Saturday, January 31, 2015

Không Phải Ngày Cuối Cùng của Việt Nam: Last Days in Viet-Nam (Nguyễn-Khoa Thái Anh)





01:48:am 30/01/15

Bốn mươi (40) năm sau cuộc thất thủ của miền Nam, nhiều người Việt còn rất cay đắng vì những lý do đưa đến sự thôn tính miền Nam của Bắc Việt. Trong số này người ta có thể kể ông Giao Chỉ – Vũ văn Lộc với bài “Sự Phản bội Cuối Cùng.”

Đọc bài “Sự Phản bội Cuối Cùng” của ông Giao Chỉ tôi cũng ao ước ông có thể gây quỹ để làm một cuốn phim cho đích đáng và đầy đủ, cho ông thật ưng ý, chứ những bộ phim lịch sử về chiến tranh của Việt-Nam do người Mỹ thực hiện, chẳng có phim nào đầy đủ hay chính xác cho vừa lòng chiến sĩ. Chưa nói đến phim  tài liệu Last Days in Vietnam của bà Rory Kennedy (cháu của cố tổng thống John F. Kennedy và con gái của ông Bộ trưởng tư pháp tư pháp Robert Kennedy, cả hai đều bị ám sát chết).

Đúng ra nếu ông Giao Chỉ đóng vai bình luận gia quân sư viết một bài bình luận về quân binh, những trận đánh hoặc những mưu mô, manh nha chính trị thì chuyện lên án, chửi bới có lẽ lại hơn! Tuy nhiên, chê bai cuốn phim tài liệu ‘Last Days in Vietnam’ (Những Ngày Cuối cùng ở Việt-Nam) của bà Rory Kennedy một cách nặng nề và thậm tệ thật không đúng chỗ.
Riêng tôi, và có lẽ nhiều người Việt khác thì biến cố 30 tháng Tư 1975 không phải là những ngày cuối cùng. Không kể những người Việt đã nằm sâu trong lòng biển hay bụng cá, hoặc chết vào tay hải tặc vào những thập niên 70 – 80, nhiều người khác cho đến nay vẫn mong đợi một ngày mai tươi sáng cho Việt Nam. Nhiều người vẫn tìm về với những lý tưởng và mơ ước của mình. Do đó Last Days in Vietnam chỉ là một phim nói lên một giai đoạn ngắn ngủi trong lịch sử ra đi của  người Việt. Một cuốn phim 90 phút đương nhiên không thể tránh khỏi những thiếu sót, người ta đánh giá nó trên những tiêu chí chính (tình người), của nó, không phải trên mọi phương diện,  quân sự hoặc tự ái cá nhân.

Tôi cũng không hiểu ông đại sứ Graham Martin có tiên liệu trước là miền Nam sẽ mất vào tay Cộng sản Bắc Việt hay không, hoặc giả ông vẫn còn chờ đợi một giải pháp trung lập thứ ba nào. Nhưng theo những nhân vật  trong phim tài liệu này thì ông Martin vẫn tin tưởng vào miền Nam ‘sẽ không mất’ nên không chịu dự tính một phương án di tản. Trong khi đó thì ông Giao Chỉ, dẫn chứng sách “Tears before the Rain” của Giáo sư Larry Engelman, nói về thương lượng của ông Henry Kissinger với Brezhnev đề nghị 2 tuần cho Mỹ rút lui (lúc đó chỉ còn từ 5.000 đến 7.000 người Mỹ ở Việt Nam. Ông Giao Chỉ trích: “Đầu tháng 4, đại sứ Graham Martin “muốn chắc ăn đã gửi đại tá Harry Summers đi theo chuyến bay của ủy hội quốc tế ra Hà Nội nói chuyện trực tiếp.”

Tuy có bàn qua sự triệt thoái của quân đội Hoa Kỳ và những lý do – như không viện trợ hay cung cấp vũ khí, thay thế những thứ bị hư hại đưa đến sự thất thủ của miền Nam, cuốn phim tài liệu này không nhằm chú trọng đến chuyện quân sự hay chính trị. Bà Kennedy chỉ dùng chúng như những bối cảnh cho thấy những nỗ lực đáng kể của nhiều người Mỹ trong những tình huống nguy cơ và cấp bách để nói lên sự dũng cảm của họ.

