Lịch
sử thế giới mà chúng ta đã trải qua nói lên sự thăng
trầm của những nền văn minh nhân loại từ đế quốc
La Mã cho đến đế quốc Ottoman. Những nền văn minh phổ
quát đó tuy đã có một thời kỳ hưng thịnh lẫy lừng
nhưng rút cuộc cũng trở thành mục nát trước khi bị
đẩy lùi vào bóng đêm của lịch sử.
Vào
lúc này một câu hỏi cần được nêu lên là liệu nền
văn minh Tây phương có thể nào là một ngoại lệ hay rồi
cũng sẽ chịu chung một số phận. Câu trả lời thật ra
chưa dứt khoát vì số đông các nhà quan sát đã nhìn
thấy ở nền văn minh Tây phương một vài điểm đặc
biệt so với những nền văn minh trong dĩ vãng.
Họ
nhận thấy rằng, khác với những nền văn minh cổ xưa,
nền văn minh Tây phương ngày nay đã để lại những dấu
ấn rộng lớn trên những nền văn minh khác. Nó cũng khai
trương một tiến trình hiện đại hóa và công nghiệp
hóa toàn cầu. Tiến trình này đưa đến kết quả là bất
cứ nước nào trên thế giới đều cố gắng noi theo để
đạt tới cùng một trình độ phát triển với các nước
Tây phương.
Liệu
thành tích nói trên có thể được coi là một nét đặc
biệt của nền văn minh mà chúng ta đang quan tâm? Trước
khi đi đến một kết luận khả dĩ chấp nhận, ta hãy
tìm hiểu thêm vể sự phát triển của nền văn minh đó.
Những
giai đoạn phát triển của nền văn minh Tây Phương
Nhiều
học giả cho rằng một nền văn minh thường phát sinh và
phát triển qua bảy giai đoạn: pha trộn (mixture), thai
nghén (gestation), phát triển (expansion), tranh chấp
(conflict), phổ biến (universal,) mục nát (decay) và xâm
lược (invasion). Nhìn chung nền văn minh nào cũng phát
triển qua ba thời kỳ: thứ nhất, đấu tranh để phát
triển; thứ hai ổn định để phát triển; thứ ba, suy
thoái và tàn lụi.
Nền
văn minh Tây phương thành hình từ năm 370 trước Công
Nguyên đến năm 750 bằng sự pha trộn của các nền văn
minh cổ điển Semitic và Saracen. Giai đoạn thai nghén của
nó kéo dài từ thế kỷ thứ 8 đến cuối thế kỷ thứ
10. Tiếp theo là những giai đoạn tranh chấp để phát
triển. Đến nay thì nền văn minh Tây phương đã ra khỏi
giai đoạn tranh chấp và bước sang thời kỳ ổn định
để phổ biến (kể từ khi Chiến Tranh Lạnh chấm dứt).
Giờ
đây nền văn minh Tây phương xuất hiện như một hệ
thống chính trị dân chủ đa nguyên gồm một khối hài
hòa và vững chắc những chế độ và định chế tiên
tiến. Nó đang đi vào giai đoạn hưng thịnh vì mọi tranh
chấp nội bộ mang tính phá hoại đã chấm dứt, mọi
hàng rào mậu dịch quốc tế đã bị hủy bỏ. Hình thái
chính quyền dân chủ đã được phổ biến rộng khắp,
quan hệ và tương tác giữa các quốc gia đã hoạt động
nhuần nhuyễn như trong một hệ thống chính trị toàn cầu
mang tính phổ quát.
Theo
tác giả Caroll Quigley (The Evolution of Civilization, 1961) sở
dĩ các nền văn minh phát triển và lớn mạnh vì nó có
một công cụ phát triển. Công cụ đó là một tổ chức
chính trị, kinh tế, quân sự, tôn giáo biết cách đầu
tư có lời và lại dùng mức lời thặng dư để tái đầu
tư vào những phát minh sản xuất mỗi ngày một tiên
tiến.
Các
nền văn minh sẽ suy thoái khi nào những loại đầu tư
này không còn nữa. Nói theo ngôn ngữ hiện đại là khi
nào tỷ số đầu tư xuống thấp. Đầu tư xuống thấp
vì thặng dư lợi tức chỉ dành cho tiêu thụ hoặc được
dùng vào những phương án sản xuất không hiệu quả. Xã
hội suy nhược và tiến trình suy thoái dân dần đưa đến
sự sụp đổ. Nếu chưa sụp đổ thì cũng bị ngoại
nhân xâm chiếm. Đó là những gì đã xảy ta trong lịch
sử.
Hoa
Kỳ có phải là một nền văn minh đang suy thoái?
