Trọng Đạt
Mao Trạch Đông (Mao Zedong)
Cũng như Nga sô, Trung Hoa là một
đất nước rộng mênh mông, một dân tộc vĩ đại chịu nhiều bất hạnh, khác với lịch
sử hiền hòa của nước láng giềng rộng lớn Ấn Độ, nước Tầu trải qua nhiều cuộc
chiến tranh, loạn lạc suốt từ thời Xuân Thu Chiến Quốc từ thế kỷ thừ bẩy tới thứ
hai trước Tây lịch. Thời nhà Tần, thế kỷ thứ hai sau Tây lịch diễn ra trận chiến
Hán Sở tranh hùng, sau đó thời Tam Quốc cuộc chiến tranh quyền và nhà Tống,
Nguyên, Minh… chống quân du mục Mông Cổ. Tới nay Mao Trạch Đông rước Cộng Sản về
gây nên nhiều cuộc chiến tranh, cách mạng tàn phá đất nước.
Mao sinh ngày 26-12-1893 mất
ngày 9-9-1976, ông là Chủ tịch Đảng Cộng Sản Trung Hoa từ 1943 cho tới khi chết
năm 1976. Mao thắng Tưởng Giới Thạch năm 1949, là người sáng lập chủ nghĩa Mác
Lê theo kiểu Tầu gọi là Mao ít (Maoism). Mao có công thống nhất nước Tầu nhưng
ông ta gây nạn đói năm 1959-1961 và phát động Cách mạng văn hóa làm nhiều triệu
người chết.
Năm 1918 Mao tốt nghiệp sư phạm
tỉnh Hồ Nam, năm 1921 tham gia lập đảng CS Trung Quốc tại Thượng Hải, hai năm
sau ông được bầu vào Ban chấp hành Trung ương gồm có năm người. Năm 1924 Quốc Cộng
hợp tác, năm 1926 Tưởng Giới Thạch quay ra đàn áp CS khiến Mao và tàn quân du
kích chừng 1,000 người họp với quân Chu Đức lập căn cứ tại nơi giáp ranh hai tỉnh
Hồ Nam và Giang Tây năm 1928. Tại nơi đây từ 1931-1934 Mao thành lập nhà nước Cộng
hòa Sô Viết Trung hoa, ông được bầu làm Chủ tịch Chính phủ trung ương lâm thời.
Nội bộ đảng tranh quyền, phe theo Nga gồm 28 người thắng, Mao bị gạt ra ngoài.
Tháng 10-1934 Tưởng Giới Thạch
đem 50 vạn quân bao vây khu Sô Viết trung ương khiến Hồng quân phải mở đường
máu tiến hành cuộc Vạn lý trường chinh gian khổ vượt 9,600 km suốt một năm trời
tới tỉnh Thiểm Tây ở phía bắc lập căn cứ mới. Mao và các đồng chí phải di cư
lên miền Bắc để được CS Nga giúp đỡ.
Tháng 1-1935 Mao được bầu vào
Ban thường vụ Bộ chính trị, nắm quyền thực sự và năm 1943, ông được bầu làm Chủ
tịch Bộ chính trị đảng CS Tầu. Tại căn cứ Diên An những năm 1937-1945 Mao lãnh
đạo kháng chiến chống Nhật và hợp tác Quốc-Cộng. Tháng 6-1945 Mao được bầu làm
Chủ tịch ban chấp hành Trung ương đảng CS, tại đây Mao ly thân với vợ hai để lấy
Lam Bình sau gọi là Giang Thanh.
Thế chiến thứ hai gần kết thúc,
ngày 6 và 9 tháng 8-1945 Mỹ ném bom nguyên tử xuống hai thành phố lớn ở Nhật,
ngay sau đó một triệu rưỡi quân Nga tấn công lộ quân Quân Đông Nhật tại Mãn
Châu. Sô Viết chỉ nhẩy vào ăn có sau khi Mỹ đã ném bom nguyên tử, gần một triệu
quân Nhật đầu hàng. Người Nga lấy kho vũ khí to lớn của Nhật kể cả xe tăng thiết
giáp giao cho Mao Trạch Đông, thật là giáo vào tay giặc.
Sau Thế chiến thứ hai, Tưởng giới
Thạch muốn tấn công tiêu diệt giang sơn của Mao tại Mãn châu, tại đây CS Tầu chỉ
kiểm soát được một phần tư đất đai và một phần ba dân số. Nga đề nghị Mỹ ép Tưởng
ký kết hòa bình với Mao lấy cớ nhân dân đã khốn khổ nhiều. Quốc Cộng hòa hoãn đầu
năm 1946 nhưng chỉ được 6 tháng thì nội chiến bùng nổ. Tưởng đưa hơn đưa 1 triệu
6 trăm ngàn quân từ miền nam lên căn cứ Mao tạo Mãn châu, Cộng quân đánh du
kích tiêu hao Quốc Dân Đảng (QDĐ), vì xa căn cứ nên thiếu tiếp liệu, Tưởng Giới
Thạch thất thế, thua mất cả triệu quân. Năm 1948 Cộng quân thắng thế, QDĐ ở thế
thủ, dần dân xa cách Mỹ, Cộng quân chiếm được nhiều thành phố lớn Hoa Bắc như
Thẩm Dương và Trường Xuân, họ chiếm Mãn châu hoàn toàn. Mao tiêu diệt được 144
sư đoàn thiện chiến của QDĐ. Cuối năm 1948, Tưởng cho phu nhân bà Tống Mỹ Linh
sang Mỹ xin viện trợ nhưng họ lờ đi không đáp ứng.
Ngày 1 tháng 10 năm 1949, Mao
Trạch Đông tuyên bố thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, thủ đô là Bắc Bình, nay đổi là Bắc Kinh. Cuối năm 1949 Tưởng và khoảng 2 triệu Quốc Dân
Đảng chạy ra đảo Đài Loan.
Dư luận Mỹ chỉ trích, lên án Tổng
thống Truman đã để CS chiếm Trung Hoa. Thượng nghị sĩ Joe McCarthy cho rằng việc
ngăn chận CS Tầu cần phải viện trợ nhiều hơn và có lẽ phải dùng cả không lực.