Có lẽ bà Rory Kennedy, dưới nhãn quan của một người Mỹ – đã cưu mang nhiều oan khuất vì cái chết bất đắc kỳ tử của bác và cha mình, cũng như những bất cập của Hoa Kỳ trong cuộc tham chiến ở Việt-Nam – nên đã dựng lại phim tài liệu này kể lại cuộc di tản tang thương và khó xử  đó. Trong cuốn phim này, đại ý cho thấy tính nhân bản của các nhân vật trong tòa Đại sứ Mỹ cũng như trong quân đội Hoa kỳ đã tìm cách đưa những người Việt ra đi bất kể lệnh trên.

Không hiểu ông Vũ văn Lộc có hiểu đại ý cuốn phim tài liệu này không? Ông Kissinger không phải là tài tử (phim tài liệu không có tài tử) bình luận, hay là nhân vật chính trong cuốn phim tài liệu này, tuy rằng ông là người đã giữ vai trò cốt yếu trong cuộc hoà đàm với Bắc Việt dẫn tới chuyện Ngụy Ước Paris 73 (1).  Ông Kissinger, ông Nixon, cũng như ông Ford (tuy rằng ông Kissinger là người duy nhất trong 3 người vẫn còn sống đến ngày nay nên đã được mời góp ý trong cuộn phim) đều là những người thứ phụ trong phim này, sự hiện diện của họ chỉ làm sáng tỏ những tiết yếu và diễn tiến của những ngày cuối cùng nhằm minh họa cuốn phim.

Những nhân vật chính trong phim này là đại úy bộ binh Stuart Herrington (có thể coi là bình luận viên (narrator), Juan Valdez sĩ quan Thủy quân Lục chiến), Frank Snepp (CIA), Đại sứ Graham Martin, Richard Armitage (Cố vấn quân sự), Gerry Berry, (Phi công trực thăng), người di tản cả ngàn người Việt, Paul Jacobs (thuyền trưởng tàu Kirk) Phía người Vịệt gồm có: Đại úy Đổ Kiểm, Bình Phó (sinh viên), Đại úy Hải quân Phạm Hữu Đàm, Nguyễn Miki, con trai ông phi công trực thăng Chinook, người đã biễu diễn một màn thoát hiểm ngoạn mục trên tàu Kirk)

Bà Rory Kennedy dù sao cũng là một người Mỹ, trong phần Q&A khi khai trương cuốn phim hồi tháng 10, đối với cuộc chiến khá phức tạp của Việt Nam khi hỏi về bài học mà cuộc chiến Việt Nam đã mang lại, bà đã trả lời, đại ý rằng trước khi tham chiến vào một quốc gia nào thì Hoa kỳ phải tính đến hậu quả (cũng như lối ra ý nghĩa hơn là cắt đức và bỏ chạy (?).

Phần lớn ai đi xem ‘Last Days in VN’ cũng khó cưỡng lại kết cục làm rơi lệ, cảm thương cho số phận Việt-Nam. Trong phim, chạnh lòng nhất là câu hỏi của ông Đại úy Phạm Đàm, cựu quân nhân VN Cộng hòa, tù Cộng Sản 6 năm: “Có phải mục tiêu cuộc tham chiến Mỹ là dẫn đến cuộc di tản tang thương này…?” Rồi những lời hối hận của các chiến binh, tham tán quân vụ, ngoại giao, lo cho số phận những người VN bị bỏ rơi.

Đến lúc đèn sáng, đạo diễn, cô Rory Kennedy ra kêu gọi khán giả aỉ là người VN xin đứng dậy, khán giả cho một tràng pháo tay. Sau đó tôi là người đầu tiên đặt câu hỏi, nghẹn lời xúc động: “Đã 51 năm từ hồi bác cô, ông J. F. Kennedy là tổng thống đầu tiên gởi quân sang VN, rồi bật đèn xanh cho lật đổ ông Diệm, rốt cuộc ông Diệm bị giết 3 tuần trước ông Kennedy – VN ngày nay vẫn còn mù mịt (in limbo) dưới bóng Trung quốc…”

Ý của bà mà tôi có thể đọc được là sau nhiều năm bị gặm nhắm với những mặc cảm tội lỗi do hội chứng VN (Vietnam syndrome) nên đã có ý tìm đến góc cạnh cứu độ của những người Mỹ trong tòa đại sứ cũng như những nhân vật khác thuộc các binh chủng Hoa Kỳ, kể cả những cấp trên của họ.

