Heathcare Group của Singapore,
ngoài ra còn có nhiều các chương trình hợp tác khác giữa các khoa, viện giáo dục
giữa Singapore và hai nước Anh, Hoa Kỳ.
Những sự thành công đó, khi nhìn lại, có được nhờ ở
việc chính phủ Singapore chấp thuận việc sử dụng một hệ thống giáo dục theo mô
hình Anh-Mỹ và dùng tiếng Anh làm ngôn ngữ giảng dạy.
Nhìn lại Việt Nam, khi những lãnh đạo Bộ Giáo Dục đề
xướng dạy tiếng Hoa vào cấp tiểu học, có vài điều cần nói.
Thứ nhất, lẽ dĩ nhiên biết thêm một ngôn ngữ sẽ giúp
một người hiểu hơn về một nền văn hóa. Trung Quốc có một nền văn hóa giàu có, vừa
là một láng giếng và một cường quốc về kinh tế thế giới, việc thạo tiếng Hoa sẽ
có nhiều ích lợi.
Tuy vậy, với những học sinh cấp tiểu học vốn đã học
nhiều thứ quá tải, việc nhồi nhét thêm một môn học về ngôn ngữ sẽ chẳng giúp gì
nhiều cho các học sinh trong việc tiếp thu kiến thức mới.
Thứ hai, bất cứ một học sinh nào cũng chỉ có một lượng
thời gian cố định để học tập. Khi bắt học sinh học thêm tiếng Hoa, đồng nghĩa với
việc học sinh sẽ bị lấy mất thời gian học ở môn khác. Có thể rằng trong một
tương lai trước mặt, mối quan hệ kinh tế của Việt Nam với Trung Quốc ngày một
tăng lên. Tuy vậy, trong một tương lai thấy được, tiếng Anh vẫn là ngôn ngữ của
tri thức và thương mại. Hầu như tất cả các nghiên cứu học thuật danh giá và các
viện nghiên cứu hàng đầu đều dùng tiếng Anh làm phương tiện. Ngay cả ở châu Âu,
các cấp học từ sau đại học trở lên giờ đây đều bắt đầu chuyển sang dùng tiếng
Anh. Việc sở hữu một khả năng tiếng Anh lưu loát cho phép học sinh tiếp cận được
một kho kiến thức khổng lồ của nhân loại, điều mà tiếng Hoa hay bất cứ thứ tiếng
nào khác đều không thể có được.
Thứ ba, khi một đất nước mà người dân ai cũng sử dụng
thạo tiếng Anh, việc tiếp cận với văn minh thế giới không chỉ làm giàu văn hóa
và sự hiểu biết của mỗi người dân, mà nó còn trở thành một văn hóa của đất nước.
Đất nước đó sẽ cởi mở và hiểu biết hơn trong mắt các du khách và người dân thế
giới. Và tiếp theo, nó sẽ là điểm đến của các công ty và tập đoàn trong việc
tìm kiếm một cơ hội đầu tư.
Thứ tư, ngân sách chính phủ là một nguồn lực có hạn.
Khoản tiền đầu tư cho việc đào tạo các giáo viên và các chi phí trong việc duy
trì các chương trình tiếng Hoa có thể dùng vào các chương trình khác có hiệu quả
hơn. Sẽ có ích hơn khi dành số tiền này vào việc cải tạo các chương trình tiếng
Anh nhằm làm cho những học sinh Việt Nam đạt được một khả năng lưu loát, thay
vì tình trạng học sinh học hết phổ thông không thể dùng được tiếng Anh như hiện
nay.
Và cuối cùng, dưới đây là những đề xuất về chính
sách liên quan đến ngôn ngữ:
Một, hãy đưa ra một sách lược lấy tiếng Anh dùng làm ngôn ngữ thứ hai (second
language), chứ không phải ngôn ngữ nước ngoài (foreign language) như hiện nay.
Vì những ích lợi của nó khi giúp người dùng nhanh chóng nắm bắt được kiến thức
khoa học thế giới và mở ra các cơ hội đầu tư giao thương.
Hai, hãy sửa đổi lại cách dạy tiếng Anh. Có rất nhiều ví dụ để tham khảo, gần
nhất là Singapore, và xa hơn là các nước Bắc Âu.
Ba, hãy khuyến khích và ủng hộ các đài truyền hình dùng nhiều các chương
trình hoạt hình và giải trí bằng tiếng Anh kèm phụ đề tiếng Việt, nhất là các
chương trình dành cho trẻ em. Hãy để trẻ em làm quen với tiếng Anh. Cách làm
này vừa tiết kiệm được cho các đài truyền hình trong việc biên dịch mà còn giúp
trẻ em nhanh chóng làm quen với một ngôn ngữ mới. Nhờ xem truyền hình tiếng Anh
mỗi ngày như vậy từ bé mà người dân Bắc Âu ai cũng dùng sõi tiếng Anh.
Bốn, Việt Nam may mắn có một cộng đồng người Việt hải ngoại rộng lớn ở các nước
nói tiếng Anh như Hoa Kỳ, Canada, Úc, Anh. Hãy tạo điều kiện để các bạn trẻ ở
các cộng đồng này về Việt Nam tham gia các chương trình dạy tiếng Anh ở các trường
phổ thông, mỗi bạn sẽ dạy vài tháng trong một năm chẳng hạn, bù lại là chính phủ
có thể trả các khoản hỗ trợ tượng trưng cho các bạn.
Năm, nên có một lộ trình để bắt buộc các trường đại học dùng tiếng Anh làm
ngôn ngữ để giảng dạy. Một lộ trình như vậy có thể được thực hiện trong 5 năm
chẳng hạn. Những trường nào thực hiện trước sẽ có được những hỗ trợ về tài
chính nhằm khuyến khích việc chuyển đổi nhanh chóng. Song song đó là những chi
phí hỗ trợ kiếm việc làm mới cho các giảng viên không thể giảng dạy bằng tiếng
Anh, và việc nâng mức lương cho các giảng viên mới. Những sinh viên thi tuyển đầu
vào bắt buộc trải qua một vòng thi tiếng Anh. Nếu trình độ tiếng Anh kém, sinh
viên buộc phải học một chương trình dự bị khoảng 6 tháng đến 1 năm trước khi bắt
đầu vào chương trình chính thức. Đây không hẳn là một đề xuất mới, mà nó đã được
thực hiện khá thành công bởi các trường đại học tư như Đại học FPT. Chính vì vậy
nên nó cần được nhân rộng để tất cả các sinh viên khác đều có cơ hội được hưởng.
Sáu, biết tiếng Hoa là một lợi thế. Nó sẽ giúp người Việt biết thêm về văn
hóa Trung Quốc, văn hóa cổ Việt Nam và hỗ trợ trong các giao dịch thương mại với
người Hoa. Chính vì vậy, ở các cấp đại học chính phủ nên đưa tiếng Hoa thành một
môn học mà sinh viên được lựa chọn, bên cạnh các môn khác như chính trị, triết
học, hay kinh tế.
***
Sự thành công của một đất nước trước hết bắt nguồn từ
sự thành công của một nền giáo dục. Chính vì vậy, trách nhiệm của những người
làm giáo dục không chỉ gói gọn trong việc cải sửa những chương trình học, mà đó
là đào tạo những tinh hoa để kiến tạo tương lai.
OL, 25.9.2016
-----------------------
CŨNG
ĐỌC ĐƯỢC Ở ĐÂY :
No comments:
Post a Comment