12:01:am
18/03/13
Tôi
quen chị vào một ngày đầu năm Qúy Tỵ, dịp Meister Nam mời đến Võ đường của anh,
nhậu nhoẹt và thưởng thức các tiết mục văn nghệ ngẫu hứng, do anh chị em khu vực
Leipzig thực hiện. Tôi và ca sỹ Việt Hà đến hơi bị muộn. Bước chân vào Halle,
không chỉ tôi mà cả Việt Hà cũng phải sững người lại, bởi một người đàn bà hát,
có giọng khàn lạ, đang say sưa thả hồn trên sân khấu. Và nếu không có bàn tay cứng
như sắt của Nam Võ, từ phía sau bóp mạnh vào bả vai, có lẽ tôi còn đứng lặng,
chắn giữa cửa ra vào cho đến khi chị hát xong.
-Nghệt
mặt ra rồi phải không? Hạ, nguyên cô giáo dạy nhạc, cùng quê Bắc Ninh, tôi đã
nhiều lần kể với ông…
Vâng!
Sự xáo động ấy trong tôi, không hẳn vì đứng trước người đàn bà đằm thắm đang ở
độ chín lại. Nhưng nhạc và lời ca chị viết với giọng hát truyền cảm, như kể lại
câu chuyện của đời mình, làm tôi xúc động mạnh…
Sinh
ra và lớn lên trên quê hương Quan Họ, nhưng chị bảo, ngay từ nhỏ chỉ thích nghe
chứ không có duyên với nó. Có lẽ do chất giọng khàn đục của chị không hợp với
giai điệu, lời ca mượt mà của Quan Họ chăng? Tốt nghiệp trung học, được tuyển
thẳng vào đoàn ca múa của tỉnh, nhưng chị đã từ chối và thi vào trường sư phạm
âm nhạc. Sau mấy năm đèn sách, chị về dạy nhạc ở một trường trung học của một
thị xã ven biển. Năm sau chị lập gia đình. Chồng chị là bạn học thời sư phạm,
nhưng dạy mãi trên mạn ngược. Đứa con ra đời, chuyển chồng về gần là nhu cầu bức
thiết của chị. Nhưng gái một con… và hát hay đàn giỏi, ngon như một bữa
tiệc trước con mắt những con thú đang đói mồi, mỗi lần chị lên sở hay về trường
nộp đơn từ. Sự mặc cả, ngã giá ấy trong môi trường giáo dục, của những kẻ tưởng
như là cao đạo, chị thấy chẳng khác (kiểu) hàng tôm, hàng cá là bao nhiêu.
Màn
đêm ở vùng biển dường như cũng buông chậm hơn. Những tia nắng dìu dịu cuối ngày
chợt bùng cháy lên, đỏ như vệt máu đang nhỏ xuống biển. Chân trời thẫm một mầu
xanh, cong cong như một chiếc bát khổng lồ úp xuống mặt nước. Một vài chiếc
thuyền đang kéo buồm, chòng chành trong cái mầu xanh ấy, hướng về phía đất liền.
Có những con sóng tung lên, như vồ lấy đàn hải âu đang sải cánh về phía bên kia
dải nắng. Con phố nhỏ rộn lên tiếng ngư dân và những con thuyền vừa cập bến.
Gió từ ngoài khơi thổi mạnh và rát hơn làm chị khẽ rùng mình. Quàng vội cho con
chiếc áo khoác và chị đứng dậy, định về, nghe chị giáo vụ gọi giật lại:
-Ông
Giám đốc sở nhắn tìm em, gặp bàn về việc thuyên chuyển của chú ấy. Ổng đang đợi
ở nhà hàng Cánh Buồm, về thay quần áo, để con chị trông cho.
Lưỡng
lự, định không đi, song nghĩ đến công việc của chồng, chị đành phải tới.
Trời
chưa tối hẳn, nhà hàng còn vắng khách. Mấy em chân dài ngồi dàn hàng ngang, phì
phèo đốt thuốc trước cửa ra vào. Chưa kịp hỏi, bà chủ đã đon đả kéo tay
chị, miệng xởi lởi, đồng chí Giám đốc sở đang chờ ở phòng riêng, tầng trên. Thật
ra chị mới gặp đồng chí Đốc vài ba lần, khi thì chỉnh huấn, lúc văn nghệ của
ngành. Lần gần đây nhất, chị mang đơn xin thuyên chuyển của chồng đề nghị đồng
chí Đốc giúp đỡ. Lần nào đồng chí Đốc cũng bắt tay thật chặt với cái cười tươi
rói. Lần này đồng chí Đốc còn ra tận hành lang đón chị. Chị vừa ngồi xuống, đồng
chí Đốc đã kêu người mang đồ ăn, đồ uống lên. Như một chiếc lò so, chị bật đứng
dậy, miệng lắp bắp, đồng chí Đốc cắt ngang:
-Em
cứ ngồi xuống, ăn uống một chút đã, công việc bàn sau.
