Andrew
F. Krepinevich Jr., Foreign Affairs số tháng Giêng/Hai 2015
neofob chuyển ngữ
Posted on Jun 15, 2015
Đối với quân đội Hoa Kỳ, ít ra là chuyện “xoay trục”
sang Châu Á đã xảy ra rồi. Đến năm 2020, lực lượng hải quân và không quân hoạch
định bố trí 60 phần trăm lực lượng của họ ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Ngũ
Giác Đài, trong khi đó đang đầu tư một phần lớn những máy bay ném bom tầm xa và
tàu ngầm hạt nhân được thiết kế để hoạt động trong vùng có nhiều đe dọa.
- Xem thêm Phần II
Những
sự chuyển đổi này rõ ràng có dự tính để kiềm chế một Trung Quốc ngày càng táo
tợn hơn. Hơn nữa có lý do của nó: những tuyên bố chủ quyền bành trướng của Bắc
Kinh đe dọa gần như tất cả các nước dọc theo vùng thường biết đến là “chuỗi
đảo thứ nhất” khoanh vùng nhiều phần của Nhật Bản, Philippines, và Đài
Loan—tất cả được Washington phải có bổn phận bảo vệ. Thế nhưng để ngăn chặn sự
bành trướng của Trung Quốc có hiệu quả, Ngũ Giác Đài buộc phải làm hơn nữa.
Những năng lực đang lên của Trung Quốc có chủ đích làm thui chột khả năng của
Washington lo liệu yểm trợ quân sự cho đồng minh và đối tác. Dẫu cho việc ngăn
chặn bằng viễn cảnh của trừng phạt, thông qua hình thức không tập và phong tỏa
hải quân, có một vai trò đáng kể trong việc làm nản chí chủ nghĩa phiêu lưu của
Trung Quốc, mục tiêu của Washington và đồng minh và của đối tác nên là đạt được
mục tiêu ngăn chặn bằng việc phủ nhận—để thuyết phục cho được Bắc Kinh rằng là
họ đơn giản không thể đạt được các mục tiêu bằng vũ lực.
Tận
dụng khả năng tiềm tàng của các lực lượng lục quân của Hoa Kỳ, đồng minh, và
đối tác, Washington có thể đạt được mục tiêu kể trên tốt nhất bằng việc thiết
lập một chuỗi những phòng thủ liên hoàn dọc theo chuỗi đảo thứ nhất—một “Phòng
ngự Quần đảo”—và bằng cách đó khước từ Bắc Kinh khả năng để đạt được những
mục tiêu theo chủ nghĩa xét lại thông qua xâm lược hoặc cưỡng chiếm.
Những
hiểm họa của Chủ nghĩa Xét lại
Trung
Quốc tuyên bố rằng sự trỗi dậy của họ có chủ đích hòa bình thế nhưng hành xử
của họ lại cho thấy một câu chuyện khác hẳn: rằng một cường quốc mới nổi đang
tìm cách thống lĩnh phía tây Thái Bình Dương. Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền không
chỉ đối với Đài Loan mà còn cả Quần đảo Senkaku của Nhật Bản (được biết là Điếu
Ngư Quần đảo ở Trung Quốc) và hầu hết 4.3 triệu km vuông chiếm phần lớn Biển
Hoa Đông và Nam Trung Hoa (Biển Đông–ND). Đây là nơi mà sáu quốc gia khác có
tuyên bố chủ quyền lãnh thổ và hàng hải. Và Trung Quốc chẳng ngượng ngùng gì về
chuyện theo đuổi những mục tiêu đó. Ví dụ vào năm 2010, bộ trưởng bộ ngoại giao
lúc bấy giờ là Dương Khiết Trì gạt bỏ những quan ngại về sự bành trướng của
Trung Quốc trong chớp mắt “Trung Quốc là một nước lớn và những nước khác là
nước nhỏ, và đó là một thực tế.”
Nói
đến chuyện Bắc Kinh bắt nạt các nước khác gần đây ở Biển Đông. Vào tháng 3 năm
2014, tàu hải giám của Trung Quốc ngăn cản tàu của Philippines không cho tiếp
cận các tiền đồn của họ ở Quần đảo Trường Sa. Hai tháng sau đó, Trung Quốc di
chuyển một giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, đụng độ với tàu
cá của Việt Nam. Những hành động này lặp lại những vụ trước đó ở Biển Hoa Đông.
Vào tháng 10 năm 2010, để trả đũa cho việc bắt giữ thuyền trưởng tàu đã đâm vào
hai tàu duyên của Nhật Bản, Trung Quốc tạm thời không xuất khẩu đất hiếm sang
Nhật Bản—đất hiếm là nguyên liệu cần thiết để sản xuất điện thoại di động và
máy tính. Và vào tháng 11 năm 2013, Trung Quốc đơn phương tuyên bố “vùng
nhận dạng phòng không” lên không phận thuộc quần đảo Senkaku đang trong
tranh chấp và những vùng khác của Biển Hoa Đông buộc các máy bay phải tuân theo
quy định không lưu của họ. Họ cảnh báo rằng sẽ có hành động quân sự đối với máy
bay không tuân thủ quy định của họ.