Người ta bắt đầu hỏi ai đã làm mất Trung Hoa? Tỷ lệ ủng hộ Truman từ 70% xuống
còn 35%. Bộ trưởng ngoại giao của Truman bị coi là thằng hèn, Tướng George
Marshall, ông Bộ trưởng ngoại giao tiền nhiệm bị coi là tên phản bội.
Dư luận chê Tưởng có một lực lượng
hùng hậu, được Mỹ viện trợ 4 tỷ đô la quân sự nhưng lại bị Cộng quân yếu hơn
đánh bại, họ nói Tưởng mất lòng dân, trong khi Hồng quân tuyên truyền nhiều người
theo.
Có tài liệu nói sau Thế chiến,
cán cân quân sự nghiêng về Mao. Chủ lực quân của họ tăng lên 1 triệu 2 và 2 triệu
du kích. Vùng kiểm soát của họ chiếm 1/4 lãnh thổ Trung Hoa gồm nhiều tỉnh
thành quan trọng. Ngoài ra Nga Sô đã giúp CS Tầu nhiều vũ khí. QDĐ chống quân
Nhật hồi Thế chiến thứ hai đã bị mất nhiều đơn vị tinh nhuệ trong những trận
đánh lớn khi ấy CS Tầu ít thiệt hại, họ ít đụng chạm Nhật. Sau Thế chiến, Mỹ
không thực sự giúp Tưởng thắng Hồng quân vì vai trò chống Nhật của QDĐ đã hết.
Mao chiếm được Hoa lục làm lệch
cán cân quân sự quốc tế của hai phe CS và Thế giới tự do đã đưa tới các cuộc
chiến đẫm máu khác ngay trong năm sau.
Giữa năm 1950 Nga Sô, Trung Cộng
giúp Bắc Hàn xâm lược Nam Triều Tiên khiến Mỹ phải đưa quân vào, cuộc chiến tàn
khốc tới tháng 7-1953 thì Triều Tiên đình chiến. Từ 1950 Mao giúp Việt Minh chống
Pháp thắng lợi, sau 8 năm khói lửa, Pháp bại trận tại Điện Biên Phủ tháng
5-1954. Người Mỹ để mất Trung Hoa đưa tới nhiều hậu quả thảm khốc.
Từ 1949-1958 Mao thực hiện cải
cách ruộng đất, mới đầu thành lập các đội giúp đỡ nhau từ 5-15 nhà, sau đó từ
1953 thành lập hợp tác xã nông nghiệp từ 20-40 nhà, 1956 tiến lên đại hợp tác
xã gồm từ 100-300 nhà. Giai đoạn đầu không thành công mấy và nạn đói lan rộng
năm 1956. Kế hoạch Đại nhẩy vọt (Great Leap Forward) 1958-60 đưa tới hậu quả
tai hại, chủ trương nhẩy vọt từ nông nghiệp sang kỹ nghệ lớn. Hậu quả là đưa tới
khoảng từ 20 tới 40 triệu người bị chết đói. Ngay từ 1956 bắt đấu có nạn đói,
năm 1957 Mao cho mở chiến dịch Trăm hoa đua nở, cho tự do phê bình nên có nhiều
người chỉ trích chính sách. Mao nổi gận cho thanh trừng khoảng nửa triệu người
do Đặng Tiểu Bình tổ chức. Năm 1957 Mao chỉ trích Khrushchev muốn sống chung
hòa bình với các nước Tây phương. Kế hoạch Đại nhẩy vọt Ngũ niên lần thứ hai
1958-1963 ra sức sản xuất thép kể cả cấp xã. Nhà cửa bị phá làm củi đốt, nồi
niêu xoong chảo được cung cấp sắt cho các lò, thành phẩm chỉ là sắt nguyên liệu
phẩm chất rất kém, dù biết đây là một kế hoạch điên rồ nhưng không ai dám lên
tiếng.
Vì số lao động chuyển qua làm
đúc thép nên vụ mùa sút kém, năm 1958-1960 thời tiết xấu, khô hạn, lụt lội.
Tháng 7-1959 sông Hoàng Hà gây lụt khiến cho khoảng 2 triệu người chết vì lụt,
đói. Tại miền quê thuộc những tỉnh triệt để theo chính sách của Mao thiệt hại
nhiều, chết nhiều như An Huy, Cam Túc, Hà Nam, tỉnh Tứ Xuyên đông dân mầu mỡ lại
bị chết nhiều nhất.
Kế hoạch Nhẩy vọt bị ngưng lại,
đảng cho nhập cảng gạo, lúa từ Úc, Canada khiến nạn đói giảm, nhà nước chính thức
công nhận có 14 triệu người chết nhưng các nhà học giả ước tính từ 20-40 triệu
. Năm 1959 Mao từ chức Chủ tịch nhà nước, Lưu Thiếu Kỳ giữ chức vụ này, Đặng Tiểu
Bình giữ chức Tổng bí thư đảng. Bộ trưởng quốc phòng Bành Đức Hoài chống đối kế
hoạch bị Mao kết án theo Nga, bị cách chức giao lại chức cho Lâm Bưu. Sau khi
Mao chết người ta cho rằng lỗi lầm của ông ta quá lớn. Thời “Đại nhẩy vọt” Mao
60 tuổi, thời Cách mạng văn hóa Mao 70 tuổi và khi bang giao với Mỹ Mao 80 tuổi.
Năm 1994, nhà đạo diễn nổi tiếng
Trương Nghệ Mưu đã thực hiện cuốn phim giá trị To Live, Anh Phải Sống, được hai
giải thưởng tại Đại hội điện ảnh Cannes 1994, Củng Lợi đóng vai chính. Trương
Nghệ Mưu đã qua mặt kiểm duyệt diễn tả lại mấy chục năm lịch sử tang thương đau
khổ của nước Tầu dưới thời Mao. Người Tây phương cho rằng Mao là một trong những
nhân vật quan trọng nhất của lịch sử thế giới ngày nay (Mao is regarded as one
of the most important individuals in modern world history). Mao làm Chủ tịch
Trung ương đảng 1945 khi dân số Trung Hoa khoảng 550 triệu, năm 1976 khi Mao chết
dân Tầu khoảng 900 triệu.