Chị
còn đang bối rối, thức ăn, bia rượu đã mang lên đầy bàn. Rất điệu nghệ, đồng
chí Đốc với tay mở chai Sâm banh. Tiếng nút nổ, tiếng cười của đồng chí Đốc hòa
vào nhau, nghe giòn tan. Khấp khới cả hai con mắt, đồng chí Đốc đẩy ly rượu về
phía chị. Sợ đồng chí Đốc phật ý, chị cầm ly rượu đưa vội lên môi, rồi từ từ đặt
xuống bàn. Đồng chí Đốc ân cần gắp đầy thức ăn vào bát, đưa và giục chị ăn. Hơi
thu người lại, chị sợ, một con tính thoáng chạy trong đầu, bữa ăn sang trọng
này có lẽ bằng cả một năm lương của chị chứ chẳng chơi. Đồng chí Đốc ép mãi, chị
chấm mút cho lấy lệ… Ừng ực một hồi, đồng chí Đốc đã giải quyết gần xong đám rượu
bia ở trên bàn. Mặt đồng chí đã phừng lên, hai con mắt ngầu ngầu, giựt giựt.
Lúc này, đồng chí Đốc trở về con người thật của mình:
-Công
việc của chồng em, anh đã thu xếp xong. Tiền anh không cần, nhưng hôm nay anh
có chuyện buồn. Nếu như đêm nay, em ở lại đây với anh. Sáng thứ hai, em qua
phòng anh nhận quyết định tiếp nhận, sau đó anh sẽ bố trí cho chồng em về một
trường nào đó, quanh thị xã này thôi.
Nghe
những lời này, từ miệng của kẻ chuyên giảng đạo đức cho các lớp tập huấn giáo
viên toàn tỉnh, chị cứ ngỡ mình đang xem màn kịch hề chèo trên sân khấu vậy. Lợm
giọng quá, nhưng chị cố bóp chặt cổ họng mình:
-Muộn
rồi, xin phép Giám đốc, em phải về, vì còn cháu nhỏ ở nhà.
-Em
nghĩ kỹ chưa, đơn xin việc ở phòng anh xếp còn cao hơn núi đấy!
Chị
im lặng, định đứng dậy. Đồng chí Đốc bảo, khoan đã, tý nữa tiện xe, anh đưa về.
Rồi đồng chí Đốc gọi bà chủ, cho hai ly nước tráng miệng và tính tiền. Chỉ một
loáng thôi, đã thấy tự tay bà chủ bê hai ly nước cam vắt vàng óng lên. Một hơi,
đồng chí Đốc uống cạn và giục chị uống cho mát rồi về. Cầm ly nước, chị uống một
ngụm cho phải phép và đứng dậy. Chưa ra đến cửa thấy chóng mặt, quay cuồng, vịn
chặt vào cánh cửa, nhưng chị không thể đứng lên được nữa….
Khi
chị tỉnh dậy, trời đã gần sáng, lờ mờ nhận ra như đang nằm trên chiếc sofa đặt
giữa phòng. Một lúc sau, chị mới cựa quậy được và có cảm giác thật, thấy người
nhớp nháp, nhầy nhụa, áo mặc ngược, quần cài lộn cúc. Lắng lại một giây, chị chợt
hiểu cái gì đã xảy ra. Chị vùng dậy, lao ra, giật mạnh cửa, cắm đầu chạy… Trước
mặt đã là biển, chị vẫn từ từ đi ra hướng, nơi có con thuyền nhỏ bé dập dờn,
trong cái mênh mông sóng nước, của những người thợ câu đêm. Trăng cuối tháng
thoắt ẩn, thoắt hiện, bàng bạc như như kẻ vô tình. Sóng đã đập vào mặt, có những
lúc nhấc bổng lên rồi lại dìm chị xuống. Ngửa mặt lên nhìn vòm trời lần cuối,
chị thấy ngôi Sao Biển đang nghiêng về bờ cát, cháy rực lên. Và trong gió hình
như có tiếng trẻ thơ vọng lại, làm chị giật mình. Chị vội quay người lại, có
con sóng bốc chị, ném thẳng vào bờ.