Bà cũng nói thông điệp chính của ‘Last Days in Vietnam’ không chú trọng vào vấn đề chính trị mà chỉ đề cao tình người.

Thiết nghĩ nếu chịu khó nghiên cứu người ta có thể đào ra vô số những yếu tố đưa đến sự thất thủ của miền Nam, nhưng không ai với một thái độ bình tĩnh và từ tốn sau khi xem phim tài liệu ‘Last Days in Vietnam’ của bà Rory Kennedy và những nỗ lực tìm đến cộng đồng Việt Nam của bà qua những dự án như: trình chiếu phim tài liệu này (có phụ đề Việt ngữ do người viết dịch) ở nhiều vùng trên nước Mỹ và hoàn toàn miễn phí, cũng như “Dự án Những Ngày Đầu” nhằm tri ân các làn sóng người Việt tị nạn bằng cách kêu gọi họ ghi âm những câu chuyện của họ và cho lưu trữ trong Thư viện quốc gia Hoa Kỳ (U.S. Library of Congress) cho các thế hệ mai sau – mà lại đồng hóa cuộn phim này với sự phản bội cuối cùng của Kissinger hay Hoa Kỳ. Tuy nhiên vì những lý do riêng tư nào đó, ông Giao Chỉ đã lên án nặng nề cuốn phim Last Days, gọi nó là một phim chết tiệt!

“Theo ý tôi, đây là một phim chết tiệt. Nên gọi là Sự phản bội cuối cùng.”
“Tôi không thích phim này, nhưng tôi biết có những người rất thích và có lý do để thích. Việt cộng.” 
“Phim đã chẳng ra làm sao, tài tử bình luận chính lại là Kissinger đóng vai nhà chính khách nhân đạo, thương yêu Việt Nam hết sức.” (Vũ văn Lộc)

Người ta có thể lên án Bắc Việt một cách chính đáng đã vi phạm trắng trợn hiệp định Ba-lê năm 73 mà họ đã ký kết. Một cách chính đáng người ta cũng nguyền rủa ông Kissinger đã cố tình bán đứng miền Nam qua hiệp định này, vì ngoài những hậu ý ám chỉ chuyện nhân nhượng của Hoa Kỳ trong các giao tế ngoại giao, chấp nhận sự hỏa mù của Lê Đức Thọ trong việc thương lượng, Kissinger đã mặc nhiên cho phép Bắc Việt để lại tại miền Nam hơn 130.000 quân đội chính quy của họ. ̉Người ta cũng có thể một cách chính đáng buộc tội Quốc hội Hoa Kỳ, đã buông rơi miền Nam, cắt đứt mọi mặt viện trợ cho miền Nam trong những ngày tháng cuối cùng của cuộc chiến phòng thủ Sàigòn của ông Thiệu.

Xa hơn nữa nguồn gốc của sự “đã nằm trong thiên thư” này có lẽ đã nảy mầm từ trước năm 1971 khi Nixon và Kissinger đã lót đường cho Trung hoa lục địa giao du với Hoa kỳ (và thế giới bên ngoài) đưa đến chuyện mà người ta có thể  gọi một cách chính đáng là sự phản bội của Hoa Kỳ đối với Việt-Nam Cộng-hòa. Đó là nhân chuyện đàn áp Phật giáo Hoa kỳ đã bật đèn xanh cho các tướng lãnh miền Nam lật đổ (và thủ tiêu hai ông Diệm-Nhu) từ 1 tháng 11, 1963. Tuy rằng là một chế độ gia đình trị, sự lật đổ hai ông Diệm Nhu đã giúp Hoa kỳ đưa quân đội Mỹ ồ ạt vào miền Nam. Từ đó sự tham chiến của Hoa Kỳ là con dao hai lưỡi, một mặt giúp cho Cộng sản miền Bắc lấy cớ tuyên truyền (che đây chính sự mất chính nghĩa làm tay sai cho quan thầy Trung Cộng và Nga xô của mình) ’Hoa kỳ xăm lăng’ và lũng đoạn chính quyền miền Nam, một mặt vừa khiến miền Nam ỉ lại quá đáng vào sức mạnh và sự bền bĩ của Hoa Kỳ.

Nhưng ‘Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách’ có lẽ một cách chính đáng hơn người ta nên trách sự tồi dở của ông Thiệu và lãnh đạo miền Nam đã quá tùy thuộc vào đồng-minh-không-bền-chí Hoa Kỳ.