Mao có thể là nhân vật quan trọng
đối với lịch sử thế giới nhưng ông ta ảnh hưởng tai hại với Trung Hoa và cả thế
giới, đã đầy đọa giết hại nhân dân suốt 26 năm cầm quyền. Không những thế, Mao
đã trực tiếp, gián tiếp gây hai cuộc chiến Triều Tiên 1950-1953 và Đông Dương
1950-1975 làm chết nhiều triệu người gồm Trung Hoa, Việt Nam, Triều Tiên, Pháp,
Mỹ. .. Mao đã kéo lùi nước Tầu lại thời Trung cổ, một đất nước đói khổ, lạc hậu
nhưng cuối đời ông ta có thức tỉnh, bắt tay với Mỹ để đưa đất nước khỏi cảnh lạc
hậu, tối tăm.
Mao đã biến nước Tầu thành một
địa ngục đói khổ tang thương thê thảm nhất là những năm Nhẩy vọt, đây là một sự
sai lầm của lịch sử đã lựa chọn Mao. Cũng như Staline và Hitler, Mao là người
phạm tội ác chống nhân loại ấy thế mà vẫn được sùng bái, ca tụng, lập lăng miếu
thờ phụng… thì quả thực là một điều quái gở chỉ có ở bên Tầu.
Quốc Dân Đảng Trung Hoa câm quyền
tại Đài Loan và đã đưa đảo quốc nhỏ bé này lên hàng cường quốc kinh tế Á châu,
chúng ta thử tưởng tượng nếu họ tiếp tục cai trị nước Tầu, nếu Mỹ không bỏ rơi
Tưởng Giới Thạch năm 1949 thì bộ mặt của đất nước này sẽ huy hoàng là nhường
nào.
Hoa Quốc Phong (Hua Guofen).
Sinh 16-2-1921, mất 20-8-2008
tên khai sinh của ông là Tô Chú, ông lấy biệt danh là Hoa Quốc Phong. Chu Ân
Lai chết tháng 1-1976, Hoa lên lên thay làm Thủ Tướng, tháng 9-1976 Mao chết
khiến Hoa kế vị Mao làm Chủ tịch đảng CS Tầu. Ông tống cổ lũ bốn người vào tù gồm
Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn nguyên và Vương Hồng Văn. Cách mạng văn
hóa thời Mao và Giang Thanh để loại Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình và Bành Chân.
Hoa Quốc Phong là người cố chấp đi theo chủ nghĩa Mao. Mấy năm sau Hoa bị Đặng
Tiểu Bình lật đổ, về hưu non, người ta đồn ông là con Mao Trạch Đông. Hoa được
bầu vào Trung ương đảng năm 1969, vào Bộ chính trị năm 1973, năm 1972 làm Bộ
trưởng công an, năm 1975 làm Phó Thủ tướng rồi quyền Thủ tướng tháng 1-1976 khi
Chu Ân Lai chết, Phó chủ tịch thứ nhất đảng tháng 4-1976, khi Mao chết Hoa Quốc
Phong lên làm Chủ tịch đảng tháng 9-1976, ông chấm dứt cuộc Cách mạng văn hóa.
Hoa Quốc Phong trở lại tái lập công nghiệp và kế hoạch hóa như Nga. Phe Đặng Tiểu
Bình phản đối dựa trên kinh tế thị trường, năm 1977 Hoa bắt treo hình Mao và
Hoa bên cạnh nhau, thật là một điều quái đản, hình người chết bên cạnh người sống.
Đặng Tiểu Bình dần dần nắm quyền
kiểm soát đảng CS Trung quốc, Hoa Quốc Phong bị lên án và bị thay thế các chức
vụ chính: Năm 1980 bị thay thế chức Thủ tướng bởi Triệu Tử Dương, năm 1981 bị
thay chức Chủ tịch đảng bằng Hồ Diệu Bang. Cả hai Triệu Tử Dương và Hồ Diệu
Bang đều được Đặng Tiểu Bình bảo trợ trong nhiệm vụ cải cách kinh tế Trung Quốc.
Hoa Quốc Phong bị giáng cấp Phó chủ tịch, chức này bị bãi bỏ năm 1982, Hoa chỉ
còn là thành viên của Trung ương đảng và nắm giữ vị trí này cho tới năm 2002.
Việc loại bỏ Hoa quốc Phong cho
thấy cuối thập niên 70 đầu 80 chức vụ chính thức không có thực lực, giá trị vì
mặc dù ông là lãnh tụ chính thức của Đảng, Nhà nước, Quân đội nhưng Hoa bị phe
Đặng chèn ép và hất cẳng không bị tù đầy, ám hại như những năm trước.
Đặng Tiểu Bình (Deng Xiaoping)
Sinh ngày 22-8-1904 mất ngày
19-2-1997. Từ 1920-1926 ông ta du học tại Paris, sau dó sang Nga. Tên khai sinh
là Đặng Tiên Thanh, tên Đặng Tiểu Bình được dùng từ năm 1927. Họ Đặng tuy không
giữ chức vụ Chủ tịch nước nhưng thực sự cầm quyền tại Trung Quốc từ cuối thập
niên 70 tới đầu 90. Ông đã giữ các chức vụ Phó chủ tịch đảng, Tổng thư ký ban
bí thư Trung ương, Phó Thủ tướng, Tổng tham mưu trưởng quân đội, Chủ tịch ủy
ban cố vấn đảng, Chủ tịch Quân ủy Trung ương (tức đại diện của Đảng trong quân
đội). Với vai trò lãnh đạo tối cao đất nước ông cải cách Trung Quốc, thu hồi Hồng
Kông và Ma Cao.
Năm 1966 thời Cách mạng văn
hóa, Đặng Tiểu Bình bị phê phán là theo chủ nghĩa tư bản, bị cách mọi chức vụ. Ngày
23-3-1973 ông rời Giang Tây trở lại Bắc Kinh được phục hồi bầu vào Ban chấp
hành Trung ương đảng rồi Phó chủ tịch đảng, Phó thủ tướng, rồi Đệ nhất Phó thủ
tướng. Khi Chu ân lai mất ông lại bị Mao cách chức hết. Năm 1978 sau khi lũ bốn
người bị lật đổ họ Đặng lại được khôi phục các chức vụ như dã nói trên, ông đưa
Trung Quốc vào kỷ nguyên cải cách mở cửa. Năm 1979 Đặng thăm Mỹ để bình thường
hóa quan hệ hai nước sau đó dậy cho VN một bài học, gây lên chiến tranh đẫm máu
tại biên giới Việt-Hoa, nó nằm trong chính sách ngăn chận ảnh hưởng Nga tại
Đông nam Á và đã gây nhiều khó khăn cho CS Hà Nội.
