Thomas A. Bass
Phạm
Nguyên Trường dịch
Tháng
11 2, 2014
NHỮNG
CƠ CHẾ KIỂM SOÁT VĂN CHƯƠNG
Tháng
3 năm 2014 – không người nào có thể cho tôi biết chắc chắn, và, trên thực tế,
mãi đến tháng 5 năm 2014 mới có giấy phép xuất bản – bản dịch tiếng Việt tác
phẩm The Spy Who Loved Us xuất hiện tại Hà Nội. Đến lúc này, ngay cả tên
tác phẩm của tôi cũng bị kiểm duyệt. Nó bị rút xuống thành Z.21, bí danh
của Phạm Xuân Ẩn, như thể cuốn sách, cũng như nhân vật chính của nó, sẽ tìm
cách lặng lẽ đi qua các địa hình đang biến đổi của những cuộc chiến tranh văn
hóa ở Việt Nam.
Tôi
nhận được bản liệt kê những đoạn bị kiểm duyệt lần chót và đang ngồi xem những
đoạn bị cắt thì nhận được email nói rằng cuốn sách đã được xuất bản. Như thế là
vi phạm hợp đồng, nhưng tôi quyết định không làm căng mục này vì bây giờ tôi
được tự do – trong sáu tháng – để công bố phiên bản không bị kiểm duyệt của
mình trên mạng. Các trang web là nơi nền văn học Việt Nam chuyển đến, vì mạng
lưới u ám của an ninh giám sát, của những vụ phạt tiền, của lưu vong và nhà tù
bủa vây ngày càng chặt các nhà báo, blogger, nghệ sĩ, nhạc sĩ, nhà văn và nhà
thơ của đất nước này – vâng, thậm nhà thơ ở Việt Nam cũng có thể gặp rắc rối,
như tôi nhanh chóng nhận ra trong chuyến thăm Việt Nam.
Tôi
tận dụng chút dư luận dấy lên nhân việc cuốn sách của tôi được ra mắt (trong đó
có bài giới thiệu đăng ngay trang bìa tờ Tuổi trẻ) để lên lịch cho một
chuyến đến Đông Nam Á. Tôi muốn gặp các nhà kiểm duyệt mà tôi đã đấu khẩu suốt
năm năm qua, hoặc ít nhất là người nào sẽ đứng ra và nói chuyện với tôi. Tôi
tới Hà Nội bằng một chuyến bay đêm từ Paris cuối tháng Năm và bắt đầu bơi qua
bầu chướng khí của cái nóng và ẩm nhiệt đới, trước khi tìm được chỗ trú chân ở
Khách sạn Nhà Thờ, gần Nhà thờ Lớn trong khu phố cổ Hà Nội. Tôi lên lịch cho
cuộc gặp Nguyễn Việt Long, biên tập viên đầu tiên của tôi ở Nhã Nam. Tôi cũng lên
lịch gặp Nguyễn Nhật Anh và Vũ Hoàng Giang, Giám đốc và Phó giám đốc công ty
này. Sau đó, tôi được biết rằng có hai người nữa, cũng có vai trò trong vụ này,
muốn nói chuyện với tôi. Đó là Nguyễn Thế Vinh, biên tập viên ở Nhà Xuất bản
Hồng Đức, một nhà xuất bản quốc doanh, người lập danh mục cuối cùng những đoạn
văn bị kiểm duyệt và sau đó cấp giấy phép xuất bản cho tác phẩm của tôi. Một
người nữa đồng ý gặp tôi là ông Dương Trung Quốc, một nhà sử học và là đại biểu
Quốc hội Việt Nam, người hình như đã thương thảo về mặt chính trị để cuốn sách
của tôi – hay chí ít là một phiên bản nào đó của cuốn sách – được xuất bản ở
Việt Nam.
Người dịch Z.21 là một nhà báo ở
Hà Nội tên là Đỗ Tuấn Kiệt. Căn cứ vào công việc của ông (đáng tiếc là khi tôi ở
Hà Nội thì ông lại đi vắng), có thể thấy ông Kiệt là người nói tiếng Bắc,
phương ngữ chiếm ưu thế ở Việt Nam, nay pha đầy những thuật ngữ Mác-Lênin mượn
từ tiếng Tàu. Người miền Nam thấy ngôn ngữ này nhức tai. Đấy không phải là ngôn
ngữ mà Phạm Xuân Ẩn, nhân vật chính trong cuốn sách của tôi, từng nói, và, quả
thực, ông thường chế giễu kiểu nói năng ấy. Năm 1978 ông phải học 10 tháng ở
Trường Đảng mang tên Nguyễn Ái Quốc tại Hà Nội, như một cách “cải tạo” – một nỗ
lực bất thành nhằm dạy ông những thuật ngữ này. “Tôi đã sống quá lâu trong hàng
ngũ kẻ thù”, ông nói. “Nên họ đưa tôi đi tái chế.”