Phiên
tòa xử chị kiện đồng chí tỉnh ủy viên, Giám đốc sở giáo dục và đào tạo hiếp
dâm, diễn ra chóng vánh. Nhân chứng từ chị giáo vụ cho đến bà chủ nhà hàng khẳng
định, chị là người chủ động mời đồng chí Đốc đến. Khi chị có thái độ không đúng
mực, đồng chí Đốc giải thích phân tích tường tận và ngay sau đó đồng chí đã ra
về. Biên bản khám nghiệm của bác sỹ, như đinh đóng cột, thể trạng chị lúc đó
hoàn toàn bình thường, không bị tổn thương. Vậy là từ nguyên cáo, chị trở thành
bị cáo, can tội dùng tiền, tình mua chuộc cán bộ lãnh đạo, trục lợi cá nhân. Mức
án giành cho kẻ vu cáo, nói xấu cán bộ lãnh đạo bét nhất cũng phải sáu tháng
tù. Nhưng xét thấy hoàn cảnh chị, con còn nhỏ và người bị hại (đồng chí Đốc) có
làm đơn xin tòa giảm án, nên cho hưởng án treo. Cũng trong ngày, chị nhận được
quyết định đuổi việc vì không còn đủ đạo đức, nhân cách đứng trên bục giảng.
Ngày
hôm sau, báo chí đồng loạt đăng tin ca ngợi đồng chí Đốc, một con người liêm
chính, có một tấm lòng nhân đạo, vị tha. Dư luận từ trong đến ngoài, từ cán bộ
đảng viên cấp cao đến các em chân dài, đạo chích, đâm thuê chém mướn đều (bái
phục) tôn đồng chí Đốc là sư phụ của sư phụ. Chiếc ghế phó chủ tịch tỉnh, phụ
trách mảng văn hóa, giáo dục, ai dám tranh với đồng chí Đốc nào?
Mẹ
chị lành như đất, cả đời chỉ quanh quẩn với ruộng vườn, ít khi ra khỏi làng. Ấy
vậy không hiểu mấy ngày nay bà lại bất thường giở chứng, sáng sáng cứ nhìn lên
bàn thờ, nơi có cái bằng Tổ Quốc ghi công, lẩm bẩm:
-Không
hiểu, cái thằng Mỹ nó ở tận đâu tận đâu, đến đây làm gì. Nghe các bố hô hào,
bao xương máu đổ ra đánh cho nó phải cút. Đến bây giờ, lại mang kiệu rước nó
vào. Giời đất ơi! Vậy thì chồng con tôi chết oan chết uổng cả rồi…
Đất
làng chị đang trồng lúa, trồng màu bị chính quyền thu hồi, giao cho các ông chủ
mới làm khu công nghiệp đợt đầu tiên, sau khi ông Mỹ hô bỏ cấm vận, nên đền bù
rẻ như bèo. Nông dân vật vờ không việc làm, trai gái trong làng trôi dạt khắp
nơi. Mẹ chị cả ngày đi ra đi vào đâm cáu gắt, ra ngõ chửi đổng. Hôm sau bà đi
ăn giỗ làng bên về, dù đã khuya nhưng vẫn kéo chị vào buồng thì thầm:
-
Hạnh con cậu Ba vừa tốt nghiệp cấp ba, sắp sang Đức làm ăn, qua ngả Nga và Ba
Lan. Cậu Ba bảo, nếu con muốn, đi cùng cho có chị có em. Mình nộp tiền, giấy tờ
họ lo toàn bộ. Mẹ nghĩ kỹ rồi, dù con không tù tội, bây giờ cũng khó xin việc,
huống hồ lý lịch của con thế này không có nơi nào nhận đâu. Tiền con không phải
lo. Tiền bán đất với sổ tiết kiệm tiền tử tuất (liệt sỹ) của bố và anh con là đủ.
Còn con bé để ở nhà mẹ lo. Sau này ổn định sẽ đón chồng, con sang. Nếu đi, con
phải thuyết phục chồng con mà thôi. Con hãy nghĩ kỹ, với con bây giờ, nơi này
chỉ để thương để nhớ, chứ không còn là nơi để sống…
Chị
cũng không ngờ, mẹ có được đi học ngày nào đâu, nhưng suy nghĩ, hiểu biết, tính
toán đâu ra đấy như vậy.