Cuộc biểu tình không lồ tại
Thiên An Môn điễn ra dưới thời Đặng Tiểu Bình, nhiều người tin rằng ông ta đã
nhúng tay vào máu trong cuộc thảm sát phong trào tại quảng trường này. Cuộc sô
sát ngày 4-6 hay sự náo động từ mùa xuân tới mùa hè 1989, một loạt những cuộc
biểu tình của giới trí thức, nhà hoạt động, công nhân viên ở Trung Cộng đòi tự
do ngôn luận, báo chí, dân chủ…do bất mãn về tham nhũng của chính quyền. Những
cuộc đụng độ đã khiến khoảng hơn 2,000 người bị giết, hàng chục ngàn người bị
thương. Đỉnh cao của cuộc chống đối có tới một triệu người tụ tập tại quảng trường.
Trí thức cho rằng các nhà lãnh đạo quá tham nhũng, cải cách kinh tế đưa tới lạm
phát rất cao. Trong hàng ngũ đảng có sự chia rẽ về cách ứng phó với cuộc biểu
tình, nhóm cứng rắn chủ trương đàn áp. Ngày 20-5-1989 thiết quân luật, ngày 3-6
và 4-6 xe tăng, bộ binh đàn áp bắn người biểu tình bằng đại liên. Theo ước lượng
của Mỹ khoảng từ 4,000 tới 6,000 người bị giết, Hồng thập tự Trung Cộng phỏng
đoán có 2,600 người chết, một nhân viên Hồng thập tự TC ước tính có 5,000 người
chết, khối Sô viết ước tính 10,000 người bị giết, số bị thương được ước lượng từ
10,000 tới 30,000 người.
Cuộc biểu tình bắt đầu khi
Gorbachev thăm Bắc Kinh, nhiều đảng viên cao cấp ủng hộ biểu tình, khi phong
trào vượt quá tầm kiểm soát họ cho nổ súng, cuộc tắm máu Thiên An Môn bị cả thế
giới lên án. Tổng bí thư Triệu Tử Dương muốn can cả hai bên nhưng thất bại vì
quá trễ. Mới đầu cuộc biểu tình do sinh viên, trí thức khởi xướng sau được công
nhân thành thị tham gia và được các thành phố Thượng Hải, Trùng Khánh, Hồng
Kông, Đài Loan và các cộng đồng người Hoa tại Bắc Mỹ, Canada, Âu châu ủng hộ mạnh.
Tổng bí thư Triệu Tử Dương có cảm
tình và ủng hộ cuộc biểu tình, Thủ tướng Lý Bằng muốn đàn áp, Đặng Tiểu Bình là
Chủ tịch quân ủy trung ương kiểm soát được quân đội có khả năng dẹp biểu tình.
Triệu Tử Dương bị gạt ra khỏi ban lãnh đạo. Quân đội tại Bắc Kinh không chịu
đàn áp nên đảng phải đưa quân từ địa phương khác tới để bắn vào nhân dân.
Nay biến cố Thiên An Môn được
chính quyền bưng bít che dấu khiến cho các thế hệ sau tại Hoa Lục, nay họ hầu
như không được biết tới. Mặc dù không có báo cáo chính xác vai trò Đặng Tiểu
Bình tại Thiên An Môn mà người ta thường cho là ông đóng vai chính. Sau biến cố
họ Đặng rút khỏi chính trường, Thiên An Môn có gây chia rẽ trong Đảng và Quân đội
giữa hai phe bênh và chống.
Nhiều người mỉa mai nói Quân đội
nhân dân quay súng bắn vào nhân dân, thật là xấu hổ khi họ lấy quần chúng đặt
tên cho quân đội. Năm 1989 cuộc cách mạng dân chủ đang bùng phát tại Đông Âu,
các nước CS tại đây đua nhau từ bỏ CS trở lại chế độ dân chủ tự do tư bản, các
sinh viên, công nhân Bắc Kinh nắm lấy thời cơ phát động phong trào nhưng đã bị
đàn áp dã man. Dù sao CS da trắng văn minh, yêu nước hơn CS da vàng rất nhiều,
họ biết hy sinh quyền lợi cho nhân dân, đất nước. Ngược lại bọn CS da vàng sẵn
sàng bắn giết đồng bào ruột thịt của mình để bảo vệ địa vị của đảng, cuả tập
đoàn CS một cách mù quáng. Mặc dù cùng tôn thờ chủ nghĩa Mác Lê, CS da trắng vẫn
thường khinh bỉ ghê tởm CS da vàng như một lũ mọi rợ súc vật.
Giang Trạch Dân (Jiang Zemin)
Ông sinh ngày 17-8-1926, thuộc
thế hệ lãnh đạo thứ ba, giữ chức Tổng bí thư đảng từ 1989-2002 , Chủ tich nước
từ 1993 tới năm 2003 , Chủ tịch quân ủy trung ương từ 1989-2004. Giang Trạch
Dân lên nắm quyền từ sau vụ Thiên An Môn, năm 1989 ông giữ chức Tổng bí thư
thay thế Triệu Tử Dương bị thanh trừng vì nhượng bộ với những người phản kháng.
Đặng Tiểu Bình ngày càng già, ảnh hưởng kém, Giang Trạch Dân trở thành lãnh đạo
tối cao thập niên 90. Thời Giang Trạch Dân, kinh tế tiến triển bền vững, thu hồi
Hồng Kông và Ma Cao, xã hội nhiều bất công nên Giang bị chỉ trích, những đảng
viên cứng rắn buộc tội họ Giang quá thiên về cải cách, thiên về tư bản.