Sau
khi cuốn sách của tôi được dịch, ông Long, biên tập viên của tôi, bắt đầu công
việc kiểm duyệt nó một cách khá nghiêm túc. Suốt mấy năm ròng, trong khi ông
tìm cách xin giấy phép xuất bản, và hết nhà xuất bản này đến nhà xuất bản khác
không chịu cấp giấy phép thì nội dung tác phẩm cũng ngày càng bị sửa chữa nhiều
hơn. Rốt cuộc, tôi đoán rằng dự án này đã nhuốm mùi nguy hiểm. Đây là thứ không
ai muốn dây vào, nếu người ta đánh giá cao sự nghiệp biên tập viên báo Công an
hay ở Bộ Nội vụ. Bản thân ông Long chắc hẳn đã bắt đầu bị tình nghi. Sau đó,
ông rời ngành xuất bản sách thương mại và chuyển sang biên tập sách toán cho
học sinh.
Ông
Long và tôi hẹn gặp nhau tại khách sạn của tôi. Ông bấm chuông và bước vào
phòng với vẻ lo lắng. Ông ngồi ở rìa ghế sofa, xin lỗi vì đến trễ, và cuối cùng
cũng đồng ý uống một ly bia. Trạc ngũ tuần, tóc đen phủ mái đầu vuông vắn, ông
Long mặc loại đồng phục thường gặp ở cán bộ Việt Nam: kính to tròn, áo sơ mi
trắng cộc tay với cây bút cài trên túi ngực, đồng hồ kim loại lủng lẳng ở cổ
tay, quần xám, và đi dép. Ông ngó quanh, như thể đang tìm thiết bị nghe lén, và
bắt đầu trả lời câu hỏi của tôi một cách vòng vo, một thói quen ngấm vào con
người trong một nhà nước cảnh sát.
Ông
Long học kĩ thuật ở Liên Xô cũ, chuyên ngành của ông là điều khiển học hoặc hệ
thống điều khiển lò phản ứng hạt nhân, đặc biệt là lò phản ứng hạt nhân ở Đà
Lạt mà Bắc Việt chiếm được sau khi Mỹ rút vào năm 1975. Tốt nghiệp Viện Kĩ thuật
Điện Moskva, ông Long đã tự học tiếng Anh trong năm năm sống ở Nga.
Sau
khi tán gẫu về việc ông chuyển từ điều khiển học sang lĩnh vực xuất bản, chúng
tôi bắt đầu nói về cuốn sách của tôi.
“Cuộc chiến về việc biên tập cuốn sách của ông khá gay go”, ông ta nói. “Tôi đã bị kẹt ở giữa, bị cả tác giả lẫn cấp
trên o ép. Chế độ nói rằng đây là cuốn sách nhạy cảm. Bạn có thể gặp nhiều rắc
rối nếu xử lý không phù hợp dự án kiểu này. Đấy là tất cả những điều tôi có thể
nói với ông.”
“Theo luật, ở Việt
Nam không có nhà xuất bản tư nhân”, ông Long nói. “Vì vậy, mỗi khi xuất bản sách, Nhã Nam đều phải liên kết với một nhà
xuất bản của nhà nước. Chúng tôi đã đưa cuốn sách của ông đến nhiều nhà xuất
bản, nhưng tất cả đều từ chối. Cuối cùng, Hồng Đức đã đồng ý cấp phép xuất bản.
Họ là một nhà xuất bản có thế lực.”
“Tại sao họ lại có
thế lực?”,
tôi hỏi.
Ông
Long cười ngượng ngập. “Cứ biết họ có thế
lực là được rồi. Tôi chỉ có thể nói thế thôi”. Sau đó tôi biết rằng Hồng
Đức thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông của Việt Nam, một trong những nhà kiểm
duyệt chính của nước này.