Một
số đã cho rằng một khi sức mạnh quân sự của họ lớn mạnh hơn và các nhà lãnh đạo
của họ cảm thấy an tâm hơn, Trung Quốc sẽ tiết chế những hành động như vậy. Thế
nhưng điều ngược lại xem ra có vẻ đúng hơn. Quả thực là những hành động khiêu
khích của Bắc Kinh đã trùng khớp với sự khuyếch trương dữ dội sức mạnh quân sự
của họ. Trung Quốc đang đầu tư vào một số năng lực mới mà chúng đặt ra một mối
đe dọa trực tiếp cho ổn định của khu vực. Lấy ví dụ Quân đội Giải phóng Nhân
dân (QĐGPND) Trung Quốc đang tăng cường những khả năng của cái gọi là chống xâm
nhập, phủ nhận vùng kiểm soát nhằm để ngăn chặn quân đội các nước khác khỏi
chiếm giữ hoặc di hành qua những vùng lãnh thổ trải rộng với mục đích hiển
nhiên là làm cho vùng Tây Thái Bình Dương thành một vùng không lối thoát cho
quân đội Hoa Kỳ. Điều này bao gồm chuyện phát triển những biện pháp để nhắm đến
những hệ thống bộ tư lệnh của Ngũ giác Đài mà chúng phụ thuộc mạnh mẽ vào vệ
tinh và Internet để phối hợp hành quân và hậu cần. QĐGPND đã có tiến bộ đáng kể
về mặt này trong những năm gần đây như thử nghiệm tên lửa chống vệ tinh, dùng
laser để làm mù vệ tinh của Hoa Kỳ, và phát động những vụ tấn công mạng tinh vi
vào hệ thống mạng của quốc phòng Hoa Kỳ.
Trung
Quốc cũng đang tăng cường khả năng của họ để nhắm đến những quân cụ và giới hạn
khả năng của Hải Quân Hoa Kỳ hoạt động trong hải phận quốc tế. QĐGPND đã có tên
lửa đạn đạo quy ước và tên lửa hành trình có thể đánh các cơ sở quan trọng của
Hoa Kỳ trong khu vực như Căn cứ Không quân Kadena ở Okinawa, Nhật Bản. Và họ
đang phát triển máy bay tàng hình có khả năng tấn công nhiều mục tiêu dọc theo
chuỗi đảo thứ nhất. Để phát hiện và nhắm bắn các chiến hạm ở tầm xa hơn, QĐGPND
Trung Quốc đã triển khai các trạm radar mạnh mẽ và vệ tinh do thám cùng với máy
bay không người lái có thể thi hành các nhiệm vụ trinh sát tầm xa. Và để theo
dõi các hàng không mẫu hạm cũng như các chiến hạm bảo vệ chúng, hải quân Trung
Quốc đang tậu tàu ngầm võ trang với ngư lôi tối tân và tên lửa hành trình được
thiết kế để đánh tàu tầm xa.
Những
hành động của Bắc Kinh không thể thanh minh như thể là một phản ứng đáp trả
việc tăng cường lực lượng quân sự của Hoa Kỳ. Trong thập niên vừa qua,
Washington đã tập trung sức lực và tài nguyên chủ yếu vào việc yểm trợ quân đội
ở Afghanistan và Iraq. Ngân sách quốc phòng của Hoa Kỳ, chiếm ở mức trên bốn
phần trăm GDP của quốc gia trong những năm gần đây, được dự đoán là sẽ sụt giảm
xuống dưới hơn ba phần trăm vào cuối thập niên này. Nói đơn giản là Ngũ giác
Đài đang cắt giảm các năng lực quân sự trong khi QĐGPND [Trung
Quốc] thì đang tăng cường chúng.
Dẫu
cho nếu quá khứ là đoạn mở đầu, Trung Quốc sẽ không tìm cách giải quyết những
mục tiêu bành trướng của họ bằng gây hấn công khai. Chiếu theo tập quán chiến
lược của họ, họ muốn chậm mà chắc dịch chuyển cán cân lực lượng quân sự khu vực
theo chiều có lợi cho họ. Điều này nhằm để khu vực chẳng có lựa chọn nào khác
ngoài chuyện phục tùng cưỡng bức của Trung Quốc. Phần nhiều là các quốc gia
láng giềng của Trung Quốc tin rằng cam kết ngoại giao và ràng buộc kinh tế sẽ
chẳng làm suy chuyển thực tế đơn giản này. Nhiều quốc gia trong số đó, kể cả
Nhật Bản, Philippines, và Việt Nam, đang tăng cường chú trọng quân đội của họ
vào nhiệm vụ chống lại những tham vọng quân sự của Trung Quốc. Họ biết rõ mười
mươi là những hành động riêng lẻ sẽ không đủ để ngăn chặn Bắc Kinh khỏi việc
xúc tiến tham vọng của họ. Chỉ có yểm trợ trang thiết bị của Hoa Kỳ họ mới có
thể thiết lập một mặt trận chung nhằm ngăn chặn Trung Quốc khỏi những hành động
xâm lược hoặc cưỡng chiếm.