Giang biết nói nhiều thứ tiếng,
năm 1947 tốt nghiệp Kỹ sư điện tại Thượng Hải, có du học ở Nga. Năm 1983 ông giữ
chức Bộ trưởng công nghiệp, năm 1985 Chủ tịch thành phố Thượng Hải sau làm Bí
thư thành ủy Thượng Hải, năm 1987 được vào Bộ chính trị. Chính sách cởi mở của
Đặng Tiểu Bình đưa ra rất khôn ngoan khiến Trung Cộng tiến mạnh, trong vòng ba
năm, Đặng Tiểu Bình chuyển hết quyền lực đảng, nhà nước, quân đội cho Giang Trạch
Dân.
Khi được Đặng tin tưởng, Giang
bổ nhiệm những người thân tín vào chính quyền thay thế các đảng viên già nua lỗi
thời, năm 1989, Giang nắm Quân Ủy Trung ương, tháng 3-1993 giữ chức Chủ tịch nước.
Dưới thời Giang tệ nạn tham nhũng gia tăng mạnh, các vùng ven biển phát triển
nhanh đưa tới doanh nghiệp nhà nước đóng cửa nhiều, thất nghiệp lên 40% tại một
số vùng thành thị. Sự phát triển nhanh nhưng hố cách biết thành thị nông thôn
ngày một sâu xa. Quan chức tham nhũng làm mất đi 10% GDP của quốc gia, đa số
các tài sản tham nhũng được chuyển ra ngoại quốc. Tỷ lệ tội phạm tăng cao tại
các thành phố, Giang tiếp tục bỏ vốn vào phát triển các vùng kinh tế đặc biệt
các vùng ven biển.
Năm 1999 Pháp Luân Công (PLC),
một môn pháp tu dưỡng cơ thể và tinh thần tại Hoa Lục bị Giang Trạch Dân chỉ đạo
đàn áp dã man. Năm 1999 số môn đệ PLC đã tăng lên 70 triệu người, mặc dù tập thể
này không tham gia chính trị và gây ảnh hưởng xấu nhưng lại bị Giang phát động
chính sách đàn áp đẫm máu bắt đầu từ tháng 7-1999. Công an Trung Cộng cho lùng
bắt giam giữ các môn đệ PLC, tra tấn man rợ, các hình ảnh sau này đã được phổ
biến rộng rãi trên thế giới, hình ảnh có thật do chính những Công an, mật vụ tại
các trại giam vượt biên qua các nước Úc, Canada… phổ biến tố cáo chính quyền Tầu
đỏ. Nhiều hình ảnh đã gây căm phẫn trên khắp thế giới như một người phụ nữa bị
treo trên xà ngang, phía dưới là ngọn lửa hồng, nhiều cô con gái liễu yếu đào
tơ bị bắn vỡ sọ. Tổng cộng khoảng 7,000 nạn nhân bị bắn giết hoặc tra tấn cho tới
chết.
Năm 2006 Bộ ngoại giao Canada
đã thu thập nhiều bằng chứng tố cáo Trung Cộng cho mổ gan, thận các tử tù đem
bán với giá cao, tội ác tầy trời này được coi là chưa từng có trên trái đất, dã
man hơn cả thời Đức Quốc Xã.
Mặc dù Tầu đỏ chối cãi tra tấn,
đàn áp PLC nhưng tại Mỹ một tổ chức nghiên cứu đã có bằng chứng rõ ràng về hệ
thống đàn áp qui mô này.
Môn đệ Pháp Luân Công tại các
nước đã thu thập chữ ký khắp nơi để xin một toàn án nhân quyền xét xử Giang Trạch
dân và đồng bọn. Tháng 1-2004 có 16 vụ án tố cáo tội ác của Giang và các lãnh đạoTrung
Cộng đã phạm tội ác chống nhân loại. Ngày 18-11-2009 Tòa án Quốc
gia Tây Ban Nha truy tố Giang Trạch Dân và 4 viên chức Tầu đỏ phạm tội các tra
tấn diệt chủng, nếu những người này tới các nước có hiệp ước dẫn độ với Tây Ban
Nha họ sẽ phải đối mặt với 20 năm tù giam về tội ác nêu trên. Tháng 12 năm
2009, một toàn án của Argentina (Á Căn Đình) cũng đã ra lệnh bắt giữ cựu Chủ tịch
Giang Trạch Dân về tội ác chống nhân loại nếu ông ta tới một nước nào đã ký Hiệp
ước dẫn độ với Argentina. Giang được coi như người đàn áp, diệt chủng PLC, bị kết
án tại 17 quốc gia trên thế giới.
Giang ôn hòa với Mỹ và Tây
phương, ông ta sang Mỹ năm 1997 bị Quốc hội chất vấn nhiều về việc giết hại môn
phái Pháp Luân Công và bán các bộ phận tử tù. Thời Giang Trung Cộng gia nhập tổ
chức Thương mại thế giới và Thế vận hội 2008. Năm 2002 Giang rời Ban thường trực
Bộ chính trị nhường cho thế hệ lãnh đạo thứ tư Hồ Cẩm Đào làm Tổng bí thư đảng,
Giang vẫn giữ chức cơ quan đầy quyền lực Quân ủy trung ương.
Các lãnh đạo CS Tầu từ Mao Trạch
Đông Đặng Tiểu Bình tới Lý Bằng, Giang Trạch Dân toàn những tên uống máu người
không tanh, bọn này giết hại đồng bào mình bị cả thế giới nhất là Tây phương
khinh bỉ ghê tởm như như thú vật.
Hồ Cẩm Đào (Hu Jintao)
Sinh ngày 21-12-1942, được kết
nạp vào đảng năm 1964, tháng 7-1965 tốt nghiệp đại học hạng ưu, Chủ tịch nước từ
15-11-2003 tới 14-3-2013, ngày 19-9-2004 Giang Trạch Dân từ chức Chủ tịch quân ủy
trung ương, Hồ Cẩm Đào lên thay. Giang bị chỉ trích chú trọng phát triển nhanh
gây ảnh hưởng xấu môi trường, khoảng cách giầu nghèo ngày càng tăng.