Chị
đến Nga vào một chiều mùa hè. Chiếc xe bus cà tàng đã chờ, nhóm hơn chục người
của chị ở cửa sân bay. Qua ô cửa sổ nhỏ, chị thấy xe đang lướt nhanh qua những
cánh đồng lúa mì mênh mông đang vào mùa gặt. Những cánh rừng bạch
dương xanh ngát hai bên như miên man ôm chặt lấy con đường, có những
lúc mở ra trảng đồng hoang tím đầy hoa dại. Con đường bồng
bềnh, vồng lên chùng xuống, chui qua khoảng rừng thông tối sẫm tưởng như nuốt chửng
cả đoàn xe, đang nối đuôi nhau chạy vào thành phố. Ngày còn ngồi trên nghế nhà
trường, chị đã được đọc, học những tác phẩm đồ sộ, những bài thơ lãng mạn, với
những cuộc tình say đắm lòng người của các đại thi hào nước Nga. Nên ai mà chẳng
ước mơ, được một lần đặt chân lên xứ sở Bạch Dương diệu kỳ này. Hôm nay chị đã
đến được với cụ Tolstoi, cụ Pushkin, Gorky… nhưng điều kỳ diệu ấy đã phải
đóng lại trong tâm khảm của kẻ trên đường trốn chạy, với một tương lai vô định,
mịt mù.
Xe quẹo
vào cổng khu nhà tập thể cũ của một nhà máy, dường như đã bỏ hoang nhiều năm.
Thấy cổng còn khóa, lái xe người Nga to như con gấu làu bàu chửi. Lúc sau có
người Việt chân tập tễnh, đủng đỉnh đi ra mở và khóa cổng. Xe lùi vào căn hộ
trong cùng, cửa có thanh sắt chắn ngang, to như cổ tay. Sau khi thu xong hộ chiếu,
người ta mở đít xe, lùa cả vào, mọi người nháo nhác định hỏi. Người đàn ông Việt
rất nhã nhặn khi còn ở sân bay, trừng mắt:
-Im
lặng! Ở lại đây chờ, loạng quạng bọn Cớm đến xúc cả đi đấy. Sẽ có người mang đồ
ăn đến.
Bọn
chị đang định thần, thấy lố nhố một đám người đi ra. Họ là nhóm người đến trước
mấy ngày, chờ đi tiếp. Trong ánh sáng mờ mờ của cây đèn cầy, chị thấy căn hộ
khá rộng, có nhiều phòng, nhưng cửa sổ đã bịt và sơn đen, nên tối tăm và bốc
mùi hôi thối rất khó chịu. Một chị nói tiếng Nghệ An, kéo tay chị và Hạnh vào
phòng bảo, trong còn một cái đệm vào nằm chung cho đỡ sợ. Trong phòng còn mấy
cô gái trẻ mặt mũi phờ phạc, vô hồn, hai mắt sưng đỏ. Chị Nghệ An nghiến răng,
chỉ tay vào Hạnh nói:
-Tổ
cha tụi nó, chưa đóng tiền nói ngon, nói ngọt. Sang đến đây, bị tụi nó nhốt vô
cái nhà không điện, không nước. Đàn bà con gái, thích lúc nào chúng nó lôi ra
hãm hiếp. Đồ bất nhân thất đức, có lúc chúng nó bị quả báo thôi. Những người mới,
chuẩn bị tinh thần, tối nay thế nào tụi nó cũng đến lôi đi đấy, nhất là con bé
này.
Hạnh
sợ quá gục vào vai chị sụt sịt, biết thế này, các vàng em cũng chẳng đi. Chị
cũng đang run lên, nhưng cố nói cứng an ủi Hạnh, phóng lao theo lao em ạ, đến
đâu hay đến đó. Chị Nghệ An đưa cho hai người mấy ca nước và bảo, lấy khăn lau
mặt, lau người cho tỉnh táo. Nước bẩn đổ cả vào sô, dùng khi đi nhà cầu. Cả chục
con người, mấy ngày nay, nó mới chở cho vài, ba phuy nước.