Ngăn
chặn bằng việc Khước từ
Nếu
Washington muốn làm thay đổi tính toán của Bắc Kinh, họ phải phủ nhận Trung
Quốc khả năng kiểm soát không phận và hải phận quanh chuỗi đảo thứ nhất. Do là
QĐGPND [Trung Quốc] sẽ phải làm chủ cả hai chiến trường kể trên để cô lập quần
đảo. Hoa Kỳ cũng phải tích hợp hệ thống chiến trường của đồng minh và tăng
cường khả năng của họ—cả hai sẽ hỗ trợ cho việc cân bằng những nỗ lực của
QĐGPND nhằm phá vỡ sự ổn định của cân bằng quân sự khu vực. Nói chung thì những
mục tiêu đó có thể đạt được bằng các lực lượng trên bộ mà chúng sẽ không thay
thế những lực lượng không quân và hải quân mà hỗ trợ họ thêm.
Khi
nói đến phòng không, các quốc gia dọc theo chuỗi đảo thứ nhất có thể củng cố
khả năng của họ để phủ nhận kiểm soát của Trung Quốc đối với không phận bằng
việc triển khai các đơn vị lục quân trang bị với tên lửa đánh chặn tầm ngắn cơ
động và tương đối đơn giản (ví dụ như tên lửa Evolved Sea Sparrow–Én Biển đời
mới–yểm trợ bởi các hệ thống radar GIRAFFE để phát hiện mục tiêu). Trong khi đó
Lục quân Hoa Kỳ, cùng với các đồng minh như Nhật Bản, có thể sử dụng các hệ
thống tầm xa tinh vi hơn có khả năng đánh chặn các tên lửa hành trình của Trung
Quốc và hủy diệt các máy bay tối tân của họ. Cho dù không thuộc chuỗi đảo thứ
nhất, Việt Nam đã đang nâng cấp khả năng chống xâm nhập không phận và có thể hỗ
trợ vào nỗ lực phòng thủ chung lớn hơn.
Rồi
thì còn có nhiệm vụ khước từ QĐGPND quyền kiểm soát hải phận mà họ sẽ cần để
tiến hành những cuộc hành quân tấn công các hòn đảo. Các thành viên thâm niên
của Quốc hội đã khuyến khích Lục quân Hoa Kỳ xem xét phục hồi lại lực lượng
pháo binh cho phòng vệ duyên hải, một nhiệm vụ mà họ đã từ bỏ sau Đệ Nhị Thế
Chiến. Ý tưởng thì thật đơn giản và có tính thuyết phục. Thay vì phải mạo hiểm
phái tàu chiến vào trong tầm của lực lượng phòng thủ của QĐGPND hoặc tái phối
trí tàu ngầm từ những nhiệm vụ quan trọng hơn, Hoa Kỳ và các đồng minh có thể dựa
vào các lực lượng lục quân có căn cứ dọc theo chuỗi đảo thứ nhất và vũ trang
với các bệ phóng lưu động và tên lửa chống hạm để đảm nhiệm các sứ mệnh như
vậy. Quân đội Nhật Bản đã làm y như vậy; họ triển khai những đơn vị tên lửa
hành trình chống hạm ở ven bờ ở một số đảo của quần đảo Ryukyu trong những cuộc
tập trận. Việt Nam đã triển khai những hệ thống tương tự. Các quốc gia tiền
phương khác có thể theo đó mà làm một cách độc lập hoặc là với sự hỗ trợ tài
chính, huấn luyện, và kỹ thuật của Hoa Kỳ.
Một
sứ mệnh khác mà lục quân của Hoa Kỳ và đồng minh có thể đóng góp là chiến tranh
thủy lôi. Truyền thống mà nói thì tàu hải quân đặt mìn và phá mìn để giới hạn
hoặc cho phép quá cảnh qua các vùng biển hẹp và eo biển. Cho dù việc phá mìn sẽ
vẫn là nhiệm vụ của hải quân, các lực lượng lục quân có thể đóng góp một vai
trò lớn hơn vào việc thả mìn, đặc biệt là nếu họ đóng quân gần các eo biển nối
liền biển Hoa Đông và Nam Trung Hoa (Biển Đông–ND) đến đại dương. Vũ trang với
khả năng đặt mìn từ những căn cứ từ đất liền bằng cách sử dụng tên lửa tầm
ngắn, trực thăng, hoặc sà lan. Các lực lượng lục quân của Hoa Kỳ và đồng minh
có thể làm cho một vùng biển rộng nằm ngoài tầm với cho Hải quân Trung Quốc.