Hồ Cẩm Đào tiếp tục chính sách
cải cách kinh tế của Đặng Tiểu Bình, ông có tư tưởng ôn hòa trong việc kiểm duyệt
báo chí. Năm 1992 kỳ Đại hội 14 đảng CS Trung Cộng, Hồ Cẩm Đào được bầu vào Ủy
ban thường vụ Bộ chính trị, năm 1998 được bầu Phó chủ tịch nhà nước, năm 1999
được bầu làm Phó chủ tịch quân ủy trung ương , năm 2002 được giữ chức Tổng bí
thư đảng
Hồ Cẩm Đào là người ôn hòa,
giai đoạn này đời sống nông thôn thành thị rất cách biệt. Tháng 7-2009 vụ bạo động
đẫm máu diễn ra tại Tân Cương, Công an Trung cộng đã đàn áp bạo động khiến khoảng
200 người chết và gần hai ngàn người bị thương. Tháng 8-2009 Hồ Cẩm Đào lệnh
cho giới hữu trách trấn áp những thành phần đòi ly khai. Đây là cuộc bạo loạn
chủng tộc, người Hồi giáo Tân cương từ bao lâu nay hận thù người Hán, tháng
7-2009 họ đốt phá các cửa tiệm, đánh đập người Hán, ít ngày sau người Hán trả
thù tấn công người Hồi khiến mối hận thù tại đây càng gia tăng. Hồ Cẩm Đào chấm
dứt nhiệm kỳ giữa tháng 3-2013, Tập Cẩn Bình là người kế nhiệm.
Tập Cận Bình (Xi Jinping)
Sinh ngày 1-6-1953 hiện là nhà
lãnh đạo tối cao Trung Cộng, Tổng bí thư đảng, Chủ tịch nước, Chủ tịch quân ủy
trung ương thuộc thế hệ lãnh đạo thứ năm. Năm 2002 Tập Cận Bình (TCB) đậu Tiến
sĩ luật, được vào Trung ương đảng năm 2007, năm sau 2008 Phó chủ tịch nước.
Tháng 10- 2010 được bầu Phó chủ tịch Quân ủy trung ương, cơ quan chỉ đạo quân đội.
Ngày 15- 11-2012 Tập được Trung ương đảng bầu Tổng bí thư, rồi Chủ tịch quân ủy.
Ngày 14-3-2013 ông được bầu làm Chủ tịch nước.
Tập Cận Bình ủng hộ phát triển
kinh tế thị trường, thận trọng cải cách chính trị, duy trì lãnh đạo của đảng CS
là cần thiết để ổn định xã hội, ông là người cứng rắn trong các vấn đề quốc tế.
Một ngày đẹp trời cuối năm 2013, TCB đi ăn bánh bao tại một cửa tiệm nhỏ chỉ có
một người lính hầu đi theo, ông ta trả tiền, ngồi ăn cùng với thường dân đã được
ca ngợi trên truyền thông. TCB mở chiến dịch chống tham nhũng từ quan trên tới
cấp nhỏ mà người ta gọi là “đả hổ, đập ruồi” (root out tigers and flies).
Các nhà quan sát cho rằng họ Tập
là nhà lãnh đạo nhiều quyền lực nhất kể từ thời Đặng Tiểu Bình, ông ta chỉ
trích Bắc Hàn và cải thiện quan hệ với Nam Hàn. Năm 2013, TCB họp với Obama tại
Cali bị phía Mỹ chỉ trích chính sách biển đông của Trung Cộng. TCB nhắc nhở lời
tuyên bố sự lãnh đạo tối cao của đảng qua quan điểm của Đặng Tiểu Bình, cải
cách kinh tế chỉ diển tiến tốt dưới chỉ đạo của độc đảng, họ Tập chủ trương
“kinh tê cấp tiến nhưng chính trị bảo thủ”. Văn thư phổ biến trong nội bộ đảng
2013 cảnh báo những tư tưởng Tây phương như dân chủ, nhân quyền, xã hội dân sự.
TCB nhìn nhận tính chất tối thượng của đảng CS thống trị Trung Quốc. Triều đại
của họ Tập bắt giam các nhà bất dồng chính kiến, ông ta chủ trương củng cố sức
mạnh chính trị để lãnh đạo nền kinh tế lớn.
Theo nhận định của BBC họ Tập
trở lại chính sách chuyên chính từ thời xa xưa, kiểm duyệt, thắt chặt kiểm duyệt
truyền thông, internet. Chính sách đối ngoại cứng rắn khiến các nước láng giềng
e ngại, ưu tiên hàng đầu của Tập Cận Bình là củng cố quyền lực. Hai thập niên
qua, Hoa Lục được điều hành bởi Bộ chính trị nay Tập đưa mình lên cao, tập
trung quyền lực giống như Mao và Đặng Tiểu Bình trước đây. Nay ông ta thực sự
trở thành nhà độc tài giống chính sách độc tài cá nhân như kiểu cách của
Staline ngày xưa và Kim Jong-un ngày nay vậy, họ Tập có nhiều chức danh quan trọng.
Xung quanh ông ta là những người
cùng phe cánh, nay họ Tập làm bất cứ điều gì ông muốn, mở chiến dịch chống tham
nhũng nhằm vào các đảng viên cao cấp. Tới nay có khoảng 40,000 quan chức chính
quyền bị kỷ luật, 10,000 quan chức khác bị đuổi và chính quyền thu hồi được 65
tỷ Mỹ kim trong số này chỉ có vài con cọp, còn lại là ruồi.
Tập Cận Bình trong sạch hóa đảng
để bảo vệ tương lai của tập đoàn, vừa củng cố quyền lực vừa bảo vệ tương lai đảng.
CS Tầu nay quá thối nát, tham nhũng tràn lan, sự thực bài trừ tham nhũng sẽ làm
giảm tăng trưởng của Tổng sản lượng. Chi tiêu chính quyền gồm tiệc tùng, quà
cáp, du lịch của quan chức đóng góp vào chi tiêu ở Trung Cộng.
Khi Tập Cận Bình lên cầm quyền,
nhiều người hy vọng sẽ có cởi mở hơn về tự do ngôn luận nhưng ngược lại, ông ta
cho bắt bớ những nhân vật bất đồng chính kiến, đàn áp tôn giáo vẫn khốc liệt ở
Tây tạng, tân Cương. TCB thuộc hàng Thái từ đảng, con cháu của đảng viên cao cấp,
trong một nă.m trời, ông ta đã thiết lập cơ cấu chính trị cho nước Tầu CS đưa về
cơ cấu lúc đầu ấy là một người trên đỉnh quyền lực, hay nói khác đi trở lại thời
kỳ độc tài cá nhân Mao, Đặng.