“Thế còn những đoạn
bị cắt?”,
tôi hỏi.
“Người dịch đã dịch
toàn bộ cuốn sách”,
ông ta nói. “Sau đó chúng tôi bỏ những
đoạn buộc phải bỏ. Chúng tôi không thể để nguyên như vậy. Xuất bản cuốn sách
của ông là việc rất khó. Phải kiểm duyệt rất nhiều đề tài, và không có cách nào
khác ngoài xóa hẳn.”
Khi
tôi đề nghị đưa ra ví dụ, ông nhắc đến đại tá Bùi Tín, người đã trốn ở lại Pháp
năm 1990 để phản đối tình trạng mất dân chủ tại Việt Nam, và Tướng Giáp, trước khi
qua đời năm 2013, người từng viết thư phản đối ảnh hưởng của Trung Quốc ở Việt
Nam. “Những vấn đề như thế thì mọi người
đều biết, nhưng không được phép đề cập”, ông nói. “Nếu chúng xuất hiện trong tác phẩm thì không thể có giấy phép xuất
bản.”
“Làm sao anh biết
cái gì cần kiểm duyệt, cái gì không?”
“Chúng tôi phải
biết. Chúng tôi quan sát. Có thể có người nghĩ khác, nhưng chúng tôi biết việc
mình cần làm. Nhiều việc phụ thuộc vào thời gian”, ông
ta nói. “Chúng tôi đã xuất bản một cuốn sách chống Trung Quốc của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Sau đó, khi các
nhà chức trách biết thì chúng tôi bị cấm xuất bản các đầu sách khác của Đức Đạt
Lai Lạt Ma. Nói chung, chúng tôi không thể công bố bất cứ điều gì xấu về Trung
Quốc. Ví dụ, chiến tranh biên giới năm 1979 giữa Việt Nam và Trung Quốc là đề
tài chúng tôi không được phép đề cập.”
Ông
Long ho lục cục sâu trong cổ họng. Ông từ chối ly bia thứ hai. Một lần nữa ông
nhìn quanh phòng, nhưng không tìm thấy gì khiến ông trông đỡ khổ sở hơn.
“Kiểm duyệt thường
kín tiếng”,
ông bảo. “Dù không chính thức bị cấm,
nhưng tất cả các cuốn sách đã xuất bản đều có thể đột nhiên biến mất khỏi
quầy.”
“Xuất bản cuốn sách
của ông là việc rất khó”, ông nhắc lại một lần nữa. “Đây là cuốn sách khó khăn nhất đối với tôi.”
Tôi
hỏi ông Long có phải là đảng viên không. Ông thì không, nhưng anh trai của ông
là đảng viên. “Vào Đảng thì được nhiều
quyền lợi chính trị”, ông nói. “Nó
giúp người ta thăng tiến trong các cơ quan nhà nước”.
Ông
không chịu uống một ly bia nữa và bảo bây giờ phải đi lấy xe máy rồi về nhà.
Ông chúc mừng tôi về việc cuốn sách của tôi đã ra mắt.
“Đấy thật ra không
phải là cuốn sách của tôi”, tôi nói và nhắc đến bốn trăm đoạn đã bị cắt xén.
“Bốn trăm không phải
là quá nhiều”,
ông nói. “Chúng tôi có một thành ngữ bằng
tiếng Việt: ‘Đầu xuôi đuôi lọt’. Trong lần tái bản tới, có thể một số đoạn sẽ
được phục hồi.”
Khi
lách nhanh ra khỏi cửa, ông Long có vẻ lo lắng vì đã nói quá nhiều trong cuộc
gặp gỡ ngắn ngủi của chúng tôi. Tôi chúc ông thành công trong công việc mới của
mình. “Lương khá hơn”, ông khẳng định
với tôi như thế.
VIỆT
NAM HỌC
Sáng
hôm sau, lên taxi đến Quận Cầu Giấy ở phía Tây thành phố, tôi đi qua nhiều hồ
nước rải rác khắp trung tâm Hà Nội để đến một đại lộ ba làn đường, trụ sở của
Nhã Nam chiếm trọn một tòa nhà cổ có những cửa chớp mở ra ban công với lan can
sắt bên ngoài. Đã mười giờ sáng, một tấm màn màu xám nóng và ẩm trùm lên thành
phố. Cửa hàng sách ở tầng trệt của Nhã Nam đầy những bản dịch Proust, Kundera,
Nabokov, và tôi thích thú khi thấy một chồng sách của tôi đặt cạnh Lolita.