Các bãi mìn ở những nút cổ chai then chốt dọc theo chuỗi đảo thứ nhất sẽ gây
rắc rối cho thế tấn công trên biển của Trung Quốc và cản trở khả năng của Trung
Quốc quấy rối các lực lượng hải quân của đồng minh. Các khẩu đội tên lửa chống
tàu ven bờ biển, trong khi ấy có thể làm cho cuộc hành quân phá mìn của chiến
hạm QĐGPND rủi ro.
Về
lâu về dài thì những lực lượng lục quân cũng có thể yểm trợ cho các cuộc hành
quân chống lại lực lượng tàu ngầm đang lớn mạnh của Trung Quốc. Một tàu ngầm
cốt dựa vào sự bí mật để phòng ngự; một khi bị phát hiện, nó phải lẩn tránh
đụng độ hoặc là chuẩn bị nguy cơ cao bị hủy diệt. Bằng cách đặt các thiết bị
thu nhận tần số thấp và thu âm ở vùng biển quanh chuỗi quần đảo thứ nhất, Hoa
Kỳ và đồng minh có thể bổ sung khả năng của họ nhằm phát hiện sự hiện diện của
tàu ngầm Trung Quốc. Các đơn vị pháp binh duyên hải tiếp theo có thể dùng các
ngư lôi phóng từ hỏa tiễn để buộc các tàu ngầm hủy bỏ nhiệm vụ và rút lui.
Nếu
Trung Quốc xâm chiếm một đồng minh hoặc đối tác của Hoa Kỳ, ngay cả một lực
lượng nhỏ lục quân cũng có thể yểm trợ các lực lượng địa phương kháng cự mãnh
liệt. Những cuộc xung đột gần đây ở Đông Nam Á và Trung Đông đã cho thấy rằng
những kết quả gì một lực lượng lục quân không chính quy cỡ trung bình có thể
gặt hái được nhờ sự yểm trợ của vũ khí hiện đại và các cố vấn có khả năng. Nhờ sự
trợ giúp của các cố vấn Hoa Kỳ và không lực, một quân đội miền Nam Việt Nam bị
áp đảo về quân số co thể chống trả lại một cuộc tấn công toàn diện bởi các lực
lượng Bắc Việt vào năm 1972. Gần ba thập niên sau đó, vào năm 2001, một lực
lượng nhỏ Đặc Nhiệm Biệt phái của Hoa Kỳ, yểm trợ bởi máy bay cường kích, đã
giúp Lực lượng Liên minh Phương Bắc Afghanistan đánh bại Taliban. Và vào năm
2006, các chiến binh Hezbollah ở Lebanon với sự giúp đỡ của các cố vấn Iran, đã
đánh cho Lực lượng Phòng Vệ Do Thái đến chỗ bế tắc trong một tháng. Một nỗ lực
tương tự ở Thái Bình Dương của các lực lượng lục quân Hoa Kỳ có thể khiến cho
chuyện xâm chiếm và chiếm đóng lãnh thổ là chuyện phải trả giá cực kỳ đắt cho
Trung Quốc, đặc biệt là nếu các lực lượng địa phương cũng được huấn luyện kỹ
càng và trang bị tốt. Có súng cối, tên lửa, và hỏa tiễn phòng không vác vai tầm
ngắn và dẫn đường chính xác sẽ tối đa hóa tầm sát thương của các đơn vị du kích
nhỏ.
Bằng
việc gánh vác trách nhiệm lớn hơn cho chuyện khước từ QĐGPND kiểm soát không
phận và hải phận mà họ cần để triển khai các cuộc hành quân tấn công, các lực
lượng lục quân có thể giải vây cho các lực lượng không quân và hải quân của Hoa
Kỳ và đồng minh để thi hành các nhiệm vụ mà chỉ có họ có thể hoàn thành như
viễn thám và không tập. Giả như chuyện ngăn chặn không thành, những lực lượng
không quân và hải quân sẽ là then chốt để phòng thủ chuồi quần đảo thứ nhất và
cân bằng những lợi thế của QĐGPND. Lấy ví dụ, QĐGPND có thể tập trung lực lượng
ở bất kỳ điểm nào dọc theo chuỗi quần đảo thứ nhất nhanh chóng hơn Hoa Kỳ và
đồng minh vì họ có quân đội phân tán mỏng hơn. Và họ không cần phải lo về những
lợi ích quốc gia trái ngược nhau. (Trong trường hợp bị Trung Quốc tấn công cấp
tập vào một hòn đảo, những quốc gia dọc theo chuỗi quần đảo sẽ có khuynh hướng
cầm chân những lực lượng của họ để phòng thủ quê nhà của họ.) Bằng cách giảm
thiểu chuyện cần đến các lực lượng không quân và hải quân cho những nhiệm vụ
như chống xâm nhập không và hải phận, các lực lượng lục quân sẽ cho phép những
lực lượng không quân và hải quân ở vị trí dự bị, sẵn sàng nhanh chóng tiến vào
bảo vệ những nút bị đe dọa trong chuỗi đảo.