Chiều
tối, có hai người đàn bà, mặt mũi phấn son nhòe nhoẹt mở cửa, vứt toẹt thùng
caton đựng bánh mì, thịt hộp và mấy bịch nước dưới sàn nhà, ngó nghiêng một lúc
rồi bỏ đi. Dù rất đói, nhưng chẳng ai muốn lấy đồ ăn. Mãi sau có mấy anh lớn tuổi
ở phòng bên, bê thùng đi phân phát cho từng người:
-Cố
gắng ăn có sức khỏe để đi tiếp, những người ở nhà đang hy vọng vào cả chúng ta
đấy!
Đêm
đã muộn, mọi người vẫn không ngủ được. Những câu chuyện bán đất bán nhà, vay nợ
cầm cố, lấy tiền để đặt cược cho chuyến đi này cứ dài mãi không dứt… Có tiếng cửa
mở, mấy cô gái trẻ nằm bên co rúm người lại. Hạnh ôm chặt, rúc đầu vào ngực chị.
Ánh đèn phin loang loáng rồi dừng lại phòng chị. Mờ mờ thấy ba, bốn thằng mặt
mày bặm trợn, không biết say rượu hay say thuốc, đi cũng giật, đứng cũng giựt
giựt như lên đồng, giọng nhừa nhựa:
-Mấy
đứa vừa đến chiều nay đâu? Theo chúng tao lên phòng Chef làm việc.
Sự
im lặng đến nghẹt thở. Chúng sục từng phòng, rọi đèn vào mặt từng người. Lôi thốc
chị và Hạnh ra, miệng chúng lải nhải, hai con này còn trẻ, chuyến này toàn những
con già. Chị và Hạnh ghì người lại, ôm chặt nhau:
-Giấy
tờ chúng tôi đầy đủ, tiền bạc đã đưa, giờ này không đi đâu hết.
Hai
thằng đi đầu, thằng cầm tay chị, thằng cầm tay Hạnh giật mạnh, lôi sềnh sệch
đi. Hai thằng đi sau, dựng hai cô gái nhóm đến trước dậy, bắt đi cùng. Tiếng
các cô khóc ré lên khản như tiếng mèo đêm. Hạnh khóc không thành tiếng, bố mẹ
ơi! Cứu con. Biết không chống được bọn này, chị van xin chúng đừng mang Hạnh
đi, vì nó còn trẻ con. Chị Nghệ An chạy ra bảo, đúng rồi, chúng mày tha cho con
bé này, còn hai cô gái kia bị hành cả đêm hôm qua, bây giờ còn ra hồn người nữa
đâu.
Chị
Nghệ An chưa nói hết, bị một thằng giơ chân đạp thẳng vào người:
-Con
già này còn nói nữa, bố lôi ra cho chó chơi bây giờ.
Mấy
anh người Hải Phòng, đi cùng đoàn chị, ra cản lại:
-Các
ông là người dẫn đường hay là kẻ cướp, hiếp dâm đây?
Bốn
thằng cùng rút súng, dí vào đầu các anh:
-Đ.m!
Chúng mày muốn đi tiếp sang Ba Lan sang Đức hay muốn đi xuống âm phủ.
Chúng
lôi bốn người vào căn phòng bảo vệ của nhà máy cũ. Nơi đây có lẽ là nơi ăn ngủ,
sinh hoạt hàng ngày của bọn đầu trâu mặt ngựa, được thuê trông coi ở trạm trung
chuyển này. Quần áo, bát đĩa, chai lọ bẩn thỉu vương vãi, lăn lóc trên tấm thảm
cháy lem nhem. Cánh cửa ra vào được làm từ mấy miếng ván ghép đậy lại. Đè
nghiến cả bốn người xuống thảm, như những con thú hoang, chúng lao vào …Chị
không còn cảm giác, Hạnh giãy dụa hét lên gọi mẹ, hai cô gái bên cạnh cắn chặt
môi, mắt mở trừng trừng…
Chị
phải dỗ mãi Hạnh mới chịu ăn, nhưng tinh thần rất hoảng loạn. Một tuần, rồi hai
tuần phải sống trong hoàn cảnh như vậy, trước mặt Hạnh, chị phải cố giấu đi những
giọt nước mắt của mình.
Gần
sáng, có tiếng mở cửa, rồi hình như có tiếng quen quen của người đàn ông hôm
đón ở sân bay. Mọi người bật dậy, ùa cả ra:
-Tất
cả chuẩn bị và vệ sinh cá nhân, hôm nay sẽ vượt sang Belarus đến biên giới Ba
Lan. Một tiếng nữa xe đến đón.