Tôi tự giới thiệu với lễ tân và được dẫn lên lầu để gặp Nguyễn Nhật Anh, Giám
đốc công ty, và Vũ Hoàng Giang, Phó Giám đốc. Tối hôm trước tôi đã gặp ông
Giang. Ông đến dự buổi nói chuyện của tôi ở Cinematheque Hà Nội mà tôi không
biết trước và sau đó thì ông ra gặp tôi và tự giới thiệu về mình. Khi ông Giám
đốc Nhã Nam tặng tôi một bó hoa sen màu tím, tôi bỗng e rằng những nhận xét của
tôi tối hôm trước có thể là quá bộc trực.
Nguyễn Nhật Anh, một người đàn ông
mảnh khảnh mặc chiếc áo thun đen, quần jeans, đi dép, trông như một người suốt
ngày lê la ở quán cà phê hơn là tổng biên tập của một nhà xuất bản lớn. Nổi
tiếng vì sự thính nhạy về văn chương, ông Anh ngồi làm việc tại một cái bàn đầy
sách và bản thảo. Cộng sự của ông, ông Giang, mặc một chiếc áo polo hở cổ, là
một người cao lớn, đẹp trai, với nụ cười sẵn sàng trên môi và một hình xăm nhỏ
ở cổ tay trái. Tôi hình dung là trong công việc của công ty, ông Anh chịu trách
nhiệm về học thuật còn ông Giang thì phụ trách khâu bán hàng. Sau này tôi mới
biết rằng nhiều bản thảo chất đống trên bàn làm việc của ông Anh thực ra là các
hợp đồng xuất bản, trong khi ông Giang có sở thích văn học riêng, và, quả thật,
là người đã thu xếp để cuốn sách của tôi được xuất bản.
Cô Thu Yến, biên tập viên mà
tôi đấu khẩu trong suốt mấy năm qua, không được mời tham dự cuộc họp này. Cô
vẫn ngồi làm việc ở phòng hợp đồng, trong khi một người phiên dịch khác đã được
thuê cho buổi họp này – đấy là một người phụ nữ Việt Nam còn trẻ, từng làm quản
lý văn phòng tại một công ty luật của Mỹ. Trong khi ông Anh có dáng bác học và
ông Giang lúc nào cũng mỉm cười, thảo luận về sự tế nhị của ngành xuất bản ở
Việt Nam thì phần dịch của người phụ nữ trẻ cứ ngắn dần, ngắn dần và cuối cùng
gần như bỏ hẳn, không dịch nữa. May là, tôi đã mang theo người phiên dịch của
mình và sau đó, buổi chiều, chúng tôi phải mất vài giờ để dựng lại cuộc nói
chuyện.
Tôi
ngồi lên chiếc đi-văng trong văn phòng của ông Anh. Bên ngoài cửa chớp, ve sầu
trên cây ồn ào kinh người. Ông Giang đã báo trước với tôi trong một email về “hệ thống kiểm duyệt chặt chẽ và khá nặng
tay của các nhà xuất bản quốc doanh ở Việt Nam. Ông không thể hình dung được
hết đâu”. Tôi được mời một tách trà xanh và sau đó chúng tôi bắt đầu thảo
luận về kiểm duyệt nói chung ở Việt Nam và cụ thể là trong trường hợp của tôi,
kiểm duyệt được thực hiện như thế nào.
Ông
Anh nói trước, trả lời dài dòng, trang trọng cho các câu hỏi của tôi, sau đó
ông Giang tiếp tục, khi ông Anh quay sang chiếc máy pha cà phê espresso để cạnh
bàn làm việc và pha cho mình một tách. Tôi định xin cho mình một tách nhưng
quyết định làm người lịch sự và tiếp tục uống trà. Ông Anh miêu tả cách thức mà
các nhà kiểm duyệt kiểm soát cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất. Ví dụ các nhân
vật chính trị phải được kính trọng. Không được gọi người sáng lập nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa là Hồ Chí Minh. Mà phải gọi là Bác Hồ – để cùng một lúc Bác
vừa là một nhân vật lịch sử, vừa là người thân trong các gia đình Việt Nam.