Còn
tiếp…
*
*
Andrew F. Krepinevich Jr., Foreign Affairs số tháng Giêng/Hai 2015
Đối với quân đội Hoa Kỳ, ít ra là chuyện “xoay trục”
sang Châu Á đã xảy ra rồi. Đến năm 2020, lực lượng hải quân và không quân hoạch
định bố trí 60 phần trăm lực lượng của họ ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Ngũ
Giác Đài, trong khi đó đang đầu tư một phần lớn những máy bay ném bom tầm xa và
tàu ngầm hạt nhân được thiết kế để hoạt động trong vùng có nhiều đe dọa.
- Xem thêm Phần I
Ngăn
chặn bằng việc Khước từ
Nếu Washington muốn làm thay đổi tính toán của Bắc Kinh,
họ phải phủ nhận Trung Quốc khả năng kiểm soát không phận và hải phận quanh chuỗi
đảo thứ nhất. Do là QĐGPND [Trung Quốc] sẽ phải làm chủ cả hai chiến trường kể
trên để cô lập quần đảo. Hoa Kỳ cũng phải tích hợp hệ thống chiến trường của đồng
minh và tăng cường khả năng của họ—cả hai sẽ hỗ trợ cho việc cân bằng những nỗ
lực của QĐGPND nhằm phá vỡ sự ổn định của cân bằng quân sự khu vực. Nói chung
thì những mục tiêu đó có thể đạt được bằng các lực lượng trên bộ mà chúng sẽ
không thay thế những lực lượng không quân và hải quân mà hỗ trợ họ thêm.
Khi nói đến phòng không, các quốc gia dọc theo chuỗi
đảo thứ nhất có thể củng cố khả năng của họ để phủ nhận kiểm soát của Trung Quốc
đối với không phận bằng việc triển khai các đơn vị lục quân trang bị với tên lửa
đánh chặn tầm ngắn cơ động và tương đối đơn giản (ví dụ như tên lửa Evolved Sea
Sparrow–Én Biển đời mới–yểm trợ bởi các hệ thống radar GIRAFFE để phát hiện mục
tiêu). Trong khi đó Lục quân Hoa Kỳ, cùng với các đồng minh như Nhật Bản, có thể
sử dụng các hệ thống tầm xa tinh vi hơn có khả năng đánh chặn các tên lửa hành
trình của Trung Quốc và hủy diệt các máy bay tối tân của họ. Cho dù không thuộc
chuỗi đảo thứ nhất, Việt Nam đã đang nâng cấp khả năng chống xâm nhập không phận
và có thể hỗ trợ vào nỗ lực phòng thủ chung lớn hơn.
Rồi thì còn có nhiệm vụ khước từ QĐGPND quyền kiểm
soát hải phận mà họ sẽ cần để tiến hành những cuộc hành quân tấn công các hòn đảo.
Các thành viên thâm niên của Quốc hội đã khuyến khích Lục quân Hoa Kỳ xem xét
phục hồi lại lực lượng pháo binh cho phòng vệ duyên hải, một nhiệm vụ mà họ đã
từ bỏ sau Đệ Nhị Thế Chiến. Ý tưởng thì thật đơn giản và có tính thuyết phục.
Thay vì phải mạo hiểm phái tàu chiến vào trong tầm của lực lượng phòng thủ của
QĐGPND hoặc tái phối trí tàu ngầm từ những nhiệm vụ quan trọng hơn, Hoa Kỳ và
các đồng minh có thể dựa vào các lực lượng lục quân có căn cứ dọc theo chuỗi đảo
thứ nhất và vũ trang với các bệ phóng lưu động và tên lửa chống hạm để đảm nhiệm
các sứ mệnh như vậy. Quân đội Nhật Bản đã làm y như vậy; họ triển khai những
đơn vị tên lửa hành trình chống hạm ở ven bờ ở một số đảo của quần đảo Ryukyu
trong những cuộc tập trận. Việt Nam đã triển khai những hệ thống tương tự. Các
quốc gia tiền phương khác có thể theo đó mà làm một cách độc lập hoặc là với sự
hỗ trợ tài chính, huấn luyện, và kỹ thuật của Hoa Kỳ.
Một sứ mệnh khác mà lục quân của Hoa Kỳ và đồng minh
có thể đóng góp là chiến tranh thủy lôi. Truyền thống mà nói thì tàu hải quân đặt
mìn và phá mìn để giới hạn hoặc cho phép quá cảnh qua các vùng biển hẹp và eo
biển. Cho dù việc phá mìn sẽ vẫn là nhiệm vụ của hải quân, các lực lượng lục
quân có thể đóng góp một vai trò lớn hơn vào việc thả mìn, đặc biệt là nếu họ
đóng quân gần các eo biển nối liền biển Hoa Đông và Nam Trung Hoa (Biển
Đông–ND) đến đại dương. Vũ trang với khả năng đặt mìn từ những căn cứ từ đất liền
bằng cách sử dụng tên lửa tầm ngắn, trực thăng, hoặc sà lan. Các lực lượng lục
quân của Hoa Kỳ và đồng minh có thể làm cho một vùng biển rộng nằm ngoài tầm với
cho Hải quân Trung Quốc. Các bãi mìn ở những nút cổ chai then chốt dọc theo chuỗi
đảo thứ nhất sẽ gây rắc rối cho thế tấn công trên biển của Trung Quốc và cản trở
khả năng của Trung Quốc quấy rối các lực lượng hải quân của đồng minh. Các khẩu
đội tên lửa chống tàu ven bờ biển, trong khi ấy có thể làm cho cuộc hành quân
phá mìn của chiến hạm QĐGPND rủi ro.