Không
biết sẽ đi đến đâu, và như thế nào, nhưng thoát khỏi cái địa ngục trần gian này
chị thấy như có thêm sức mạnh. Hơn hai mươi con người được nhét lên chiếc xe
đông lạnh kín, chỉ có mấy lỗ thông hơi nhỏ được khoét ở dưới sàn. Lúc lên xe,
người dẫn đường đưa cho mấy cái sô vệ sinh và dặn, không được để người ốm yếu,
ngồi gần lỗ thông hơi, ngủ quên đè kín lỗ chết cả lũ.
Có
lẽ ngồi trong bóng tối và chìm trong sự sợ hãi, nên không một ai còn cảm giác
ngột ngạt, hôi thối, hay những nhu cầu sinh hóa hàng ngày của con người nữa. Gật
gù nửa tỉnh nửa mê, chẳng biết ngày hay đêm, đường đi xa hay gần, khi chị tỉnh
dậy đã thấy mình nằm cạnh Hạnh và mấy người nữa. Chị đang ngơ ngác, có mấy anh
vào bảo, đã tới biên giới Ba Lan, bọn em bị ngất, nên khiêng vào đây. Mọi người
ngồi cả ngoài kia, gần đây có con suối nhỏ nên thay nhau đi tắm rửa.
Trạm
trung chuyển này là ngôi nhà sát biên, cách xa khu dân cư và hình như cảnh sát
biên phòng cũng đã được mua bán, nên sinh hoạt cũng được thoải mái hơn. Ở đây,
chỉ có người Belarus bảo vệ và mấy người Việt hàng ngày mang đồ ăn đến, đôi khi
có cả cơm nên sức khỏe, tinh thần mọi người bình phục khá nhanh.
Tối
thứ năm, mọi người bất ngờ được báo, phải vượt biên giới sang Ba Lan ngay trong
đêm. Dẫn đường là hai người Belarus đối xử với mọi người khá tốt. Đoàn người phải
vượt bộ qua một cánh rừng già, lá mục có chỗ bị thụt chân đến đầu gối. Mấy giờ
sau, tất cả cũng mò mẫm được ra bờ suối. Nếu như được, người nào cũng muốn nhảy
xuống tắm cho đỡ rát và ngứa vì muỗi. Bên kia đã là Ba Lan. Con suối nước chảy
không xiết, nhưng khá sâu và rộng, người dẫn đường phải bơm thuyền cao su, lộn
đi lộn lại chở mấy chuyến. Người dẫn đường ra hiệu, nghỉ ngơi lấy sức, rồi tất
cả phải chạy thật nhanh qua cánh đồng lúa mì, có một chiếc xe bus của công ty
du lịch chờ ở đó.
Chị
cắm đầu chạy, những cây lúa mì bị dạt ra bởi những người chạy trước bật lại, đập
vào mặt như roi quất. Có những cây bị nằm rạp xuống cuốn vào chân giật chị ngã
sấp mặt xuống ruộng. Chưa có cảm giác đau, chị vùng dậy chạy tiếp …
Chị
có lẽ là người cuối cùng đến đích. Đầu gối chùng xuống, tim đập thình thình, mắt
hoa lên, chị không thể bước lên được cửa xe. Một anh cầm tay chị kéo giật lên.
Khi nhìn thấy Hạnh đang ngồi thở hổn hển, chị mới gục xuống.
Xe
tới chợ (người Việt) sân vận động, trời đã gần sáng. Người, hàng hóa ra vào tấp
nập. Phần đông đã có người nhà đón, số còn lại sang Đức, phải chờ. Chị và
Hạnh được người ta cho ở chung với mấy người đang phụ bán hàng ngoài chợ. Cùng
cảnh, nên họ cảm thông, thường nấu nướng cùng nhau ăn uống hay dẫn chị và Hạnh
ra chợ cho đỡ buồn, đỡ nhớ nhà. Đến bây giờ nghĩ lại, chị bảo, nếu như không có
hai tuần ở lại Warszawa và được sự chăm sóc, an ủi của các chị bán hàng ngoài
chợ, chắc chắn chị không đủ sức lực và tinh thần vượt biên vào Đức, khổ và gian
nan gấp nhiều lần so với từ Belarus vào Ba Lan.