“Kiểm duyệt là một
vấn đề rất nan giải”,
ông Anh nói. “Trong thực tế, chúng tôi
không có một hệ thống hoặc một bộ quy tắc để thực hiện nó. Chúng tôi chỉ biết
rằng nhiều nhà xuất bản không dám ra cuốn sách của ông.”
Các
cửa ra vào và cửa sổ trong phòng của ông Anh mở ra một hàng hiên nhìn ra đường
phố, nhưng chúng vẫn bị đóng kín để khỏi nóng. Ngoài cái bàn, chất đầy sách vở,
và một bàn cà phê, còn chất nhiều sách vở hơn, trong phòng không còn gì ngoài
chiếc đi-văng mà tôi đang ngồi và những bức tường màu xanh trần trụi.
“Cùng chủ đề này đã
có một cuốn khác được xuất bản, nên chúng tôi nghĩ mình sẽ có cơ hội hơn”, ông nói. “Chúng tôi tin chắc rằng có thể in được cuốn
sách của ông.”
Tôi
hỏi ông Anh vì sao lại giao cuốn sách cho một người miền Bắc dịch, có thể người
đó không hiểu những sự tế nhị và thậm chí cả những câu đùa của nhân vật chính
là người miền Nam.
“Sự khác biệt cũng
như trong âm nhạc thôi”, ông ta nói. “Các
ca sĩ cùng hát một bài, nhưng diễn tả theo những cách khác nhau. Khi dịch cuốn The Things They Carried (Những thứ họ
mang) của Tim O’Brien, chúng tôi đã cố gắng dùng đúng phương ngữ miền Nam.
Nhưng trong trường hợp của ông, chúng tôi nghĩ đây là một cuốn sách chính trị,
không phải là tác phẩm hư cấu. Độc giả của loại sách này là người miền Bắc, và
phải làm sao cho nó dễ hiểu đối với họ.”
Tôi
đề nghị Anh và Giang nói cụ thể hơn về việc kiểm duyệt cuốn sách của tôi. Họ
thuật lại quá trình mà bây giờ ai cũng biết, bắt đầu là việc dịch, do một người
rất hiểu nguyên tắc của cuộc chơi này phân công. Sau đó chuyển bản thảo đến
biên tập viên, người sẽ loại bỏ tất cả những phần “nhạy cảm”.
“Làm sao ông ấy biết
phải loại bỏ cái gì?”
“Đấy là công việc
của ông ấy mà”,
ông Anh nói. “Ông Long là chuyên gia về
cơ chế kiểm soát, người ta gọi là điều khiển học, và những nguyên tắc tương tự
áp dụng vào văn học. Trong kiểm duyệt xuất bản có một số cơ chế kiểm soát đã
biết, nhưng cũng có rất nhiều cơ chế chưa biết. Chúng tôi dựa vào kinh nghiệm
của biên tập viên trong việc cắt cúp các bản thảo. Anh ta biết cái gì có thể
không qua được kiểm duyệt.”
“Tiến trình đó đầy
nguy hiểm, không chỉ với tác giả mà còn với nhà xuất bản”, ông Anh nói. Đang
nói chuyện thì ông ta tụt dép ra và để chân trần xuống nền gạch cho mát. Trên
đầu, cái quạt trần lùa không khí nóng bức vòng quanh căn phòng. Mùa Xuân này,
nhiệt độ ở Hà Nội lúc nào cũng hơn 37 độ.
Ông
Anh kể cho tôi nghe câu chuyện về tập thơ của Trần Dần, được Công ty xuất bản
năm 2006. Từ khi dính vào vụ Nhân văn-Giai phẩm hồi những năm 1950, tất cả các
tác phẩm của Trần Dần đều bị cấm. Đó là phiên bản Cách mạng Văn hóa của Mao
Trạch Đông theo kiểu Việt Nam, tức là thanh trừng các nhà văn, nghệ sĩ, nhạc sĩ
và những người bị liệt vào danh sách đen, bị bỏ tù, và bị cấm đoán suốt 50 năm.
Một trong những nghệ sĩ đó là Văn Cao, năm 1945 đã sáng tác bài Quốc ca của
Việt Nam. Từ 1957 đến 1986, người Việt thấy mình rơi vào tình huống khá kì
quặc: được phép chơi nhạc bài Quốc ca do Văn Cao sáng tác, nhưng không được
hát. Mãi đến khi một số từ được thay thì Quốc ca mới được hát trở lại. Văn Cao
đã ngừng sáng tác từ lâu, và bằng cách đó, ông đã gia nhập đội ngũ những nghệ
sĩ Việt Nam bị buộc phải im tiếng hay lưu đày – từ những năm 50 đến nay có hàng
trăm người như thế.