Hai thập niên vừa qua, tăng trưởng
kinh tế Trung Cộng rất cao: Từ 1989 tới 2014 trung bình là 9.08%, cao điểm là
14.2 quí 4 năm 1992 và thấp nhất 3.8 quí 4 năm 1990, tỷ lệ do văn phòng thống
kê Trung Cộng báo cáo. Từ 2012 tới nay, tỷ lệ tăng trưởng chậm lại: năm 2012 tỷ
lệ 8.1, 7.6, 7.4 năm 2013 tỷ lệ 7.8, 7.5, 7.9, năm 2014 tỷ lệ 7.5, 7.3… tỷ lệ
tăng trưởng trung bình từ 30 năm qua là 10%.
Lợi tức đầu người trung bình
nay là 7,600 Mỹ kim, đứng hàng thứ 82 trên thế giới, lợi tức phân phối không đều,
cách biệt giầu nghèo quá xa, so sánh các miền ta thấy miền quê nghèo nhất, lợi
tức đầu người chỉ được 9%, miền kỹ nghệ được 42%, khu dịch vụ 48%. Trung Cộng
là cơ sở sản xuất kinh tế lớn nhất thế giới và xuất cảng nhiều nhất, các vùng
kinh tế mức sống rất cách biệt. Hoa Lục đầu tư ra nước ngoài 62 tỷ (Mỹ kim).
Năm 1979, 1980 báo Sài Gòn Giải phóng của CSVN đăng lại một bản tin của Tây
phương cho biết trữ lượng ngoại tệ của Trung Cộng chỉ có 4 tỷ Mỹ kim so với 32
tỷ của Đài Loan, nghĩa là Đài Loan gấp 8 lần Tầu lục địa năm 1980, như thế nay
Hoa Lục đã đi hia bẩy dặm tiến quá nhanh.
Mỹ và các nước Tây phương kéo
nhau vào đầu tư tại đây từ cuối thập niên 80 để bóc lột khối nhân công rẻ mạt,
nhờ đó Trung Cộng thu được ngoại tệ tiến nhanh. Nền kinh tế Hoa Lục chưa đủ
trình độ một nền kinh tế tiêu thụ mà còn phụ thuộc vào xuất cảng khoảng 60%. Tổng
sản lượng khoảng 9,000 tỷ Mỹ kim, nợ nước ngoài 863 tỷ, dự trữ ngoại tệ 3,840 tỷ.
Tập Cận Bình cứng rắn với quôc
tế đưa tới tranh chấp biển đông giữa các nước Hoa Lục, Brunei, Đài Loan, Mã
Lai, Phi Luật Tân, Việt Nam… về Hoàng Sa Trường Sa. Bộ nhiên liệu khoáng sản Tầu
ước lượng biển đông chứa 17.7 tỷ tấn dầu thô nhưng nguồn ước lượng khác cho là
chỉ có một tỷ tấn.
Kết luận
Mấy thập niên trước Hoa Kỳ cùng
các nước Tây phương, Nhật, Nam Hàn… ồ ạt đầu tư vào Hoa Lục, một thị trường béo
bở để bóc lột khối nhân công rẻ. Người Mỹ cho rằng một khi trở nên giầu có sung
túc, nước Tầu sẽ từ bỏ chế độ CS nhưng đó là một sai lầm lớn, người ta chỉ
trích Mỹ nuôi Trung cộng cho béo để họ thành mối đe dọa cho cả thế giới. Nay kinh
tế Tầu tăng trưởng nhanh, Tổng sản lượng của họ khoảng một nửa Mỹ (Mỹ 17,000 tỷ
đô la),
càng giầu họ càng đe dọa với
các nước lân bang tại đông nam Á. Hoa Lục tăng ngân sách quốc phòng lên 126 tỷ
(con số này do Họ đưa ra nhưng Mỹ ước lượng 188 tỷ). Sức mạnh quân sự Trung Cộng
nay gồm 9,150 xe tăng, 4,788 thiết giáp, 1,710 đại bác tự hành (tự di chuyển được)
,6,246 đại bác kéo, 1,770 dàn hỏa tiễn. Không quân gồm 2,788 máy bay trong đó
khoảng 2,000 máy bay chiền đấu, 762 vận tải, 380 huấn luyện, 856 trực thăng. Hải
quân tổng cộng 670 tầu thủy, một hàng không mẫu hạm (nguồn China military
strength, globalfirepower.com).
Không quân các cường quốc như Mỹ
có 13,683 máy bay, Nga 3,082, Trung Cộng 2,788 , Nhật 1,595, Ấn Độ 1,785, Nam
Hàn 1,393, Pháp 1,202. Quốc phòng, quân sự Trung cộng đứng thứ hai, thứ ba trên
thế giới về số lượng nhưng mặt phẩm còn yếu kém, năm ngoái một ông Tướng 4 sao
của Nhật tuyên bố quân sự Trung Cộng nhất là Không quân, Hải quân lạc hậu khoảng
từ 10 tới 20 năm so với Nhật.
Tăng trưởng kinh tế Mỹ những
năm 1999 là 4.8, 2000: 4.1… sau đó tỷ lệ xuống thấp những năm gần đây 2010 là
2.5, 2011: 1.6 , 2012: 2.3 , 2013: 3, 2014: 4.1 (nguồn developpement of the
US’s GDP). Vì tỷ lệ tăng trưởng Trung Cộng cao, Hoa Kỳ thấp nên người ta cho rằng
trong một tương lai gần họ sẽ qua mặt Mỹ để thành nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Tuy nhiên họ chỉ có thể hơn Mỹ về Tổng sản lượng còn lợi tức đầu người muốn
theo kịp Mỹ có sớm lắm cũng phải mất nửa thế kỷ nữa.