Những
gì đã xảy ta tại Hoa Kỳ vào giữa thập niên 1990 đã
bị một số nước đánh giá như là Hoa Kỳ đã trở
thành một nền văn minh già cỗi và đang trên đà suy
thoái. Mặc dầu có nhận xét như vậy, nhưng nhận xét
này không mang tính thuyết phục. Không thuyết phục vì
trên thực tế , vào lúc này nền văn minh Hoa Kỷ (và nói
chung là nền văn minh Tây phương) vẫn còn là nền văn
minh giàu có nhất. Nền kinh tế của Hoa Kỳ và của các
quốc gia Châu Âu vẫn tiếp tục phát triển và Tây phương
(Hoa Kỳ + Châu Âu) vẫn ở trong vị thế lãnh đạo môi
trường khoa học kỹ thuật của thế giới.
Về
mặt văn hóa người Mỹ xác định văn hóa của họ là
văn hóa Châu Âu cộng thêm một số nguyên tắc chính trị
mà cả họ lẫn người Châu Âu đều đồng thanh nhìn
nhận là: tự do, dân chủ, cá nhân chủ nghĩa, pháp trị,
bình đẳng trước pháp luật, tôn trọng quyền tư hữu
và tính hiến định của chế độ.
Gần
đây đã có một số ý kiến muốn Hoa Kỳ từ bỏ văn
hóa Châu Âu để trở về với văn hóa Á Châu, nhưng
những ý kiến đó xem ra thiếu thực tế. Thiếu thực tế
vì người Hoa Kỳ nào cũng biết rằng nếu ruồng bỏ văn
hóa Châu Âu và những nguyên tắc chính trị họ vẫn tin
tưởng và hãnh diện kể từ ngày lập quốc đến nay thì
Hoa Kỳ sẽ mất chỗ đứng trên bản đồ thế giới và
nền văn minh Tây phương cũng sụp đổ theo.
Các
nhà lãnh đạo Tây phương hiện đang có chương trình trẻ
trung hóa và hiện đại hóa cộng đồng Đại Tây Dương.
Họ đồng ý với nhau rằng nếu Cộng Đồng Đại Tây
Dương (Atlantic Community) muốn được vững chắc thì phải
dựa trên bốn cột trụ: thứ nhất, cột trụ an ninh
tượng trưng bởi NATO; thứ hai, cột trụ pháp trị và
nhà nước dân chủ; thứ ba, cột trụ tư bản phóng
khoáng và mậu dịch tự do; thứ tư, cột trụ văn hóa
Tây phương dựa trên văn hóa cổ Hy-La và những giá trị
của nó đã được khơi dậy từ thời Phục Hưng.
Năm
1995 Ủy Ban Liên Âu (European Commission) đưa ra phương án
“Canh Tân Hóa Quan Hệ Đại Tây Dương”. Phương án này
đã đưa đến việc ký kết một hiệp định hợp tác
nới rộng giữa Liên Âu và Hoa Kỳ. Kết quả là một
vùng mậu dịch tự do rộng lớn đã được thành lập.
Hoa
Kỳ và Châu Âu đang tiến sang giai đoạn phát triển thứ
ba
Nhìn
lại nền văn minh Tây phương ta thấy rằng nền văn minh
này đã vượt qua giai đoạn phát triển và bành trướng
kéo dài trong nhiều thế kỷ gọi là giai đoạn Châu Âu.
Giờ đây, nền văn minh này đã tiến sang giai đoạn Hoa
Kỳ là giai đoạn thứ hai. Trong thời gian trước mắt,
nếu Hoa Kỳ và Châu Âu biết canh tân sự hợp tác của
họ thì họ sẽ tiến sang giai đoạn thứ ba gọi là giai
đoạn Âu-Mỹ (Euroamerican phase). Hậu quả của sự
canh tân chắc chắn sẽ vực dậy sức mạnh của nền văn
minh Tây phương với điều kiện là Hoa Kỳ phải tái xác
định vai trò lãnh đạo của mình trong nền văn minh đó.
Nhìn
chung, tính cho đến ngày nay thì nền văn minh nào cũng
phải đi qua những tiến trình thành hình, phát triển và
suy thoái giống nhau. Nhưng nếu nhìn kỹ thì ta thấy nền
văn minh Tây phương không giống những nền văn minh khác
ở chỗ nó có những giá trị và định chế hoàn toàn
đặc biệt.
Những
giá trị và định chế đó là: Thiên Chúa Giáo, tính đa
nguyên, cá nhân chủ nghĩa và chế độ pháp trị. Tất cà
những thứ đó đã giúp Tây phương đi vào hiện đại
hóa cũng như bành trướng một cách dễ dàng và trở
thành sự thèm muốn của các nền văn minh khác.
Tổng
số những giá trị nói trên là một loại gia tài đặc
biệt và riêng biệt của nền văn minh Tây phương. Châu
Âu và Hoa Kỳ là những vùng đất duy nhất sở hữu những
giá trị đó. Cho nên phải nói rằng giá trị của nền
văn minh Tây phương đến từ tính cách đặc biệt đó
chứ không phải đến từ thực trạng phổ quát của nền
văn minh ấy.