Mao
đã chết từ lâu và Cách mạng Văn hóa của ông ta đã mất uy tín, Nhã Nam nghĩ rằng
bây giờ in tác phẩm của nhà thơ Trần Dần thì cũng an toàn. Họ có được giấy phép
của một nhà xuất bản quốc doanh ở Đà Nẵng và in một tuyển tập thơ của ông, khi
những biện pháp cấm đoán có phần nới lỏng. “Cảnh
sát đến hội chợ sách và tịch thu toàn bộ sách của chúng tôi”, ông Anh nói. “Sau đó họ lục soát văn phòng của chúng tôi
và tiêu hủy nhiều hơn nữa. Thật kinh hoàng. Chúng tôi đã tưởng sẽ bị đóng cửa
và ngừng kinh doanh.”
“Điều gì đã xảy ra
vậy?”
Tôi hỏi.
Ông
Anh hạ thấp giọng và nhắc đến tên của một cơ quan là A25.
“Bây giờ là A87”, ông Giang sửa lại.
Nhiều
cơ quan chính quyền tên bắt đầu bằng chữ A, viết tắt của “an ninh”, và A25 –
nay là A87, Cục An ninh Thông tin Truyền thông thuộc Bộ Công an – là bộ phận
làm việc với các nhà xuất bản.
“Gì thì cũng là An ninh
Văn hóa, gọi là Cục An ninh Văn hóa”, ông Anh nói.
“Địa chỉ của họ thế
nào?”,
tôi hỏi.
“Họ không có địa chỉ
đâu”,
ông ta nói, ngụ ý họ có mặt khắp nơi. Rồi bằng những câu ngắn gọn, hai người
trao đổi với nhau về điều đã xảy ra. Cuộc trao đổi này không được dịch.
“Không có một tổ
chức duy nhất nào chịu trách nhiệm kiểm duyệt”, ông Anh nói. “Việc đó liên quan đến rất nhiều người”.
Một lần nữa, ông nhắc đến Bộ Công an.
Ông
Giang nói đến Bộ Thông tin và Truyền thông. “Đó
là cơ quan phụ trách xuất bản”, ông ta nói.
Ông
Anh đưa thêm vào danh sách này cơ quan an ninh quốc gia và các tổ chức khác. “Nó giống như một đám mây”, ông ta nói. “Họ có mặt khắp nơi.”
“Thường thì họ không
bắt biên tập viên”,
ông ta nói. “Chỉ những người cầm bút bị
bắt thôi, nhưng, nói chung, biên tập viên biết trước khi nào mình sẽ gặp rắc
rối.”
Tôi
đề nghị họ nói cụ thể hơn về việc kiểm duyệt trong quá trình xuất bản cuốn sách
của tôi. Và thế là lần đầu tiên tôi được nghe nhắc đến Nguyễn Thế Vinh. Ông Vinh là người chốt danh sách những đoạn phải
cắt trong cuốn sách của tôi và cấp giấy phép xuất bản. Nghe hai người kia nói,
tôi nghĩ ông Vinh là một trọng lượng đáng kể trong giới xuất bản. Vốn là cựu
giám đốc của nhiều công ty khác nhau, bây giờ ông Vinh làm biên tập viên ở Nhà
Xuất bản Hồng Đức, trực thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông. Nhà xuất bản này
không chỉ cấp phép xuất bản cuốn sách của tôi mà còn đưa biểu tượng của mình
lên trang bìa. Quả thật, trên bìa cuốn sách có hai biểu tượng: của Nhã Nam là
một cậu bé (hay cô bé) đang đọc sách trên lưng trâu, và của Hồng Đức là chữ H
trắng nằm trong chữ Đ đen.
Tôi
còn được biết một tình tiết thú vị nữa về ông Vinh. Ông là người xin giấy phép
xuất bản cho cuốn Perfect Spy (Điệp viên hoàn hảo) của Giáo sư Berman.
Bản dịch tiếng Việt tác phẩm này là cú bôi trơn cho cuốn của tôi, và còn ai có
thể làm tốt hơn ông Vinh, người từng làm công việc tương tự trước đó.