Về lâu về dài thì những lực lượng lục quân cũng có
thể yểm trợ cho các cuộc hành quân chống lại lực lượng tàu ngầm đang lớn mạnh của
Trung Quốc. Một tàu ngầm cốt dựa vào sự bí mật để phòng ngự; một khi bị phát hiện,
nó phải lẩn tránh đụng độ hoặc là chuẩn bị nguy cơ cao bị hủy diệt. Bằng cách đặt
các thiết bị thu nhận tần số thấp và thu âm ở vùng biển quanh chuỗi quần đảo thứ
nhất, Hoa Kỳ và đồng minh có thể bổ sung khả năng của họ nhằm phát hiện sự hiện
diện của tàu ngầm Trung Quốc. Các đơn vị pháp binh duyên hải tiếp theo có thể
dùng các ngư lôi phóng từ hỏa tiễn để buộc các tàu ngầm hủy bỏ nhiệm vụ và rút
lui.
Nếu Trung Quốc xâm chiếm một đồng minh hoặc đối tác
của Hoa Kỳ, ngay cả một lực lượng nhỏ lục quân cũng có thể yểm trợ các lực lượng
địa phương kháng cự mãnh liệt. Những cuộc xung đột gần đây ở Đông Nam Á và
Trung Đông đã cho thấy rằng những kết quả gì một lực lượng lục quân không chính
quy cỡ trung bình có thể gặt hái được nhờ sự yểm trợ của vũ khí hiện đại và các
cố vấn có khả năng. Nhờ sự trợ giúp của các cố vấn Hoa Kỳ và không lực, một
quân đội miền Nam Việt Nam bị áp đảo về quân số co thể chống trả lại một cuộc tấn
công toàn diện bởi các lực lượng Bắc Việt vào năm 1972. Gần ba thập niên sau
đó, vào năm 2001, một lực lượng nhỏ Đặc Nhiệm Biệt phái của Hoa Kỳ, yểm trợ bởi
máy bay cường kích, đã giúp Lực lượng Liên minh Phương Bắc Afghanistan đánh bại
Taliban. Và vào năm 2006, các chiến binh Hezbollah ở Lebanon với sự giúp đỡ của
các cố vấn Iran, đã đánh cho Lực lượng Phòng Vệ Do Thái đến chỗ bế tắc trong một
tháng. Một nỗ lực tương tự ở Thái Bình Dương của các lực lượng lục quân Hoa Kỳ
có thể khiến cho chuyện xâm chiếm và chiếm đóng lãnh thổ là chuyện phải trả giá
cực kỳ đắt cho Trung Quốc, đặc biệt là nếu các lực lượng địa phương cũng được
huấn luyện kỹ càng và trang bị tốt. Có súng cối, tên lửa, và hỏa tiễn phòng
không vác vai tầm ngắn và dẫn đường chính xác sẽ tối đa hóa tầm sát thương của
các đơn vị du kích nhỏ.
Bằng việc gánh vác trách nhiệm lớn hơn cho chuyện
khước từ QĐGPND kiểm soát không phận và hải phận mà họ cần để triển khai các cuộc
hành quân tấn công, các lực lượng lục quân có thể giải vây cho các lực lượng
không quân và hải quân của Hoa Kỳ và đồng minh để thi hành các nhiệm vụ mà chỉ
có họ có thể hoàn thành như viễn thám và không tập. Giả như chuyện ngăn chặn
không thành, những lực lượng không quân và hải quân sẽ là then chốt để phòng thủ
chuồi quần đảo thứ nhất và cân bằng những lợi thế của QĐGPND. Lấy ví dụ, QĐGPND
có thể tập trung lực lượng ở bất kỳ điểm nào dọc theo chuỗi quần đảo thứ nhất
nhanh chóng hơn Hoa Kỳ và đồng minh vì họ có quân đội phân tán mỏng hơn. Và họ
không cần phải lo về những lợi ích quốc gia trái ngược nhau. (Trong trường hợp
bị Trung Quốc tấn công cấp tập vào một hòn đảo, những quốc gia dọc theo chuỗi
quần đảo sẽ có khuynh hướng cầm chân những lực lượng của họ để phòng thủ quê
nhà của họ.) Bằng cách giảm thiểu chuyện cần đến các lực lượng không quân và hải
quân cho những nhiệm vụ như chống xâm nhập không và hải phận, các lực lượng lục
quân sẽ cho phép những lực lượng không quân và hải quân ở vị trí dự bị, sẵn
sàng nhanh chóng tiến vào bảo vệ những nút bị đe dọa trong chuỗi đảo.