Nay dân số Âu Châu (không kể
Nga) khoảng 600 triệu, dân số Đông Nam Á (không kể Tầu Nhật, Hàn Quốc) khoảng
600 triệu, dân số Tầu là 1 tỷ 3 bằng cả hai khối Âu Á cộng lại. Kinh tế Hoa lục
tăng trưởng nhanh là nhờ cái đống thịt 1 tỷ 3 chứ không phải vì hàng kỹ nghệ
cao như Nhật, Nam Hàn, Đức quốc. Một điều lạ, nước Tầu xa xưa truyền bá văn
minh cho Nhật, Triều tiên nhưng nay Hoa Lục không văn minh bằng Nhật, Hàn quốc
về mọi phương diện. Kinh tế Hoa lục thật ra là một nền kinh tế bấp bênh, phụ
thuộc vào xuất cảng, nếu bị cấm vận, rút đầu tư thì họ khốn đốn ngay. Nay Hàng
không, sản xuất công nghiệp của Hoa Lục phụ thuộc vào nhập cảng, thí dụ như cái
TV phụ thuộc vào nhập cảng cơ phận từ 50% trở lên, máy bay 80% …một nền kinh tế
không tự chủ được mà phụ thuộc vào Mỹ,Tây phương, Nhật không khác gì hình thức
phồn thịnh giả tạo.
Như đã nói trên kinh tế Hoa Lục
chưa đủ trình độ một nền kinh tế tiệu thụ, dân còn nghèo, 60% sống nhờ xuất cảng
mà hầu hết là hàng tiêu dùng rẻ tiền do khối nhân công rẻ mạt, nói chung phụ
thuộc vào Âu châu, Mỹ, Nhật…thực chất chỉ là một nền kinh tế đi làm gia công
cho các nước khác. Hàng Hoa Lục rẻ, vừa túi tiền người nghèo nhưng phẩm chất xấu,
tiền nào của nấy. Vì mải chạy đua tăng trưởng nên phẩm chất ngày càng tồi tệ nhất
là thực phẩm, trái cây bị trên thế giới tố cáo là độc hại có thể gây chết người,
tại VN ngày nay người ta khiếp sợ hàng lậu Trung Cộng tràn lan từ biên giới
vào. Hoa Lục gia tăng tốc độ chạy đua bất kể môi trường, hậu quả là đất nước bị
ô nhiễm trầm trọng đã khiến lượng du khách ngoại quốc giảm mấy chục phần trăm
vì người ta sợ hãi nước sông ngòi dơ bẩn độc hại, không còn nước sạch để ăn uống.
Những năm gần đây Trung Cộng diệu
võ dương oai tại biển đông để đe dọa các nước lân bang nhưng gặp phản ứng cứng
rắn các nước trong khu vực họ đã ôn hòa trở lại. Có người thăm viếng Trung Cộng
cho biết bộ máy quân sự cũa họ để tự vệ thì đúng hơn là để tấn công. Mặc dù về
mặt số lượng, quân sự nước Tầu đứng sau Mỹ nhưng về mặt phẩm còn lạc hậu nên chỉ
dùng để dọa chứ chẳng đánh được ai. Sự thực Trung Cộng không hề muốn chiến tranh
vì nếu có đánh lớn thì sự nghiệp mà họ xấy dựng mấy chục năm nay sẽ tan thành
tro bụi.
Tập Cận Bình không cần thiết phải
đưa Hoa Lục tiến lên hàng siêu cường kinh tế quân sự, chưa cần thiết phải thành
nền kinh tế lớn nhất thế giới mà ông cần chú trọng giữ uy tín cho người dân Tầu
không bị các nước ngoài khinh bỉ. Người Hoa Lục ra ngọai quốc bị thiên hạ nhất
là các nước Tây phương coi rẻ. Du khách Tầu không có được cái lịch sự tối thiểu,
nhiều người khạc nhổ, nói chuyện ầm ĩ tại phi trường, khách sạn. Nhiều người
vào tiệm ăn, khách sạn cầm đồ ăn lên ngửi rồi vứt xuống khiến nhiều nước không
muốn tiếp du khách Hoa Lục. Thái Lan cũng than phiền về du khách Tầu, nhiều nơi
phản đối không chịu tiếp đón người Lục địa. Mấy tháng trước trên một chuyến máy
bay từ Thái Lan về Trung Cộng, một cô du khách Tầu hắt nước nóng vào mặt chiêu
đãi viên khiến máy bay phải quay về Thái Lan. Trên một chuyến máy bay khác, một
cô du khách Tầu phơi su chiêng, quần lót trên ghế ngồi thản nhiên. Cách đây khá
lâu, tôi được biết tại Chinatown Chicago, người Tầu Hồng Kông, Đài Loan rất
khinh bỉ người Tầu lục địa thậm chí có khi còn nhổ nước miếng để tỏ sự miệt thị.
Trước mắt ông Tập Cận Bình nên
chú trọng việc cho nhân dân Hoa Lục học tập nếp sống văn minh, biết thế nào là
xã giao xử thế để người ngoại quốc không nhìn dân tộc mình bằng cặp mắt khinh bỉ
hơn là lo những kế hoạch to tát viển vông. Ông Tập nên chú ý đừng dể dân Tầu bị
khinh rẻ, hơn là lo quân sự hoặc tăng trưởng tốc độ kinh tế để thành nền kinh tế
lớn nhất thế giới.
Tập Cận Bình đã trở thành nhà độc
tài, ông ta đưa Trung Cộng trở lại chế độ Mao, Đặng nhiều thập niên trước. Cách
đây 25 năm, Đông Âu, Nga Sô từ bỏ Cộng Sản, giới lãnh đạo CS da trắng chấp nhận
từ bỏ quyền lợi đảng cho quyền lợi của nhân dân, đất nước. Trong khi ấy CS da
vàng không chịu học cái hay của CS da trắng mà chỉ giữ những cái những cái xấu
xa lỗi thời của họ để bảo vệ quyền lợi đảng, lợi ích cá nhân. Họ giữ rất kỹ những
cái cặn bã xấu xa của CS da trắng, CS da vàng nay chỉ là thứ cặn bã của CS da
trắng, là chất thải của CS da trắng mà ngay chính CS da trắng cũng phải khinh bỉ,
ghê tởm CS da vàng.
No comments:
Post a Comment