Trong
khi ông Anh pha cà phê thì ông Giang tiếp tục câu chuyện. “Cuốn sách của ông đã bị năm hoặc sáu nhà xuất bản từ chối”, ông
ta nói. “Các nhà xuất bản khác từng ngó
qua thì lại muốn sửa chữa, thay đổi rất nhiều. Họ cứ đòi phải cắt thêm, thêm
nữa. Chúng tôi phản đối những đoạn sữa chữa đó, cho đến khi Nguyễn Thế Vinh
đồng ý xuất bản.”
“Thế ông ta đòi sửa những gì?” tôi hỏi.
Ông
Anh đi đi lại sau cái bàn viết. Ông Giang nhíu mày, khiến mặt ông sầm xuống. “Lúc nào gặp ông Vinh, xin ông không
đưa ra những câu hỏi quá cứng rắn”, ông ta nói. “Nó có thể ảnh hưởng đến ông Vinh và cơ hội để cuốn sách của ông vẫn
được bày bán.”
“Ai đề nghị ông Vinh
tham gia vào việc này?”, tôi hỏi.
“Ông Giang đã tiếp
cận với ông ấy”,
ông Anh nói. Tôi có thể thấy hai vị này đang lo vì đã tiết lộ với tôi hơi quá
nhiều chi tiết như vậy. Bây giờ, cả hai ngồi, tay khoanh trước ngực.
“Nhà Xuất bản Hồng
Đức muốn viết lời giới thiệu cho tác phẩm của ông”, ông Anh nói. “Nhưng chúng tôi đã bác bỏ đề xuất đó.”
Tôi
có thể tưởng tượng ra bài giới thiệu của Hồng Đức, là sự lặp lại của những mỹ
từ thường gặp về Phạm Xuân Ẩn, một điệp viên “hoàn hảo”, một cán bộ cộng sản
không chút tì vết, nhưng vẫn gặt hái biết bao tung hô từ những người phương Tây
hâm mộ. Tôi thành thật biết ơn các biên tập viên đã giải thoát tôi khỏi cú khó
xử đó.
“Ông Vinh đã đứng ra
nhận trách nhiệm cá nhân đối với việc xuất bản tác phẩm này của ông”, ông Anh nói.
“Ông muốn nói là,
tuy vậy nó vẫn có thể bị kiểm duyệt?”
“Cuốn sách của ông
có thể bị tịch thu vào ngày mai”, ông ta nói. “Không ai biết rắc rối có thể đến từ đâu. Chúng tôi chưa thấy bất kỳ dấu
hiệu tiêu cực nào, nhưng bao giờ cũng có một ai đó có thể tìm thấy những chỗ
‘nhạy cảm’ trong một cuốn sách nào đó.”
“Các ông muốn tôi
tránh đề cập đến những đề tài nào khi tôi còn ở Việt Nam?”, tôi hỏi.
“Xin ông nhớ cho
rằng ông Vinh có danh tiếng và sự nghiệp”, ông Anh nói.
Bây
giờ mọi người đều đã biết quan điểm của tôi
về kiểm duyệt
– một công việc
xấu xa mà kẻ
mạnh dùng để
lừa kẻ yếu
nhằm bảo vệ
quyền lợi của
mình. Tôi không
cần phải nhắc
lại những điều
đã nói.
“Ông không nên quá
thẳng thắn với ông Vinh”, ông Anh nói. “Ông
ấy chỉ làm theo chỉ đạo của nhà xuất bản.”
“Ông cũng nên biết
rằng cuốn sách của ông là một thực thể sống”, ông Giang nói. “Nó có thể được tái bản, lần sau có thể bổ sung những đoạn bị cắt trong
phiên bản đầu tiên.”
Tôi
đảm bảo với ông Anh và ông Giang rằng tôi sẽ cố hết sức mình để không xúc phạm
bất cứ ai. Hai ông này đều biết rằng cuốn sách của tôi trong phiên bản tiếng
Việt không bị kiểm duyệt sẽ được phát hành trên Internet.
“Hiện nay ở Việt Nam
chúng tôi không có tiêu chuẩn nào cả”, ông Giang nói. “Chúng tôi không biết quyền của mình là gì, mà cũng không biết kiểm
duyệt đang đi theo hướng nào. Nhưng hệ thống của chúng tôi đang thay đổi. Chúng
tôi hy vọng ông hiểu rằng chúng tôi có thể cải thiện. Có thể làm tốt hơn. Chúng
tôi đang học cách hoạt động trong môi trường xuất bản quốc tế.”