Tôi không bào chữa cho sự sai lầm và toan tính của Hoa Kỳ đã đưa đến những chính sách không có lợi cho miền Nam trong cuộc chiến đó (kể từ đời các tổng thống: Eisenhower, đến Kennedy, đến Johnson, đến Nixon, đến Ford).

Ngoài chuyện địa chính trị và realpolitik (chính trị thực dụng) mà miền Nam phải làm đồng minh của Mỹ –  thay vì Mỹ phải là đồng minh của VN (mới đúng), Vì đây chính là cuộc chiến của VN, có gọi là cuộc chiến ủy thác, chiến tranh lạnh trong điạ bàn quốc tế, chiến tranh Quốc-Cộng, nội chiến, hay CS Bắc Viêt gọi là Chiến Hoa Kỳ, ( ̣chống đế quốc Mỹ và tay sai) v.v.. và v.v.. Có muốn truy từ gốc ngọn cuộc chiến từ tàn dư của cuộc đô hộ của (thực dân) Pháp thì vấn đề cốt lõi mà những người VN trung chính và chân chính nào cũng nên thừa nhận: cuộc chiến vừa qua đã định đoạt vấn đề sống còn và ước vọng của một dân tộc đang đi tìm chỗ đứng và tương lai, lý tưởng và ý chí của  đất nước .

Chính ra Mỹ phải là đồng minh của VN chứ không phải VN phải làm đồng minh của Mỹ. Vì cuộc chiến trước và sau là cuộc chiến của VN, chứ không phải của Mỹ tuy rằng VN sau nền Cộng hòa thứ hai đã để cho Mỹ thao túng cuộc chiến vì chế độ quân lực và lãnh đạo yếu hèn.

Không ai phủ nhận là Mỹ đã bỏ rơi VN, nhưng hơn 30 năm trước khi gót giầy của quân đội Mỹ rầm rộ dẫm xuống Việt Nam (vào tháng 3 năm 65), trong thế tranh tối tranh sáng trước địa chính trị của các cường quốc, chúng ta đã chật vật lao tâm lao lực, cố vươn lên tìm lối thoát trong bối cảnh đô hộ của Pháp-Nhật, nhưng vẫn không tránh khỏi chuyện đổ máu vì những âm mưu đen tối cá nhân mượn chủ nghĩa Cộng sản làm cứu cánh cho tham vọng của mình.  Ngoài đảng Cộng sản ra, không ai có thể nói rằng Hoa Kỳ đã khởi sự của cuộc chiến VN.

Mặc dù nếu có vặn vẹo diễn dịch với những nhân tố quan yếu như geopoliticsrealpolitikCold War giữa Cộng sản Quốc tế thứ 2 , 2 rưỡi, thứ ba, thứ tư và Tư bản hay Thế giới Tự do v.v.. để đổ thừa rằng Mỹ và các thế lực thù địch đã lèo lái và đánh mất chính nghĩa của Cộng hòa cho CS. Thì câu hỏi cuối cùng mà người Việt nên hỏi là:
Có phải nước Việt Nam là của người/dân tộc VN không, hay là nói như ông Thiệu: nếu Mỹ viện trợ VN $300 triệu thì ta đánh theo 3 trăm triệu, nếu cho $700 triệu (Mỹ kim) thì ta đánh theo $700 triệu?

Một chuyện đáng xấu hổ là thay vì chấp nhận trọng trách thua cuộc của miền Nam do những thiếu sót và lỗi lầm đã nêu ra, như đã tin và tùy thuộc vào (người) Mỹ quá đáng. Đến bây giờ không nhận thức được chuyện đó lại đi bêu rêu chuyện thiếu sót của người làm phim Mỹ. Có giỏi thì chính mình tự làm nên cuốn phim của mình hà cớ gì lại bới móc chuyện người ngoại cuộc!