Xuống
nhà ga Halbestadt, chị và Hạnh đang lò dò, ngó nghiêng, có người Việt nào để hỏi
đường vào trại tị nạn, không hiểu mấy người cảnh sát từ đâu ra, đã đứng ngay
trước mặt. Khi cảnh sát kiểm tra, chị và Hạnh chỉ có tờ giấy duy nhất ghi địa
chỉ của trại tỵ nạn trong người. Người cảnh sát gọi điện cho ai đó một lúc, rồi
ra hiệu cho chị và Hạnh lên xe. Tưởng họ chở vào tù, rồi trả về Việt Nam, Hạnh
sợ quá khóc ré lên. Người cảnh sát nói một tràng, rồi cười vỗ nhẹ vào vai Hạnh…
Sau
khi cảnh sát bàn giao cho trại tỵ nạn, chị và Hạnh được làm giấy tờ và nhận
phòng. Sáng hôm sau, người phiên dịch đưa chị và Hạnh đi phỏng vấn và kiểm tra
sức khỏe, sau đó nhận quần áo, và tiền tiêu vặt. Chị được cấp giấy phép tự do
đi lại tất cả các thành phố trong bang. Bước đầu khá thuận lợi, làm cho chị giảm
đi nỗi đau vừa trải qua, nhưng nỗi nhớ chồng con và gia đình lại quằn quại
thêm, làm cho chị nhiều đêm mất ngủ. Tháng sau chị và Hạnh cùng được chuyển về
thành phố Halle, nơi định cư mới. Nơi này là khu nhà lắp ghép, trước khi chị đến
đã có nhiều tị nạn người Việt và các nước khác đang ở đó. Được mấy hôm, không
hiểu sao chị và Hạnh lại gọi đi khám sức khỏe một lần nữa.
Trời
hình như chưa vào thu. Nhưng có một vài cơn gió nhẹ, cuốn theo những chiếc lá
còn xanh, bay đi. Làm cho lòng người day dứt, bồi hồi tựa như vừa đánh rơi một
cái gì đó, mà không thể gọi thành tên. Khi ánh nắng vẫn còn đậu trên những giọt
sương mai trong từng kẽ lá, mọi người vẫn còn chìm trong giấc ngủ. Người phiên
dịch, đi cùng hai nhân viên y tế gõ cửa vào phòng chị. Người phiên dịch bảo, Hạnh
bị mắc bệnh, cần phải chuyển ngay về bệnh viện Magdeburg điều trị, xe đang chờ ở
ngoài. Chị có linh cảm chẳng lành, nhưng Hạnh lại hồn nhiên dọn quần áo, như
chuyển trại vậy. Chiều chị phiên dịch quay lại, chị gặng hỏi, chị phiên dịch bảo:
-Nếu
em không phải là người nhà duy nhất của Hạnh, thì chị không dám nói. Nhưng em
phải thật bình tĩnh. Hạnh bị nhiễm HIV, từ vài ba tháng trước đây, trùng với thời
gian các em bị hãm hiếp ở Nga, như các em đã khai trong hồ sơ. Rất may cho em…
Chị
phiên dịch cứ nói, nhưng chị chẳng nghe được gì nữa, hai chân từ từ khụy xuống…
Theo
đề nghị của Hạnh, hôm sau xe của Caritas đón chị đến bệnh viện. Mới có mấy
ngày, trông Hạnh sọm hẳn đi, hai mắt đỏ hoe, sâu hoắm. Chị ôm chầm lấy Hạnh qua
lớp áo choàng của bệnh viện. Hạnh không còn một chút sinh lực nào, người rũ xuống.
Rất lâu, nhưng không ai nói được câu nào, chỉ có nước mắt và nước mắt. Lúc chị
về, Hạnh chỉ nói, em rất nhớ nhà, khi nào em chết, chị cố gắng mang em về quê
cho gần bố mẹ em, chị nhé. Chị ngoái lại, đừng có nói gở, yên tâm chữa bệnh, chị
sẽ đến thăm em thường xuyên.
Không
ngờ, đó là lần cuối cùng chị gặp Hạnh. Có lẽ không có gì sợ bằng sự chờ đợi cái
chết. Hạnh lại còn quá trẻ, không thể chịu nổi cú sốc đến quá nhanh, quá
bất ngờ như vậy. Hạnh tự giải thoát bằng cách lao mình từ tầng tư xuống đất
vào lúc trời gần sáng, ngay trong khuôn viên của bệnh viện. Vậy là tấm hình Hạnh
chụp, chưa kịp làm thẻ tạm trú, nay đã thành ảnh thờ. Sau cái chết của Hạnh, chị
phải vào bệnh viện nằm mấy tuần. Tưởng không đứng dậy nổi, nhưng nghĩ đến sự hy
vọng của gia đình với chị, với Hạnh, chị lại gượng dậy.