Để thành công, một chính sách ngăn chặn cũng cần có
một đe dọa trả đũa khả dĩ một khi quân đội có mặt, và trong trường hợp này, các
lực lượng lục quân có thể yểm trợ cho chuyện này. Vào thời điểm này, những vũ
khí của Hoa Kỳ mà có thể giáng trả chính xác một cuộc tấn công đang được đóng
quân tại các căn cứ tiền phương và hàng không mẫu hạm ngày càng bị dễ bị tấn
công. Ngũ giác Đài có kế hoạch cho những vấn đề này bằng cách đóng những tàu ngầm
mới và sản xuất những máy bay tàng hình tầm xa nhưng giá thành cho những vũ khí
như vậy là đắt đỏ đặc biệt là tính đến trọng tải vừa phải của chúng. Các lực lượng
lục quân, nếu so ra, có thể đem đến một giải pháp ít tốn kém hơn để hỗ trợ hỏa
lực. Không như các lực lượng không quân và hải quân, các lực lượng lục quân
không cần phải quay trở lại những căn cứ xa xăm để nạp đạn lại. Họ có thể dự trữ
đạn nhiều hơn so với cả máy bay ném bom hay chiến hạm lớn nhất. Và họ có thể chứa
chúng ở những boong-ke kiên cố để được che chở chắc chắn hơn khỏi bị tấn công.
Hơn nữa, trong trường hợp có xung đột, QĐGPND sẽ có
lợi thế đáng kể: họ có một lực lượng khổng lồ các tên lửa tầm ngắn và tầm trung
có căn cứ trên bộ. Hoa Kỳ, do là đã ký kết Hiệp ước về Lực lượng Vũ khí Hạt
nhân tầm Trung, không thể triển khai những hệ thống này. Dẫu vậy bằng cách
trang bị các lực lượng lục quân với những tên lửa tương đối rẻ tiền mà vẫn tuân
theo những giới hạn về cự ly và bằng cách bố trí chúng dọc theo chuỗi đảo thứ
nhất để cắt giảm chi phí cho việc phóng hỏa tiễn tầm xa, Washington và các đồng
minh có thể thuận buồm xuôi gió trong việc điều chỉnh chuyện bất cân bằng quyền
lực với chi phí thấp. Và nếu lục quân không thể hành quân nhanh chóng để đối
phó với một sự cố chọc thủng phòng tuyến của phòng ngự quần đảo, những lực lượng
gần đó có thể nhanh chóng đối phó bằng cách tập trung hỏa lực hỏa tiễn vào vùng
bị đe dọa.
Có lẽ điểm yếu nhất của chuỗi quần đảo thứ nhất là hệ
thống mạng chiến trường của Hoa Kỳ—những hệ thống then chốt mà có thể đảm trách
mọi thứ từ điều quân và kiểm soát binh sĩ và hậu cần cho đến dẫn đường vũ khí.
Hệ thống này hiện nay dựa chủ yếu vào vệ tinh và các máy bay không người lái điều
mà QĐGPND có thể triệt hạ được. Các tốt nhất để giảm thiểu mối nguy đó là thiết
lập một mạng lưới viễn thông dựa vào cáp quang được chông dưới đất và lòng biển
dọc theo chuỗi đảo cho phép những lực lượng trong tình trạng nguy cấp có thể
thu phát dữ liệu một cách an toàn từ những trung tâm hành quân từ đất liền. Các
lực lượng phòng không và chống xâm nhập đường biển đóng ở đảo cũng như những
bãi mìn chống hạm có thể bảo vệ các đường cáp quang chạy giữa các hòn đảo.
Biến
Mục đích thành Thành tựu
Cũng như với bất cứ khái niệm hành quân nào, Phòng
ngự Quần đảo đối mặt với nhiều chướng ngại. Hai điểm lớn nhất là tài chính và địa
chính trị: chi phí trong tương lai và ý chí của các quốc gia hợp tác dọc theo
chuỗi quần đảo thứ nhất. Thế nhưng cho dù cái giá phải trả cho tình hình mới, cộng
đồng quốc phòng ở Hoa Kỳ bắt đầu nhận ra rằng những dự tính cắt giảm ngân sách
cho Ngũ giác Đài không tương xứng với tình hình an ninh ngày càng nguy hiểm.
Nhóm Quốc phòng (The National Defense Panel–ND), một nhóm không đảng phái bao gồm
những chuyên gia quốc phòng Hoa Kỳ, gần đây cho ra đề nghị rằng chính phủ Obama
và Quốc Hội khôi phục chi tiêu quốc phòng trở lại mức được dự tính trong ngân
sách của Ngũ giác Đài vào năm 2012. Chấp nhận đề nghị đó sẽ gia tăng đáng kể
các nguồn lực của Ngũ giác Đài trong thập niên tới.