“Nếu cuốn sách của
ông được tái bản, chúng tôi muốn khôi phục các chi tiết bị cắt”, ông ta nói. “Ông có quan điểm tích cực về Việt Nam. Mọi
người đều biết như thế. Vì vậy, chúng tôi mong ông hãy kiên nhẫn. Hãy cho chúng
tôi thời gian để giải quyết mọi việc. Mọi người coi ông là một chuyên gia về
Việt Nam, một nhà phê bình, đôi khi là một nhà phê bình cứng rắn, nhưng công
bằng. Việt Nam học – đó có thể
là từ thích hợp đối với những việc ông đang làm.”
“Mỗi năm các ông
xuất bản bao nhiêu cuốn sách ‘có vấn đề’?”, tôi hỏi.
“Trong nghề này,
chúng tôi thường xuyên làm việc với những cuốn sách phức tạp”, ông Anh nói. “Nghề này nó vậy. Nhưng cuốn của ông là một
trường hợp đặc biệt. Đây là cuốn khó nhất. Tôi đã định bỏ. Tôi nghĩ rằng chẳng
có hi vọng gì. Tôi là người nóng tính, và cuốn này lại quá khó. Tôi đã buông
tay. ‘Cuốn sách này sẽ không bao giờ được xuất bản!’ Tôi nói. Nhưng, các đồng
nghiệp của tôi kiên nhẫn hơn tôi. ‘Hãy đợi’, họ bảo tôi. ‘Hiện vẫn còn cơ hội’.
Nhờ ông Giang và bà Thu Yến mà cuốn sách của ông mới xuất hiện đấy. Họ là những
người kiên trì.”
“Tôi thấy mình như
một con tin kẹt giữa hai đội quân đang giao chiến vậy”, ông Anh nói. “Tôi bị bắn từ cả hai hướng. Tác giả thì
phản đối cắt cúp. Các nhà kiểm duyệt thì đòi cắt. Có những tác giả hiểu cách
hoạt động của hệ thống này, ví dụ như Milan Kundera. Ông ấy từng sống dưới chế
độ kiểm duyệt. Ông ấy hiểu vấn đề của chúng tôi và đồng ý để chúng tôi làm
những việc cần làm khi chúng tôi xuất bản sách của ông ấy. Nếu ông động viên
chúng tôi thì sẽ có lợi hơn.”
“Thay mặt nhà xuất
bản, chúng tôi muốn nói với ông rằng chúng tôi vui mừng vì cuốn sách của ông đã
được xuất bản”,
ông Giang nói. Tôi ngờ rằng ông ta lấy làm tiếc vì đã so sánh tôi không hay ho
gì với Milan Kundera. Thực ra, tôi thấy thật tức cười khi một người tị nạn từ
nước Tiệp Khắc cộng sản sẵn lòng chấp nhận bị kiểm duyệt ở nước Việt Nam cộng
sản.
“Đây không phải là
lần đầu tiên Việt Nam và Hoa Kỳ tham gia vào những cuộc đàm phán khó khăn”, tôi nói. Ông Anh và
ông Giang thích câu nói đùa này. “Tôi rất
mừng vì chúng ta đạt được một kết cục vui vẻ”. Chúng tôi bắt tay nhau, và
sau đó người ta đề nghị tôi ngồi tại bàn của ông Anh để ký sách tặng các nhân
viên của Nhã Nam. Xem ra, mọi người trong công ty đều muốn có một cuốn – biết
đâu trước khi nó biến khỏi kệ. Suốt giờ ăn trưa người ta còn tiếp tục mang sách
vào phòng của ông Anh để tôi ký.
(Còn
1 kì)
Bản
tiếng Việt “Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam”
Copyright © 2014 Phạm Nguyên Trường & pro&contra & Thomas A. Bass
Copyright © 2014 Phạm Nguyên Trường & pro&contra & Thomas A. Bass
Bài liên quan:
Phạm Thị Hoài - Cuốn sách về một điệp viên không hoàn hảo
Thomas A. Bass - Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (1)
Thomas A. Bass - Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (2)
Phạm Thị Hoài - Cuốn sách về một điệp viên không hoàn hảo
Thomas A. Bass - Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (1)
Thomas A. Bass - Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam (2)
No comments:
Post a Comment