Chưa
được phép làm việc, chị đi làm chui làm lậu. Bất kể công việc gì, ở đâu, cứ có
người thuê, chị cũng múc. Công việc phụ dọn, bán hàng vải ngoài chợ giời
Leipzig, chị trụ được lâu nhất. Làm được hơn năm, ki cóp được khoản tiền, chị lại
phải lo mua đểu, lấy một ông chồng người Đức, để hợp thức hóa giấy tờ ở lại,
khi bị bác đơn tị nạn, nhận giấy trục xuất về nước. Việc thuyết phục ông chồng
thật ở nhà, ly hôn đểu, quả thật khó ngoài sức tưởng tượng của chị. Nhùng nhằng
mấy tháng, ông chồng thật mới chịu hiểu, thông cảm và gửi giấy tờ sang.
Số
chị quả thật đắng cay, vất vả. Ông chồng đểu, bình thường lành như đất, khi có
chút bia rượu, dù đã nhận tiền của chị, nhưng cứ đòi làm chồng thật. Nhè nửa
đêm, hắn khật khừ bấm chuông, đập cửa. Cả ngày đứng rét ngoài trời âm cả chục độ,
về nhà chui vào chăn, vẫn thấy rét từ trong rét ra, chị mệt quá, đuổi. Hắn lỳ
ra, xông thẳng vào bế thốc chị lên. Chị giãy giụa, chống cự, hắn như con trâu
húc mả… Lần đó, hàng xóm phải gọi xe cấp cứu chở chị đến bệnh viện. Trải qua những
lần như vậy, bác sỹ bảo, khả năng sinh đẻ của chị không còn nữa. Uất ức là thế,
đau là thế, nhiều lần bệnh viện gọi điện cho cảnh sát, nhưng cái thẻ cư trú còn
lơ lửng trên đầu, nên chị phải im lặng…
Đêm
muộn, câu chuyện của chị, người đàn bà hát, dường như chưa đến đoạn kết, nhưng
bị cắt ngang, bởi con gái chị đến. Nó bảo, vừa từ Berlin về thẳng đây (Halle của
bác Nam võ) hát với mẹ cho vui. Chị cười, may cũng còn có nó, cháu đang học năm
thứ ba, trường TU Berlin. Chị hẹn, hôm nào rảnh, vào chợ, chơi.
Gian
hàng của chị rộng rãi, nằm trên vị trí khá thuận tiện của khu chợ người Việt ở
Leipzig. Sau tết, chợ vắng khách, chị và mấy người giúp việc đang kiểm tra, dọn
dẹp lại hàng hóa, chuẩn bị cho vụ hè. Tôi hỏi, ông xã đâu mà chị phải khiêng
vác thế này. Không trả lời ngay, chị lấy nước, kéo ghế mời tôi.
Sau
khi nhận được thẻ cư trú vô thời hạn, chị tìm mọi cách đưa con và ông chồng,
đang vật vờ trên mạn ngược, sang đoàn tụ. Tạm yên tâm chuyện gia đình, chị dồn
và vay tiền, quyết tâm thuê lại gian hàng trong chợ. Hơn chục năm vật lộn với
nó, chị mới có cơ ngơi và thành quả như ngày hôm nay. Chị nói về chồng với nét
mặt chẳng vui, cũng chẳng ra buồn. Ngày mới sang còn đói rách thì chẳng sao,
bây giờ có tiền, hắn đâm đái chứng, đái tật, suốt ngày ca cẩm không có con trai
để nối dõi. Mấy tháng nay, hắn về Việt Nam, kiếm thằng con trai đấy. Với chị
bây giờ, mọi cái đều đơn giản, không còn quan trọng nữa…
Lúc
tôi đứng dậy ra về, chị bảo, kể câu chuyện trên với tôi như một sự dãi bày,
mong có sự đồng cảm. Nếu sắp tới, chị có ghi lại một chút quá khứ ấy bằng nhạc,
đề nghị tôi viết cho phần lời.
Vâng!
Nhất định sẽ giúp chị, với khả năng của mình, nắm chặt tay chị, tôi nói như vậy.
Leipzig
ngày 17-3-2013
©
Đỗ Trường
©
Đàn Chim Việt
No comments:
Post a Comment