Ngũ giác Đài cũng có thể đưa ra lý lẽ rằng đầu tư
vào Phòng ngự Quần đảo có thể gặt hái những kết quả trong tương lai xa hơn khỏi
vùng tây Thái Bình Dương. Lấy ví dụ khái niệm Chiến trường Không Địa, được phát
triển vào thập niên 1970 đã giúp ngăn chặn Khối Warsaw khỏi tấn công NATO, đã
thành công không chỉ ở trung Âu mà Hoa Kỳ và đồng minh còn dựa vào nó ở một dạng
khác trong cuộc chiến vùng Vịnh Ba Tư 1990-1991. Tương tự, Ngũ giác Đài có thể
sử dụng những khả năng liên quan đến Phòng ngự Quần đảo để phòng thủ những vùng
trọng yếu khác bao gồm đồng minh và đối tác gần vùng Vịnh Ba Tư và Biển Baltic.
Nếu Bộ Quốc Phòng không thể có gia tăng ngân sách, họ
vẫn có thể có những thay đổi để đáp ứng vị thế mới cho tình hình an ninh hiện
nay. Lấy cho ngay một ví dụ, Ngũ giác Đài vẫn có thể biệt phái một phần lớn lực
lượng lục quân dành để bảo vệ Nam Triều Tiên khỏi một cuộc tấn công từ Bắc Triều
Tiên. Dẫu cho một cuộc xâm lược quy mô là không chắc chắn; hiểm họa lớn nhất là
Bình Nhưỡng có thể mở đầu một cuộc tấn công với tên lửa mang đầu đạn hạt nhân
hoặc hóa học. Dù gì đi nữa thì Nam Triều Tiên có dân số đông gấp hai và thu nhập
đầu người gấp 15 lần đối phương. Seoul có thể và nên chung vai một phần đáng kể
của gánh nặng quốc phòng của họ để chống lại một cuộc xâm lược truyền thống
trên bộ.
Ngay cả với những nguồn lực thích hợp, đối phó với một
trùng dương sóng cuộn bao gồm những đồng minh khu vực và đối tác sẽ không khỏi
đặt ra những thử thách. Những lực lượng lục quân Hoa Kỳ sẽ phải đóng nhiều vai
trò khác nhau tùy theo quốc gia. Nhật Bản, với những năng lực kinh khủng, có thể
lo liệu phòng thủ trên bộ mà không cần nhiều yểm trợ từ Hoa Kỳ. Trái lại, các lực
lượng lục quân Hoa Kỳ sẽ có thể cần đóng một vai trò lớn hơn ở Philippines. Ở cả
hai quốc gia, một sự hiện diện lớn hơn của lục quân Hoa Kỳ sẽ đem lại một cam
đoan mà lực lượng không quân và hải quân, mà họ có thể rút lui nhanh chóng,
không thể đem lại. Đài Loan, trong khi đó, do không có quan hệ ngoại giao với
Hoa Kỳ, sẽ phải hành động với ít hay không có sự yểm trợ.
Nhiều quốc gia, đặc biệt là Nhật Bản và Việt Nam, đã
gợi ý rằng họ nghiêm túc về chuyện triển khai các công sự phòng ngự chắc chắn
cho Phòng ngự Quần đảo. Các quốc gia khác ngoài chuỗi quần đảo thứ nhất bao gồm
Úc và Singapore tỏ ra có ý lo liệu căn cứ và yểm trợ hậu cần. Thế nhưng cũng
như NATO mất hơn một thập niên để thiết lập một ngăn chặn truyền thống thứ dữ đối
với Khối Warsaw, Hoa Kỳ và đồng minh không thể thiết lập Phòng ngự Quần đảo
trong nay mai.
Theo đuổi chiến lược ngay bây giờ sẽ có lợi thế của
việc cho phép Washington và các quốc gia thân thiện trang trải chi phí của việc
triển khai những lực lượng như vậy về lâu dài. Trong khi đó, với chuyện cạnh
tranh quân sự đang diễn ra, Hoa Kỳ và đồng minh dọc theo chuỗi quần đảo thứ nhất
phải có một nỗ lực vững chắc và bền bỉ để duy trì ổn định và thịnh vượng của
khu vực. Dĩ nhiên, Phòng ngự Quần đảo sẽ chẳng đem lại một phương thuốc trị bá
bệnh chống lại tất cả những hình thức gây hấn khác nhau của Trung Quốc hơn là
ngăn chặn truyền thống của NATO đã giải quyết những vấn đề đặt ra bởi những cuộc
chiến tranh giải phóng dân tộc và sự tăng cường lực lượng hạt nhân của Moscow.
Thế nhưng thiết lập một tư thế như vậy sẽ cho thấy một bước đi chính yếu—nếu
không nói là hơi trễ—đầu tiên trong việc đối trọng những tham vọng xét lại của
Trung Quốc.
No comments:
Post a Comment