Oải lắm! Xin lỗi quý đọc giả khi phài viện dẫn, lý giải dài dòng như trên.
________________________________________________

(1) Xin xem bài của Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích về Hiệp định Paris 1973
© Nguyễn-Khoa Thái Anh

Sau đây là bản dịch Dự án của bà Kennedy và đội ngũ của bà:
Dự án Câu chuyện Những Ngày Đầu/The First Days Project Story là một sự hợp tác giữa StoryCorps và AMERICAN EXPERIENCE/KINH NGHIỆM HOA KỲ của Đài PBS, nhằm mục đích thu thập, bảo tồn, và ngợi ca những mẫu chuyện của những người tị nạn Việt-Mỹ và các cựu chiến binh Việt Nam. Dự án mong mỏi mời các thành viên trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt và các cựu chiến binh Việt Nam có quan hệ mật thiết với cộng đồng người Việt di cư sau chiến tranh; quý vị sẽ được dành cho 40 phút không bị gián đoạn để trò chuyện với một người thân hay bạn bè, nhằm ghi lại kinh nghiệm tị nạn Việt Mỹ qua tiếng nói của những người đã kinh qua giai đoạn này.

VỀ DỰ ÁN CÂU CHUYỆN NHỮNG NGÀY ĐẦU
First Days Story Project/Dự án Câu chuyện Những Ngày Đầu là một phần sáng kiến của bộ phim tài liệu Last Days in Vietnam/Những Ngày Cuối cùng tại Việt Nam, khởi xướng việc tiếp cận và nối vòng tay lớn với cộng đồng Việt. Được sản xuất bởi KINH NGHIỆM HOA KỲ của Đài PBS, Những ngày cuối cùng ở Việt Nam thuật lại bằng hình ảnh những ngày hỗn loạn cuối cùng trong cuộc chiến tranh Việt Nam và nói lên câu chuyện thương tâm về lòng dũng cảm và khả năng sống còn của người dân vượt biên miền Nam, và các nhân viên quân lực Hoa kỳ, trong nhiều trường hợp, đã không tuân lệnh cấp trên để nỗ lực cứu trợ người Việt di tản. Bộ phim soi rọi nhiều tình huống trong những ngày cuối cùng đó. Bốn mươi năm sau, Dự án Câu chuyện Những Ngày Đầu hy vọng sẽ ghi lại những mẫu chuyện của cộng đồng Việt-Mỹ và cựu chiến binh Việt Nam trong những ngày đầu của họ tại Hoa Kỳ sau cuộc chiến. Kết quả nội dung của các mẫu chuyện này sẽ được chia sẻ trên một trang mạng truyền thông đa dạng và sẽ được lưu trữ tại Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ. Đây là những câu chuyện đã tạo nên một phần quan trọng lịch sử quốc gia của chúng ta, và chúng tôi muốn lưu giữ chúng cho các thế hệ mai sau.

CÁCH LÊN LỊCH PHỎNG VẤN
Các mẫu chuyện sẽ được thu thập vào đầu năm 2015 thông qua các quan hệ đối tác ở các thành phố sau đây:
· San Jose, CA
· Westminster, CA
· Houston, TX
· Seattle, WA
· Boston, MA
· Falls Church, VA

Quý vị có thắc mắc về dự án và lịch trình, xin vui lòng liên lạc với cô Vũ Ngọc-Trân tại: tran_vu@wgbh.org

VỀ STORYCORPS
StoryCorps là một tổ chức phi lợi nhuận Hoa kỳ có sứ mệnh cung cấp cho người dân thuộc mọi tầng lớp và đức tin khác nhau cơ hội để ghi âm, chia sẻ và lưu giữ những câu chuyện về cuộc sống của tất cả chúng ta. Kể từ năm 2003, gần một trăm ngàn người thường dân đã ghi âm câu chuyện của họ với StoryCorps. Ngoài việc là một trong những dự án lớn nhất lịch sử truyền khẩu thuộc thể loại này, hàng triệu người nghe StoryCorps phát thanh hàng tuần qua chương trình Buổi Sáng/Morning Edition của NPR.

VỀ KINH NGHIỆM HOA KỲ/AMERICAN EXPERIENCE
Trên hai mươi lăm năm nay, American Experience/Kinh nghiệm Hoa Kỳ là một chương trình truyền hình về lịch sử được xem nhiều nhất trên vô tuyến, và đã mang lại sức sống cho những nhân vật có tên tuổi, chính những câu chuyện sử thi này đã định hình được quá khứ và hiện tại của Hoa Kỳ. (Thái-Anh dịch)
Vũ Ngọc-Trân
Điều phối viên dự án
Những Ngày Cuối cùng ở Việt Nam
Kinh nghiệm Hoa Kỳ
WGBH Boston
617.300.5963





No comments:

Post a Comment