Tây
Phương cần phải bảo vệ những giá trị đặc biệt của
mình
Các
lãnh tụ Tây phương không cần uốn ắn những giá trị
khác theo mẫu hình của mình mà chỉ cần bảo vệ tính
duy nhất cuả các giá trị đặc biệt như đã nói ở
trên. Vì nước Mỹ là quốc gia hùng mạnh nhất của nền
văn minh Tây phương nên trách nhiệm bảo vệ đó thuộc
phần các lãnh tụ Hoa Kỳ.
Nhiều
ý kiến xây dựng cho rằng để có thể làm đầy đủ
trách nhiệm bảo vệ đó Hoa kỳ và các nước Châu Âu
phải nghiêm chỉnh thi hành những việc sau đây:
Phối
hợp chặt chẽ sức mạnh chính trị, kinh tế và quân sự
giữa các quốc gia của khối và ngăn cản không cho cạc
quốc gia khác khai thác những sự khác biệt trong nội bộ.
Chấp
nhận cho gia nhập Liên Âu và NATO các nước miền Tây
Trung Âu và các nước vùng Baltic, Slovenia và Croatia.
Thúc
đẩy Tây phương hóa Châu Mỹ La Tinh và đồng minh hóa
vùng này.
Kiểm
soát và hạn chế sức phát triển của của các vũ khí
cổ điển và không cổ điển của các quốc gia Hồi giáo
và đồng minh của Trung Quốc.
Chấp
nhận Nga như một quốc gia cốt lõi của nền văn minh
Chính Thống Giáo, trấn giữ phía Nam của nền văn minh
Tây phương.
Duy
trì thế ưu việt của tiến bộ khoa học kỹ thuật Tây
phương so với các nền văn minh khác.
Quan
trọng nhất là phải ý thức được rằng sự can thiệp
vào nội bộ của các nền văn minh khác có thể đưa đến
mất ổn định và nguy cơ chiến tranh mở rộng trong một
thế giới đa văn minh đa văn hóa.
Tây
Phương và sự suy thoái của Trung Quốc
Hiện
nay nền kinh tế của Hoa Kỳ và cộng đồng quốc tế phụ
thuộc nặng nề vào Trung Quốc như một cỗ máy cho sự
tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Cho nên sự trì trệ và
suy thoái kinh tế ở Hoa Lục sẽ ảnh hưởng đến chính
sách ngoại giao của Hoa Kỳ cũng như của cộng đồng
quốc tế.
Trở
về với một dĩ vãng gần ta thấy trong ba thập kỷ qua
Hoa Kỳ và Châu Âu đã theo đuổi một chính sách nhằm
đưa Trung Quốc vào hệ thống kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên
trong những năm 2000, có quá nhiều người trong Quốc Hội
Mỹ lập luận rằng: Trung Quốc hiện nay đã trở thành
quá mạnh, và đã đến lúc phải đòi hỏi Trung Quốc
thay đổi chính sách vụ lợi và tiền tệ, tôn trọng sở
hữu trí tuệ và nhân quyền. Hướng đi mới này của Mỹ
tỏ ra không thích hợp và có nguy cơ đưa đến hậu quả
nghiêm trọng.
Mặc
dù đối với Hoa Kỳ hiện nay, Trung Quốc có vẻ là một
đối thủ chính trị và kinh tế đang trỗi dậy, nhưng
tình trạng đó có thể nhanh chóng bị đảo ngược. Người
ta cũng đã tiên đóan sai lầm về trường hợp của Nhật
Bản cách đây ba thập kỷ. Cho nên mọi phản ứng chống
lại “mối đe dọa cuả Trung Quốc” cần phải được
cân nhắc kỹ lưỡng.
Hoa
Kỳ nên tránh để không cho xảy ra bất cứ lý do nào
khiến Trung Quốc có thể cáo buộc Washington là nguyên
nhân gây ra các tại họa cho đất nước họ. Nếu tình
hình kinh tế tại Hoa Lục xấu đi thì bất cứ một vận
động quân sự nào mang tính đối đầu cũng sẽ leo thang
hơn là nhân nhượng. Chiêu bài “mối đe dọa của ngoại
bang” sẽ được phóng đại để đàn áp đối lập
trong nước và chống đối nước ngoài.
Vào
lúc này, Hoa Kỳ phải biết rõ rằng Hoa Kỳ không thể
thống trị thế giới và cũng không thể trốn khỏi thế
giới. Cả hai “chủ nghĩa thế giới” và “cô lập”
đều không thể áp dụng vì không có chủ nghĩa nào có
thể phục vụ hữu hiệu quyền lợi của đất nước.
Thái độ khôn ngoan cần có là phải cố tránh mọi chính
sách cực đoan và mọi sự quần tụ bè phái không cần
thiết.
Nguyễn
Cao Quyền
Tháng 12 năm 2014
Tháng 12 năm 2014
No comments:
Post a Comment